GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
CHÚA NHẬT 9/7/2006 TUẦN XIV THƯỜNG NIÊN |
? Cử Hành Ngày Họp Thế Giới Các Gia Đình ở Tây Ban Nha 8-9/7/2006: Huấn Từ của Giáo Hoàng Biển Đức XVI - “Ý nghĩa đời sống hôn nhân gia đình theo dự án của Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng và là Đấng Cứu Tinh”
? Thế Giới Hồi Giáo với Hiện Tượng Khủng Bố Hiện Đại và Nỗ Lực Đối Thoại của Giáo Hội Công Giáo - Bài 9: Morocco là nơi Kitô hữu và Hồi hữu có thể sống với nhau
? Ngày của Chúa – Dies Domini: Giữ thánh hảo” bằng “việc tưởng nhớ” - Từ Ngày Hưu Lễ đến Chúa Nhật
Cử Hành Ngày Họp Thế Giới Các Gia Đình ở Tây Ban Nha 8-9/7/2006: Huấn Từ của Giáo Hoàng Biển Đức XVI - “Ý nghĩa đời sống hôn nhân gia đình theo dự án của Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng và là Đấng Cứu Tinh”
Tối Thứ Hai 6/6/2005, tại Đền Thờ Gioan Latêranô, ĐTC Biển Đức XVI đã khai mạc hội nghị được Giáo Phận Rôma tổ chức về đề tài: “Gia Đình và Cộng Đồng Kitô Hữu: Việc Huấn Luyện Con Người và Việc Truyền Đạt Đức Tin”. Ngài đã chia sẻ về “ý nghĩa đời sống hôn nhân gia đình theo dự án của Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng và là Đấng Cứu Tinh”. Sau đây là nguyên văn huấn từ của ngài.
Anh Chị Em thân mến:
Tôi rất hân hoan chấp nhận lời mời đến để khai mạc hội nghị giáo phận này bằng bài suy niệm, trước hết, là vì nó cho tôi cơ hội để gặp gỡ anh chị em, để được trực tiếp giao tiếp với anh chị em, cũng như bởi vì nó cho tôi có thể giúp anh chị em suy nghĩ hơn nữa về ý nghĩa và mục tiêu của chương trình mục vụ đang được Giáo Hội Rôma thực hiện…
(3 đoạn tiếp theo ĐTC dùng để chào hỏi và nói về việc Giáo Hội Rôma với các chương trình mục vụ của giáo phận này).
Hai năm nay, việc dấn thân truyền giáo của Giáo Hội Rôma đã tập trung hơn hết
vào gia đình, chẳng những bởi vì thực tại nồng cốt của nhân loại này ngày nay
đang gặp phải vô vàn những khó khăn và đe dọa, nên đặc biệt cần phải được cụ thể
truyền bá phúc âm hóa và đỡ nâng, mà còn vì các gia đình Kitô giáo là những gì
tạo nên một nguồn mạch quan trọng cho việc giáo dục đức tin, việc xây dựng Giáo
Hội như mối hiệp thông cùng với khả năng hiện diện truyền giáo của Giáo Hội
trong hầu hết những hoàn cảnh khác nhau nhất của đời sống, làm dậy lên một cảm
quan Kitô giáo nơi văn hóa và nơi các cấu trúc xã hội.
Chúng ta cũng sẽ tiếp tục theo những hướng dẫn ấy trong năm mục vụ tới đây, mà vì vậy mới có đề tài cho hội nghị của chúng ta đây là “Gia Đình và Cộng Đồng Kitô Hữu: Việc Huấn Luyện Con Người và Việc Truyền Đạt Đức Tin”. Giả thiết mà người ta cần phải có để bắt đầu hiểu được sứ vụ của gia đình nơi cộng đồng Kitô hữu cũng như những nỗ lực của nó trong việc đào luyện con người và truyền đạt đức tin, mãi mãi liên tục phải là cái ý nghĩa của hôn nhân và gia đình theo ý định của Thiên Chúa là Đấng Hóa Công và là Đấng Cứu Độ. Đó là những gì chính yếu được tôi chia sẻ chiều hôm nay, căn cứ vào giáo huấn của tông huấn ‘Familiaris Consortio’ (Phần 2, các khoản số 12-16).
Nền tảng nhân loại học của gia đình
Hôn nhân và gia đình không phải là những cấu trúc xã hội học thời trang vậy thôi,
sản phẩm của một tình trạng đặc biệt về lịch sử và kinh tế. Trái lại, vấn đề
liên hệ giữa người nam và người nữ được bắt nguồn từ yếu tính sâu xa nhất của
con người, và mối liên hệ này chỉ có thể tìm được giải đáp nơi yếu tính căn gốc
này mà thôi. Nó không thể nào tách rời khỏi vấn đề luôn cổ lại luôn mới này của
con người về chính bản thân mình: Tôi là ai? Và vấn nạn này cũng không thể tách
khỏi vấn nạn về Thiên Chúa: Thiên Chúa có hiện hữu hay chăng? Và Thiên Chúa là
Đấng nào? Dung nhan của Ngài ra sao? Câu trả lời cho hai vấn nạn này là những gì
đồng nhất và tất yếu, ở chỗ: Con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên
Chúa, và chính Thiên Chúa là tình yêu. Đó là lý do, ơn gọi yêu thương là những
gì làm cho con người thực sự là hình ảnh của Thiên Chúa: Họ trở nên như Thiên
Chúa ở mức độ họ trở thành một kẻ biết yêu thương.
