GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ SÁU 4/8/2006 TUẦN XVII THƯỜNG NIÊN |
? Ngưỡng Phục! Ngưỡng Phục!
? Do Thái Giáo là đạo không công nhận Chúa Kitô có thể thực hiện được việc Thứ Tha của Kitô Giáo và như Kitô Giáo hay chăng?
? ĐHY Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo Walter Kasper ngỏ lời cùng Thượng Nghị Tôn Giáo Moscow (3-5/7/2006)
Ngưỡng Phục! Ngưỡng Phục!
|
Giang Cát Sanh
là một vị linh mục thừa sai Pháp Quốc. Nhập Chủng Viện của Hội Thừa Sai ngày
7/9/1920. Ngày 19/12/1925 được thụ phong linh mục. Ngày 5/5/1926, ngài đã đến
Sài Gòn sau 30 ngày lênh đênh trên sóng nước. Ngày 18/11/1926, ngài nhận được
bài sai “về truyền giáo vùng đất mới Djiring”. Ngày 24/1/1927, ngài tới
một nơi mà bản đồ thời ấy ghi là “Đất Hoang, Bộ Lạc Mọi”. Chúa Nhật
30/1/1927, ngài dâng Thánh Lễ đầu tiên ở đây với 5 người duy nhất. Ngày
24/6/1941, ngài được tấn phong làm giám mục Sài Gòn. Ngày 19/12/1945, ngày kỷ
niệm thụ phong linh mục, cũng là ngày ngài khám phá ra mình đã bị nhiễm bệnh
phong. Ngày 2/12/1955, ngài đã trở về với đoàn con cái phong cùi của mình ở Di
Linh, cho tới khi qua đời, với khẩu hiệu: Yêu Thương và Bác Ái (Amor et
Caritas), chết như một người cùi giữa người phong!
Thật vậy, theo chúc thư của Đức Cha Giang Cát Sanh tại nhà tưởng niệm của Khu
Điều Trị Phong Di Linh, thì ngài đã quyết định thành lập Làng Cùi Di Linh hay
Trại Phong Di Linh (theo những tên gọi trước 1975), bởi vì, như ngài đã thú nhận:
“Tôi đã thấy họ trần truồng, la hét, đói khát, tuyệt vọng. Tôi đã thấy những
vết thương của họ lúc nhúc ruồi trong những túp lều dơ bẩn…”.
Sau thời gian tự học tiếng địa phương với chính những người thổ dân Thượng, xây
dựng một ngôi nhà thờ bằng những đồ thừa thãi trong vòng 3 tháng cho khoảng 50
tín hữu về làm công cho đồn điền trà của người Pháp, rồi thiết lập một ngôi nhà
trường mà ngài vừa là hiệu trưởng, giám thị, thày giáo, dạy đủ mọi tầng lớp học
sinh, và đích thân đi chữa trị bệnh hoạn, đặc biệt là bệnh sốt rét, cho dân
chúng trong vùng, ngài đã thấy xuất hiện những người cùi. Thế rồi, sau khi rửa
tội được cho một người đàn bà cùi trước khi bà chết vào ngày 7/12/1927, và rửa
tội hụt cho một người đàn ông bị cùi chết, vào cuối thu năm 1928, trên đường
thăm viếng một ngôi làng ở xa về, ngài đã gặp một đám người cùi sột soạt trong
các bụi cây, với những hình thù ghê rợn, không tay, thiếu mũi, mất môi, thân
mình trần trụi đầy mụn nhọt máu mủ.
Trên đường về, những tiếng kêu thương ai oán van xin giúp đỡ của nhóm cả chục
người này cứ vẳng vẳng bên tai ngài:
|
“Ông Lớn ơi, hãy cứu giúp chúng tôi! Chúng tôi cần đến ông! Chúng tôi khốn khổ lắm!... Xin hãy làm cho chúng tôi một cái gì. Xin hãy lo cho chúng tôi. Xin hãy lo cho chúng tôi. Chúng tôi khốn khổ lắm. Xin hãy xót thương chúng tôi”.