Từ mối liên kết căn bản này giữa Thiên Chúa và loài người mới phát xuất một mối liên kết khác, đó là mối liên kết bất khả phân ly giữa tinh thần và thể xác. Thật vậy, con người là hồn sống được diễn đạt mình nơi thân xác và thân xác được sống động bởi tinh thần bất tử. Bởi thế, có thể nói rằng thân thể của người nam và người nữ có tính cách thần học, nó không phải chỉ là thân thể, và những gì thể lý nơi con người không phải chỉ là thể lý mà là một biểu hiện và viên trọn nhân tính của chúng ta. Tính dục của con người không phải là những gì thân cận với con người mà thuộc về con người. Chỉ khi nào tính dục được trọn vẹn nơi con người nó mới đạt được ý nghĩa của việc ban tặng chính mình
Nhờ thế, từ hai mối liên hệ này, mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa, và,
nơi con người, mối liên hệ giữa thân xác và tinh thần, xuất phát một mối liên hệ
thứ ba, đó là mối liên hệ giữa con người và cơ cấu. Tổng thể con người bao gồm
chiều kích thời gian, và tiếng ‘vâng’ của con người vượt ra ngoài giây phút hiện
tại, ở chỗ: nơi tổng thể của mình, tiếng ‘vâng’ có nghĩa là ‘mãi mãi’, nó thuộc
về lãnh vực thủy chung. Chỉ ở nơi nội tâm của họ niềm tin này mới tăng trưởng là
những gì mang lại tương lai và giúp con cái là hoa trái của yêu thương có thể
tin tưởng nơi con người cũng như vào tương lai của mình khi gặp khó khăn.
Cái tự do của tiếng ‘vâng’ bởi thể hiện lên như thứ tự do có thể nắm bắt được
những gì là tối hậu, ở chỗ: Điều thể hiện tuyệt vời nhất của tự do bởi
đó không phải là việc theo đuổi tìm kiếm khoái lạc mà lại thiếu quyết định chân
chính. Hình như cái cởi mở thường xuyên này có vẻ là hiện thực hóa của tự do,
thế nhưng không phải thế, trái lại, đó là khả năng chọn lựa một tặng ân tối hậu
mà tự do khi hy hiến mình đi lại hoàn toàn được nên trọn vẹn.
Nói một cách cụ thể, tiếng ‘vâng’ của bản thân và với nhau giữa con người nam nữ là những gì cởi mở cho tương lai, cho một thứ nhân tính chân thực nơi mỗi người, đồng thời cũng nhắm đến cả việc trao tặng một sự sống mới nữa. Đó là lý do tiếng ‘vâng’ của bản thân này cần phải trở nên tiếng ‘vâng’ có một trách nhiệm chung, một trách nhiệm chung cần đôi phối ngẫu phải đảm nhận trong phận sự công khai trung thành với nhau, một lòng trung thành cũng bảo đảm cho cả tương lai của cộng đồng nữa. Không ai trong chúng ta hoàn toàn thuộc về bản thân mình. Bởi thế, mỗi người được kêu gọi để lãnh nhận nơi bản thân sâu xa của mình cái trách nhiệm chung này. Là một cơ cấu mà hôn nhân không phải là một thứ can thiệp bất xứng hợp của xã hội hay của các thẩm quyền, một áp đặt ngoại tại nơi một thực tại riêng tư nhất của đời sống; trái lại, nó là một nhu cầu nội tại của giao ước yêu thương phối ngẫu cũng như của nội tâm con người.
Những hình thức ly hôn khác nhau ngày nay, cũng như những cuộc tự do luyến ái sống chung với nhau và ‘những cuộc hôn nhân thử’, kể cả cuộc hôn nhân giả tạo giữa thành phần đồng phái tính, đều là những biểu hiện của một thứ tự do hỗn loạn, thứ tự do tiêu biểu sai lầm về một cuộc thực sự giải phóng con người. Thứ ngụy tự do như thế là thứ tự do được phát xuất từ việc làm cho thân thể trở thành thấp hèn, do đó là những gì chắc chắn cũng làm cho con người trở thành vô nghĩa nữa.
Thứ ngụy tự do ấy cho rằng con người có thể làm nên bản thân mình những gì họ thích: Bởi thế, thân thể của họ trở thành một cái gì đó thứ yếu, một cái gì đó có thể được mạo dụng theo quan điểm con người, một cái gì đó có thể được sử dụng tùy ý con người. Chủ nghĩa duy tự do, một thứ chủ nghĩa có vẻ như là những gì khám phá về thân thể cùng với những giá trị của nó, thực ra là một thứ nhị nguyên thuyết làm cho thân thể bị coi thường, có thể nói là loại nó ra khỏi cái hữu thể đích thực và phẩm vị con người.