Thế là, mấy
ngày sau, ngài đã bắt đầu đích thân ra tay phát quang địa điểm sẽ trở thành Trại
Phong Di Linh. Tháng 3 năm 1929, địa điểm này đã có 16 ngôi nhà tranh, với 21
bệnh nhân, cần phải chăm sóc, cần phải nuôi ăn. Chúa Nhật 1/4/1929, ngài đã dâng
Lễ khánh thành ngoài trời ở giữa làng và mở tiệc liên hoan sau đó. Vào năm 1930,
con số bệnh nhân lên tới 36, ngài đã xin chính phủ giúp đỡ, và được chính phủ
bấy giờ trợ cấp 15 xu (chẳng đáng là bao nhiêu) cho một người mỗi ngày.
Vào Lễ Giáng Sinh 1931, ngài rửa tội cho 15 trẻ em, 7 đàn ông và 8 phụ nữ người
Srê. Sau đó ngài bị liệt giường, phải điều trị ở Sài Gòn ngày 27/12/1931 và về
Pháp chữa bệnh ngày 3/4/1932. Chỉ sau 9 tháng, ngài đã trở lại Di Linh ngày
4/3/1933. Vào năm 1938, số bệnh nhân tại đây lên tới 123, và Chúa đã sai người
tới giúp ngài, đó là 3 nữ tu thuộc dòng Nữ Tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn Phaolô người
Pháp. Cuối cùng nữ tu bề trên Labarra bỏ mạng vì bệnh sốt rét. Nữ tu Marie
Claire bị chết trong cuộc pháo kích ngày 23/8/1968. Nữ tu Laurence làm bề trên
cho tới năm 1975 và được tân chính quyền cộng sản Việt Nam trục xuất về Pháp.
(còn tiếp 1 kỳ)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
? Do Thái Giáo là đạo không công nhận Chúa Kitô có thể thực hiện được việc Thứ Tha của Kitô Giáo và như Kitô Giáo hay chăng?
(tiếp 3 Thứ Năm)
Vấn: Phải chăng lời thỉnh nguyện thứ tha của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II về những lầm lỗi gây ra bởi Kitô hữu trong lịch sử đặc biệt đối với người Do Thái là những gì khít khao với quan niệm về ‘việc hoán cải’?
Đáp: Tôi tin rằng cử chỉ của Đức Gioan Phaolô II là một cử chỉ hết sức cao cả và chúng ta cần phải mất nhiều thế kỷ mới cảm nhận được nó một cách thích đáng.
Thật sự là có một số Kitô hữu lấy làm bất mãn, và thậm chí có những người phàn nàn rằng không ai lại đi xin lỗi cả, chỉ có Kitô hữu chúng ta mới nhìn nhận lỗi lầm của mình thôi – chúc tụng Chúa! Nhờ việc xin tha thứ, không ai làm mất đi vị thể hay phẩm giá hết – trái lại là đằng khác.
Cử chỉ này cũng chẳng bao hàm việc tiêu cực nhìn lại 2000 năm lịch sử một cách nào đó. Trước hết, cuộc đại hỷ mừng kỷ niệm 200 năm lịch sử là một tác động tạ ơn về tất cả những gì Giáo Hội đã lãnh nhận trong giòng năm tháng cũng như về những gì Giáo Hội đã cống hiến cho thế giới, mà còn bao gồm cả những bất trung lớn lao, những lỗi lầm liên lỉ, việc bỏ bê xao lãng đáng than trách, và đó là lý do vị Giáo Hoàng này, nhân danh toàn thể Giáo Hội, đã xin Chúa thứ tha.
Tôi nghĩ rằng bất cứ ai thuộc truyền thống tôn giáo khác, nếu thấy cử chỉ này của Đức Gioan Phaolô II mà không mang thành kiến gì, đều nhìn thấy một cái gì đó tuyệt vời và hy vọng nơi nó.