Hôn Nhân và Gia Đình trong Lịch Sử Cứu Độ
Sự thật về hôn nhân và gia đình, một cơ cấu bắt nguồn sâu xa nơi sự thật về con người, đã có những ứng dụng trong lịch sử cứu độ, một lịch sử có cốt lõi là lời này: “Thiên Chúa yêu thương dân của Ngài”.
Thật vậy, mạc khải thánh kinh trước hết là một diễn tả về một tình sử, một tình sử giao ước giữa Thiên Chúa với con người. Đó là lý do Thiên Chúa đã có thể mặc cho tình sử và hôn sử của con người nam nữ theo hôn ước như là biểu hiệu cho lịch sử cứu độ. Giao ước bất khả xóa bỏ ấy, mầu nhiệm Thiên Chúa yêu thương con người ấy, mặc lấy hình thức ngôn ngữ học của mình từ ngữ vựng hôn nhân và gia đình, vừa tích cực lẫn tiêu cực, ở chỗ: việc Thiên Chúa đến với dân của Ngài được trình bày bằng ngôn ngữ yêu thương phối ngẫu, trong khi đó, việc bất trung của dân Do Thái, việc tôn thờ ngẫu tượng của họ, được diễn tả như việc ngoại tình và mại dâm.
Trong Tân Ước, Thiên Chúa làm cho tình yêu của Ngài sâu thẳm đến nỗi chính Ngài, qua Con của mình, hóa thành nhục thể bởi nhục thể của chúng ta, nên một con người thực sự. Như thế, việc Thiên Chúa hiệp nhất với con người đã mặc lấy hình thức tối hậu, bất khả đảo lộn và vĩnh viễn. Nhờ thế, hình thức vĩnh viễn này của tình yêu nhân loại cũng mới được diễn đạt, để tiếng “vâng” với nhau là những gì không thể vãn hồi. Hình thức vĩnh viễn này không gây tâm bệnh cho con người song giải thoát họ khỏi những tâm bệnh của lịch sử để đưa họ về với sự thật của việc tạo thành. Bởi thế, tính chất bí tích được hôn nhân mặc lấy trong Đức Kitô có nghĩa là tặng ân của việc tạo dựng đã được nâng lên mức độ ân sủng cứu chuộc. Ân sủng của Chúa Kitô không phải là những gì bị siêu áp đặt từ bên ngoài bản tính của con người, ân sủng của Người không phạm đến bản tính của họ, nhưng giải thoát và phục hồi nó, bằng việc nâng nó lên trên cả giới hạn của nó nữa. Như việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa cho thấy ý nghĩa đích thực của nó nơi thập giá thế nào thì tình yêu chân chính của loài người cũng việc trao tặng bản thân mình như thế; nó không thể hiện hữu nếu con người muốn tránh né thập giá ấy.
Anh Chị Em thân mến, mối liên kết sâu xa này giữa Thiên Chúa và con người, giữa tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu của con người, cũng được xác nhận bởi cả một số những khuynh hướng và diễn tiến tiêu cực nữa, những gì gây gây tác dụng làm cho tất cả chúng ta đều nghiệm thấy. Việc hạ giá tình yêu của nhân loại, việc khuynh đảo khả năng yêu thương chân chính thực sự trong thời đại của chúng ta đây đã cho thấy như là một thứ vũ khí sắc bén và công hiệu trong việc chà đạp Thiên Chúa, trong việc loại trừ Thiên Chúa khỏi ánh mắt và tâm can của con người. Tuy nhiên, ước muốn “giải phóng” thiên nhiên tạo vật của Thiên Chúa làm cho con người không còn nhìn thấy được chính thực tại của thiên nhiên tạo vật nữa, kể cả bản tính tự nhiên của con người, khi biến nó thành một thứ công cụ cho các phần hành được con người tùy tiện thực hiện theo sở thích, để xây dựng một thế giới được cho là tốt đẹp hơn và một nhân loại hạnh phúc hơn. Thế nhưng, trái lại, dự án của Đấng Hóa Công lại bị hủy diệt như sự thật về bản tính tự nhiên của chúng ta bị hủy diệt vậy.
Con Cái
Trong cả việc sinh sản con cái, hôn nhân cũng phản ảnh mô phạm thần linh của
mình, phản ảnh tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Nơi con người nam và
nữ, nơi tình phụ tử và mẫu tử, như xẩy ra với cả thân thể lẫn tình yêu, đừng để
cho chúng bị hạn hẹp vào thể lý: sự sống hoàn toàn được ban tặng chỉ khi nào,
qua việc sinh sản, tình yêu cùng với ý nghĩa làm cho tình yêu có thể chấp nhận
sự sống ấy được thể hiện. Chính vì thế mới thấy rõ được ngược nghịch đến mức nào
với tình yêu của nhân loại, với ơn gọi sâu xa của một người nam và một người nữ,
khi cuộc hiệp hôn không muốn trao tặng sự sống, hoặc tệ hơn nữa, muốn tiêu diệt
hay mạo dụng sự sống đang được cưu mang.
Tuy nhiên, không một con người nam hay nữ nào, theo quyền lực của mình và bởi quyền lực của mình, có thể trao ban yêu thương và ý nghĩa của đời sống một cách xứng hợp cho con cái của mình cả. Để có thể nói với một ai đó rằng: “cuộc sống của anh chị tốt đẹp, cho dù tôi không biết tương lai của anh chị ra sao cả”, cần phải có một thẩm quyền cao cấp cũng như uy tín là những gì cá nhân con người không thể tự mình cống hiến nổi. Thành phần Kitô hữu biết rằng thẩm quyền được ban cho gia đình lớn hơn được Thiên Chúa, qua Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, và tặng ân Thánh Linh, đã tác tạo trong lịch sử loài người, đó là cho Giáo Hội. Thẩm quyền đó nhìn nhận tác động của tình yêu vĩnh hằng và bất diệt này là những gì bảo đảm ý nghĩa vĩnh viễn cho đời sống của mỗi người chúng ta, cho dù chúng ta không biết được tương lai.
Đó là lý do việc xây dựng mỗi một gia đình Kitô hữu có liên hệ với đại gia đình Giáo Hội, một đại gia đình bảo trì nó và ấp ủ nó, cùng bảo đảm ý nghĩa cho nó, và trong tương lai sẽ được Đấng Hóa Công ‘chấp nhận’. Và, ngược lại, Giáo Hội được xây dựng bởi các gia đình, “những Giáo Hội tại gia”, như Công Đồng Chung Vaticanô II gọi như thế (“Lumen Gentium”, 11; “Apostolicam Actuasitatem”, 11), khi lập lại lời diễn tả của vị giáo phụ ngày xưa (Thánh John Chrysostom, “In Genesim serm, “VI,2; VII,1). Theo ý nghĩa này, tông huấn “Familiaris Consortio” khẳng định rằng “Hôn nhân Kitô giáo… là những gì tạo nên một chỗ tự nhiên cho việc con người được tháp nhập vào đại gia đình của Giáo Hội” (số 15).
Gia Đình và Giáo Hội
Từ tất cả những điều ấy phát sinh ra một hiệu quả hiển nhiên, đó là gia đình và Giáo Hội, nhất là các giáo xứ và các hình thức cộng đồng giáo hội, được kêu gọi hợp tác một cách hết sức chặt chẽ nơi nhiệm vụ căn bản là những gì được thiết lập nên, một cách bất khả phân ly, bởi cả việc giáo dục con người lẫn việc truyền đạt đức tin.
Chúng ta đã quá rõ là để nỗ lực giáo dục chân thực được thể hiện, việc truyền đạt một lý thuyết đúng hay một tín lý đúng cũng chưa đủ. Cần phải có những gì đó cao cả hơn và nhân bản hơn nữa - đó là việc gần gũi, được thể hiện hằng ngày, một việc gần gũi hợp với yêu thương và là việc gần gũi chiếm được vị thể thuận lợi nhất của mình, trước hết, trong cộng đồng gia đình, rồi sau đó trong giáo xứ, phong trào hay hội đoàn, trong những hội đoàn con người thấy được ai là người chú ý đến anh em của họ, đặc biệt là đến trẻ em và giới trẻ, cũng như đến thành phần người lớn, lão thành, bệnh nhân và chính các gia đình, vì, trong Chúa Kitô, họ yêu thương chúng. Vị đại quan thày của các nhà giáo dục là Thánh Gioan Bosco, đã nhắc nhở con cái tinh thần của ngài rằng “giáo dục là một điều gì đó của con tim và chỉ một mình Thiên Chúa mới là chủ nhân ông của nó” ("Epistolario," 4, 209).
Hình ảnh của vị chứng nhân là vấn đề then chốt trong nỗ lực giáo dục, nhất là vấn đề giáo dục đức tin, một đức tin là tuyệt đỉnh của việc hình thành con người và là chân trời xứng hợp nhất của họ, ở chỗ: vị chứng nhân ấy sẽ thực sự trở nên một cứ điểm ở mức độ nhờ đó con người có thể bênh vực cho niềm hy vọng làm nền tảng của đời sống họ (x 1Pt 3:15), và ở mức độ vị chứng nhân ấy tự mình gắn liền với sự thật được họ bày tỏ. Chưa hết, vị chứng nhân ấy không phải là những gì qui về mình mà về một điều gì đó, đúng hơn, về một vị cao cả hơn, Đấng họ đã được hội ngộ và cảm nghiệm như sự thiện hảo khả tín. Bởi thế, hết mọi nhà giáo dục và chứng nhân đều tìm thấy một mô phạm không ai hơn nơi Chúa Giêsu Kitô, Vị đại nhân chứng về Cha, Vị không nói gì về bản thân mình, nhưng nói hoàn toàn những gì được Cha truyền dạy (x Jn 8:28).