Vấn:
Cuộc Diệt Chủng Do Thái đã gây một ảnh hưởng nào nơi những người Do Thái giện
đại hay chăng?
Đáp: Jean Amery, một tư tưởng gia Do Thái đã viết nhiều về vấn đề này, nói rằng cảm nghiệm về cuộc Diệt Chủng Do Thái chẳng những là một Do Thái ‘shema’, mà còn là một thế giới ‘shema’ nữa.
Toàn thế giới bàng hoàng trước những gì trải qua nơi cuộc Diệt Chủng Do Thái, một sự kiện có những tính chất đặc biệt như thế, ở chỗ không phân biệt cái chết nào hơn cái chết nào giữa người này với người khác.
Chẳng hạn, chúng ta hãy nhớ lại rằng đó là một cái chết có tổ chức, lạnh lùng và quan liêu, và là một cuộc bách hại không có cơ hội được giải cứu. Cho dù là người Do Thái cao ráo hay tóc hoe, cho dù họ là Kitô hữu, cho dù họ có liên hệ với Đảng Nazi, họ cũng chịu chung số phận bị tiêu diệt.
Cuộc Diệt Chủng Do Thái này phải làm cho tất cả chúng ta thận trọng hơn, sâu xa hơn nơi việc chúng ta phân tách về chính trị. Ngày nay, khi có rất nhiều câu chuyện nông cạn nơi thế giới chính trị, thì Cuộc Diệt Chủng Do Thái là một cú đấm liên lỉ vào lương tâm của chúng ta và là một cảnh giác bất khả tránh né về luân thường đạo lý.
Vấn:
Cha có nghĩ là Cuộc Diệt Chủng Do Thái này đã ảnh hưởng tới cuộc đối thoại
giữa người Do Thái và Kitô hữu hay chăng? Nói chung thì những phản ứng ấy đã
tiến tới mức độ nào rồi?
Đáp: Đây là một vấn đề rất ư là tế nhị. Chúng ta đừng quên rằng Cuộc Diệt Chủng Do Thái xẩy ra ở các quốc gia Kitô Giáo, cho dù được thực hiện bởi một ý hệ mãnh liệt phản Kitô Giáo. Đằng khác, tâm tưởng của người Do Thái lại không đồng nhất. Không có vấn đề tâm tưởng chuyên biệt hay chính thức nơi người Do Thái.
Bởi thế, tôi nghĩ rằng Kitô hữu và Do Thái thiện chí đều nhìn thấy Cuộc Diệt Chủng Do Thái với cùng một tâm trạng bàng hoàng và kinh hoàng. Chúng ta cũng cần nhìn đến tương lai nữa. Đức Gioan Phaolô II là một vị Giáo Hoàng rất lạc quan về vấn đề này và Giáo Hoàng Biển Đức XVI cũng theo cùng chiều hướng ấy.
Nếu Kitô hữu tỏ ra mình là một tôn giáo khả kính và muốn đối thoại với tất cả mọi tôn giáo – không có nghĩa là tất cả mọi tôn giáo đều được chấp nhận một cách hòa đồng như nhau, nhất là ở một số trường hợp – ở trường hợp Do Thái Giáo thì điều này lại càng sáng tỏ hơn và dễ dàng hơn.
Mối liên hệ của chúng ta với Do Thái Giáo không phải chỉ là mối liên hệ tương kính giữa hai tôn giáo tương đương nhau. Còn hơn thế nữa, ở chỗ, Kitô Giáo mất đi ý nghĩa của mình nếu nó bỏ quên Do Thái Giáo. Mối liên hệ này đã được nhiều lần lập lại nơi câu nói của Đức Gioan Phaolô II ‘những người Do Thái là những người anh em tiền bối của chúng ta trong đức tin’, và câu nói này thực sự gồm tóm rất hay những gì chúng ta đang nói tới đây.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 27/7/2006
ĐHY Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo Walter Kasper ngỏ lời cùng Thượng Nghị Tôn Giáo Moscow (3-5/7/2006)
(tiếp bài Sứ Điệp của Thượng Nghị Chư Lãnh Đạo Tôn Giáo 2006)
Phái đoàn đại biểu Kitô Giáo được Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI sai tới xin bày tỏ niềm cảm nhận sâu xa và biết ơn của mình về sáng kiến của Đức Thượng Phụ Alexy II, và chúng tôi cũng xin cám ơn lời mời chúng tôi cùng với các vị lãnh đạo tôn giáo trên thế giới tham dự cuộc thượng nghị này.