Bởi thế mà nơi nền tảng của việc huấn luyện con người Kitô hữu cũng như việc truyền đạt đức tin đó là việc cần phải nguyện cầu, cần phải sống thân tình với Chúa Kitô và phải chiêm ngưỡng nơi Người dung nhan của Chúa Cha. Những điều này cũng cần phải được áp dụng cho tất cả mọi việc dấn thân truyền giáo của chúng ta, đặc biệt là chương trình mục vụ về gia đình của chúng ta: chớ gì Gia Đình Nazarét, bởi thế, trở thành đối tượng nguyện cầu liên lỉ và tin tưởng, cũng như trở thành mô phạm sống cho gia đình và cộng đồng của chúng ta.
(Ngài tiếp tục một đoạn nữa với riêng các vị linh mục ở giáo phận Rôma về mục vụ giúp đỡ đời sống hôn nhân gia đình)
Hiểm Họa của Tương Đối Thuyết
Bởi thế, hãy tiếp tục, chứ đừng để mình bị chán nản trước những khó khăn anh em gặp phải. Mối liên hệ về giáo dục, tự bản chất của nó, là một cái gì đó tinh tế, ở chỗ, nó bao hàm tự do của người khác, thành phần mà, cho dù hiền lành đi nữa, cũng cần phải có quyết định. Dù là cha mẹ, linh mục, giáo lý viên, hay các giáo dục viên khác cũng không thể thay thế cho tự do của đứa trẻ, của em trai, của con người trẻ được họ hướng dẫn. Và văn kiện Kitô giáo đề cao tự do một cách hết sức mạnh mẽ, mời gọi tự do chấp nhận đức tin và thực hiện việc hoán cải. Ngày nay có một ngãng trở đặc biệt xảo quyệt đối với việc giáo dục đó là sự hiện diện hỗn loạn, trong xã hội của chúng ta cũng như trong văn hóa của chúng ta, một thứ tương đối thuyết là thuyết chẳng những không chấp nhận một sự gì là tối hậu lại còn lấy làm phương thức trên hết cái ‘tôi’ duy nhất của con người cùng với những ước muốn của họ, một thứ tương đối thuyết, dưới dạng thức tự do, trở thành ngục tụ giam nhốt mỗi người, khiến cho mỗi người thấy mình bị đóng kín trong cái ‘tôi’ của họ. Đó là lý do, trong một chân trời tương đối như thế không thể nào có vấn đề giáo dục thực sự nổi. Bởi vì: thiếu ánh sáng chân lý, không sớm thì muộn, mọi người thực sự sẽ đi đến chỗ ngờ vực cái thiện hảo nơi sự sống của mình cùng với những liên hệ dính dáng tới sự thật ấy, đến chỗ ngờ vực tính cách giá trị của việc họ dấn thân cùng với kẻ khác xây dựng một điều chung.
Bởi thế, rõ ràng là chúng ta chẳng những phải tìm cách thắng vượt tương đối thuyết nơi công cuộc đào luyện con người, chúng ta còn được kêu gọi để chiến đấu với vị thế chủ trị của nó trong xã hội và văn hóa của chúng ta nữa. Đó là lý do, vấn đề quan trọng ở đây là, cùng với lời giảng dạy của Giáo Hội, các gia đình Kitô hữu cũng cần phải thực hiện chứng từ và việc công khai dấn thân, nhất là để tái khẳng định tính cách bất khả vi phạm của sự sống con người từ khi được hoài thai đến khi tự nhiên qua đi, một giá trị đặc thù bất khả hoán của gia đình dựa trên hôn nhân và là nhu cầu cần có những biện pháp về lập pháp và hành pháp để nâng đỡ gia đình trong việc sinh sản và giáo dục con cái, một việc thiết yếu cho tương lai chung của chúng ta. Tôi cũng xin chân thành cám ơn việc dấn thân này của anh chị em.
Thiên Chức Linh Mục và Đời Sống Tận Hiến Tu Trì
Điều cuối cùng tôi muốn nói với anh chị em liên quan đến việc chú trọng tới các
ơn gọi làm linh mục và tận hiến tu trì. Tất cả chúng ta đều biết đến nhu cầu
hiện nay của Giáo Hội! Để làm cho các ơn gọi này nẩy sinh và chín mùi, để những
người được kêu gọi luôn giữ mình xứng đáng với ơn gọi của họ, thì trước hết cần
đến lời cầu nguyện; việc nguyện cầu không phải giờ bị thiếu sót nơi mỗi gia đình
cũng như nơi cộng đồng Kitô hữu. Thế nhưng, cũng rất cần nữa là chứng từ sống
của các vị linh mục, của thành phần tu sĩ nam nữ, niềm vui họ tỏ ra cho thấy họ
được Chúa kêu gọi. Và cũng thiết yếu nữa đó là gương mẫu trẻ em thấy được nơi
gia đình của chúng, cùng với niềm tin tưởng là ơn gọi của các em cũng là một đại
ân của Chúa ban cho các em. Việc chọn lựa sống đồng trinh vì kính mến Chúa và
mến yêu anh chị em, một chọn lựa mà thiên chức linh mục và đời sống tận hiến tu
trì đòi hỏi, là những gì song hành với việc cảm nhận về đời sống hôn nhân Kitô
giáo: qua hai hình thực khác nhau và bổ khuyết cho nhau, đời sống này hay đời
sống kia, ở một nghĩa nào đó, đều làm hiện thực mầu nhiệm giáo ước giữa Thiên
Chúa và dân Ngài”.
(Đoạn cuối cùng ĐTC chào chúc và ban phép lành)
Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2005/june/documents/hf_ben-xvi_spe_20050606_convegno-famiglia_en.html
Thế Giới Hồi Giáo với Hiện Tượng Khủng Bố Hiện Đại và Nỗ Lực Đối Thoại của Giáo Hội Công Giáo - Bài 9: Morocco là nơi Kitô hữu và Hồi hữu có thể sống với nhau
Qua cuộc phỏng vấn của cơ quan Chân Lý, ĐTGM Vincent Landel TGP Rabat Tây Ban Nha đã nói về việc ngài nỗ lực giúp cho 30 ngàn Kitô hữu thuộc giáo phận của ngài sống hợp hòa với những anh chị em Hồi giáo.
Vấn: Có thể nào xẩy ra được việc hiệp thông giữa Kitô hữu với tín đồ Hồi giáo hay chăng?
Đáp: Có. Chúng ta có thể chia sẻ nhân tính của mình, dù không chia sẻ đức tin của chúng ta. Chúng ta không nói nhiều đến vấn đề đối thoại liên tôn như là vấn đề hội họp, bởi vì, trước khi nói người ta cần phải gặp gỡ, cần phải cảm nghiệm được việc cùng nhau chung sống mang lại tình thân hữu và huynh đệ.
Sau đó chúng ta mới nói về đức tin của mình. Giáo Hội cần phải giúp vào việc tạo nên việc chung sống và tình thân hữu này, nhờ đó một ngày nào đó chúng ta thấy được một con đường mới mở ra.
Ở Âu Châu người ta nói nhiều về những người Hồi giáo, thế nhưng ai biết được họ là người thế nào và họ tin tưởng những gì? Ở Pháp và Ý chẳng hạn, người ta cảm thấy sợ hãi bất cứ điều gì về người Hồi giáo. Cần phải thay đổi ý nghĩ này. Không phải tất cả mọi người Hồi giáo đều là thủ cựu; họ đa số tỏ ra trung hòa.
Không có vấn đề đụng độ về tôn giáo mà là đụng độ vì không triệt thấu, một thứ đụng độ về chính trị và truyền thông. Nếu một vị giám mục Công giáo bị bắt cóc ở Iraq mọi người đều nói về sự kiện ấy. Thế nhưng, chính trị và tôn giáo bị lẫn lộn, ngay cả ở Hoa Kỳ đi nữa, chẳng hạn, khi George Bush nói về việc bắt đầu cuộc chiến tranh nhân danh Thiên Chúa. Đôi khi những gì nói lên phạm tới những tín đồ Hồi giáo mà Kitô hữu cũng nói, người ta không thể nào vơ đũa cả nắm.
Người ta cũng rất cần phải hiểu biết đức tin của mình để có thể hiểu biết đức tin của người khác. Kitô hữu chúng ta có trách nhiệm phải hiểu biết sâu xa về căn tính của mình và chấp nhận những người Hồi giáo. Tín đồ Hồi giáo chính thức là các tín đồ, thế nhưng, ở Âu Châu, nhiều người đã bỏ mất đức tin của họ.
Vấn:
Giờ đây chúng ta hãy nói đến một số sáng kiến trong giáo phận của ngài đã được
thực hiện để có thể làm phát triển mối hiệp thông này?
Đáp: Ở Morocco chúng tôi có một dự án giáo dục hỗn hợp Công giáo Hồi giáo bao gồm 15 trường học với con số 12 ngàn học sinh Hồi giáo, nơi giảng dạy Kinh Coran. Tôi, vị giám mục Công giáo, có thẩm quyền trên hết. Tình trạng hiệp thông vẫn diễn tiến ở đó chẳng có vấn đề gì hết.
Chúng tôi cũng có những trung tâm văn hóa, được điều hành bởi các vị linh mục và tu sĩ, những trung tâm được tín đồ Hồi giáo sử dụng. Nhờ đó, Giáo Hội giúp đỡ tín đồ Hồi giáo; chúng tôi cởi mở với thế giới Hồi giáo, một thế giới chấp nhận chúng tôi, vì tất cả tín đồ Công giáo chúng ta đều là những người ngoại quốc.
Ngoài ra, nhiều Kitô hữu hợp tác, học hỏi hay làm việc với các hiệp hội, với các thương vụ v.v. do người Hồi giáo điều hành. Đó là những kinh nghiệm rất tốt đẹp giúp chúng ta có thể hiểu biết những người Hồi giáo trong việc sinh hoạt thường nhật và thấy rằng có thể sống vui vẻ ở thế giới Hồi giáo.