I- Chúng tôi coi cuộc thượng nghị này có một tầm vóc quan trọng, khẩn trương và rất đúng lúc để đương đầu với rất nhiều trục trặc, rất nhiều xung khắc, rất nhiều thách đố và rất nhiều tình trạng thảm thương xẩy ra trên thế giới của chúng ta hôm nay đây:
· Chúng ta quan tâm tới vấn đề hòa bình. Chúng ta bị đe dọa bởi những thứ căng thẳng và xung khắc về chủng tộc, văn hóa, quốc gia và bất hạnh thay cả tôn giáo nữa; chúng ta đối diện với vấn đề của nạn khủng bố quốc tế, một thứ khủng bố lạm dụng lý tưởng tôn giáo cho những mục đích ý hệ tồi bại, sát hại thành phần vô tội một cách bừa bãi, và gieo vãi nỗi sợ hãi cùng cảnh kinh hoàng nơi dân chúng.
· Chúng ta quan tâm tới vấn đề công lý trên thế giới của chúng ta, nơi hơn 1/3 dân số thế giới sống trong những tình trạng nghèo khổ và bất hạnh, trong khi đó có những người lại sống một cách giầu sang sung túc. Ngoài ra, còn xẩy ra những trường hợp khai thác, kỳ thị và đàn áp tự do của con người và những quyền lợi căn bản của con người nữa.
· Chúng ta quan tâm tới tình trạng của nạn tục hóa, nhất là ở thế giới Tây phương, một thứ tục hóa làm mất đi các giá trị về nhân bản, cả những giá trị riêng tư lẫn xã hội, theo những chiều hướng cốt yếu tối hậu của tôn giáo. Hậu quả đó là những giá trị ấy bị loại trừ và trở thành tương đối, đến độ chính chủ nghĩa tương đối và tính cách nhân nhượng ấy lại biến thành những gì bất khoan dung và đàn áp. Chúng ta đặc biệt than van cho tình trạng suy đồi của các giá trị về gia đình.
Sau hết, nạn tục hóa hủy diệt những truyền thống văn hóa bắt nguồn từ tôn giáo, khiến cho con người, đặc biệt là giới trẻ, lạc hướng luân lý và tôn giáo trong một thế giới trống rỗng ý nghĩa sâu xa mà chỉ toàn là những thứ cống hiến cho các cảm tình nông cạn và sai lạc về cái hạnh phúc chốc lát mau qua. Rượu chè và thuốc phiện thường được sử dụng như là những gì trợ giúp để sống trong một thế giới phi ý nghĩa và như là những gì thay thế cho niềm hạnh phúc đích thực.
Dĩ nhiên đó chỉ là một số những khía cạnh mà thôi. Thế nhưng, chúng cũng hiển nhiên cho thấy cái trách nhiệm của tất cả mọi thành phần lãnh đạo, cả về chính trị lẫn tôn giáo; chúng làm cho chúng ta nhận thức được trách nhiệm đặc biệt mà thành phần lãnh đạo tôn giáo phải có nơi tình hình này, và tôi xin được nói thêm là: Chúng làm cho chúng ta nhận thức được tính cách khẩn trương biết bao cái trách nhiệm chung của thành phần lãnh đạo tôn giáo đối với việc phục hồi trật tự về luân lý và xã hội, đối với vấn đề công lý và hòa bình.
(còn tiếp 3 kỳ)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 5/7/2006