Kinh nghiệm của chúng tôi là một Giáo Hội Công giáo ở Morocco không phải là những gì khuôn mẫu hay mô phạm. Nó thật ra cũng tương tự như Giáo Hội ở Âu Châu thôi, vì lãnh giới Hồi giáo có thể được so sánh với thế giới trần thế là nơi Giáo Hội cần phải hiện diện một cách dễ dàng, bằng việc cho họ thấy được đường lối chân thật, để giúp họ khám phá ra Thiên Chúa và tính cách quan trọng của tôn giáo trong đời sống của họ.
Vấn:
Giáo Hội ở Rabat ra sao?
Đáp: Chúng tôi gồm có 30 ngàn Kitô hữu, trong đó có 40 linh mục và 150 tu sĩ. Tất cả chúng tôi đều là người ngoại quốc, vì một người Morroco không thể là một tín đồ Kitô giáo nơi một nước mà Hồi giáo là quốc giáo này. Thế nhưng, các nhà thờ của chúng tôi vẫn mở cửa và chúng tôi không gặp trục trặc gì cả, miễn là chúng tôi không dụ giáo. Chúng tôi sống đức tin của mình một cách tự do thoải mái.
Giáo Hội của chúng tôi ở đây có tính cách công giáo khá nhiều, vì nó bao gồm thành phần dân chúng thuộc 80 quốc tịch khác nhau.
Trước khi được độc lập thì có nhiều người Công giáo hơn, đa số là người Pháp, Ý và Tây Ban Nha. Hiện nay có nhiều người Phi Châu, Hoa Kỳ và Á Châu, làm nên cả một thách đố khó khăn. Việc hiệp thông nơi Kitô hữu không phải là chuyện dễ, nhất là vì họ đến từ các nơi khác nhau như thế.
Một đặc tính khác của cộng đồng Kitô hữu chúng tôi ở đây đó là luôn luôn thay đổi. Hằng năm có khoảng 20% đổi thay, vì nhiều Kitô hữu, như sinh viên và lao động nhân, chỉ sống ở Rabat một thời gian thôi. Bởi thế, vấn đề rất quan trọng ở đây là chương trình mục vụ để đón nhận các Kitô hữu, để giúp họ sống đức tin của họ, cũng như để hiểu biết thế giới Hồi giáo là thế giới cần phải được hiểu biết để có thể cùng chung sống với họ.
Vấn: Có vấn đề kỳ thị ở đó hay chăng?
Đáp: Có những loại kỳ thị khác nhau. Ở Morocco chẳng hạn, một số người khó lòng chấp nhận được vấn đề bình đẳng của những người Phi Châu, trong khi đó họ đối xử với thành phần di dân Tây Ban Nha chỉ là một thiếu số lại bình đẳng.
Trái lại, những người Morocco di dân đến Tây Ban Nha sống ở một hoàn cảnh xã hội khác hẳn. Họ có một cảm quan mạnh mẽ thuộc về gia đình và cộng đồng văn hóa của họ hơn, và có nguy cơ hình thành một thứ hạ tầng văn hóa. Âu Châu không được để cho những người Hồi giáo hình thành nên “những khu biệt lập”.
Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL, dịch từ tài liệu của Zenit ngày 21/1/2005
Ngày của Chúa – Dies Domini: Giữ thánh hảo” bằng “việc tưởng nhớ” - Từ Ngày Hưu Lễ đến Chúa Nhật
Tông Thư Dies Domini của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
16. Mệnh
lệnh trong Thập Giới được Thiên Chúa truyền giữ Ngày Hưu Lễ được viết ra một
cách đặc biệt ở trong Sách Xuất Hành: “Hãy tưởng nhớ Ngày Hưu Lễ để giữ cho ngày
này thánh hảo” (20:8). Thế rồi bản văn này tiếp tục cho biết ly do tại sao như
thế, khi nhắc lại vì nó là công việc của Thiên Chúa: “Vì trong sáu ngày Chúa đã
tạo dựng nên trời đất, biển khơi cùng với tất cả những gì ở trong đó, rồi nghỉ
ngơi vào ngày thứ bảy; thế nên Chúa chúc lành cho ngày Hưu Lễ và làm cho ngày
này là ngày thánh” (câu 11). Trước khi truyền phải thực hiện một điều gì ấy,
mệnh lệnh này khuyên rằng hãy tưởng nhớ đến điều ấy. Nó là một lời mời gọi hãy
thức tưởng đến công cuộc cao cả và thiết yếu của Thiên Chúa là việc tạo dựng,
một thức tưởng cần phải tác động toàn thể đời sống đạo của con người để rồi tràn
đầy vào chính ngày con người được kêu gọi nghỉ ngơi. Bởi thế, nghỉ ngơi có một
giá trị linh thánh, ở chỗ, thành phần tín hữu được kêu gọi để nghỉ ngơi chẳng
những như Thiên Chúa nghỉ ngơi mà còn nghỉ ngơi trong Chúa nữa, mang toàn thể
tạo vật đến với Ngài, để chúc tụng và tạ ơn, thân mật như một đứa con và thân
tình như một người bạn đời.
17. Mối liên hệ giữa ngày Hưu Lễ và đề tài “tưởng nhớ” đến các kỳ công của
Thiên Chúa được thấy trong Sách Nhị Luật (5:12-15), là nơi chỉ thị này được căn
cứ ít vào công việc tạo dựng hơn là vào công cuộc giải phóng được Thiên Chúa
hoàn thành trong cuộc Xuất hành: “Các ngươi cần phải nhớ rằng các người là nô lệ
ở đất Ai Cập, và Chúa là Thiên Chúa của các người đã mang các người ra khỏi đó
bằng cánh tay uy quyền và mãnh liệt; thế nên Chúa là Thiên Chúa đã truyền các
người phải giữ ngày Hưu Lễ” (Deut 5:15).
Công thức này bổ túc cho công thức chúng ta đã thấy; nấu gom lại với nhau, cả
hai cho thấy ý nghĩa về “Ngày Của Chúa” trong một nhãn quan thần học duy nhất
phối nhập việc tạo dựng và việc cứu độ. Do đó, vấn đề chính yếu của mệnh thị này
không phải chỉ là một thứ ngưng nghỉ làm việc, mà là việc cử hành những kỳ công
Thiên Chúa đã thực hiện.
Vì “việc tưởng nhớ” này tồn tại, một tưởng nhớ đầy lòng tạ ơn và chúc tụng Thiên
Chúa, mà việc nghỉ ngơi của con người vào Ngày Của Chúa mới được đầy đủ ý nghĩa.
Bấy giờ con người mới đi sâu vào việc “nghỉ ngơi” của Thiên Chúa và mới cảm
nghiệm được nỗi phấn động nơi niềm hân hoan của Đấng Hóa Công, Đấng mà, sau khi
tạo thành, đã thấy tất cả những gì Ngài làm đều “rất tốt đẹp” (Gn 1:31).
18. Vì Giới Răn Thứ Ba lệ thuộc vào việc tưởng nhớ đến những công cuộc cứu
độ của Thiên Chúa, và vì Kitô hữu thấy thời điểm cuối cùng được Chúa Kitô khai
mở như là một khởi đầu mới, mà họ làm cho ngày đầu tiên này sau ngày Hưu Lễ
thành một ngày hội lễ, vì đó là ngày Chúa Kitô sống lại từ trong kẻ chết. Mầu
Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô là tất cả mạc khải về mầu nhiệm nguồn gốc của thế
giới, về tột đỉnh lịch sử cứu độ cũng như về niềm ngưỡng vọng việc trọn vẹn cánh
chung của thế giới. Những gì Thiên Chúa hoàn thành nơi Việc Tạo Dựng và thực
hiện cho Dân của Ngài trong cuộc Xuất Hành đều được hoàn toàn thể hiện nơi Cuộc
Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô, cho dù việc hoàn tất cuối cùng của những việc
ấy chưa kết thúc cho tới thời điểm Parousia là lúc Chúa Kitô trở lại trong vinh
quang. Nơi Người, ý nghĩa “thiêng liêng” của ngày Hưu Lễ được trọn vẹn hiện thực,
như Thánh Grêgôry Cả tuyên bố: “Đối với chúng ta, việc Hưu Nghỉ thực sự là con
người Đấng Cứu Thế của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô” (14). Đó là lý do tại sao
niềm vui được Thiên Chúa, vào ngày Hưu Nghỉ đầu tiên của con người, cảm thấy khi
chiêm ngưỡng tất cả những gì được tạo dựng nên từ hư không, giờ đây được thể
hiện nơi niềm vui được Chúa Kitô, vào Chúa Nhật Phục Sinh, tỏ lộ khi hiện ra với
các môn đệ, với tặng ân bình an và tặng ân Thần Linh (x Jn 20:19-23). Chính nơi
Mầu Nhiệm Vượt Qua mà nhân loại, cùng với toàn thể tạo vật “đang quằn quại rên
xiết cho tới nay” (Rm 8:22), nhận ra “cuộc xuất hành” mới của mình tiến vào niềm
tự do của con cái Thiên Chúa, thành phần có thể cùng với Chúa Kitô kêu lên
“Abba, Lạy Cha!” (Rm 8:15; Gal 4:6). Theo ý nghĩa của mầu nhiệm này, ý nghĩa của
chỉ thị Cựu Ước liên quan tới Ngày Của Chúa được phục hồi, hoàn hảo và hoàn toàn
tỏ hiện trong vinh quang phát tỏa trên dung nhan của Chúa Kitô Phục Sinh (x 2Cor
4:6). Chúng ta tiến từ “Ngày Hữu Lễ” đến “ngày thứ nhất sau ngày Hưu Lễ”, từ
ngày thứ bảy sang ngày thứ nhất: ngày của Chúa deis Domini thành ngày của Chúa
Kitô dies Christi!
(còn tiếp vào mỗi Chúa Nhật)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ văn khố điện toán toàn cầu của Tòa Thánh: