GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ NĂM 28/9/2006 TUẦN XXV THƯỜNG NIÊN |
? Hội Đồng Tòa Thánh Về Di Dân và Du Hành: Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Du Lịch 27/9/2006
? Thẩm Định Chuyến Tông Du Thứ Tư của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
? Thánh Thể là Mầu Nhiệm Đức Tin
Hội Đồng Tòa Thánh Về Di Dân và Du Hành: Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Du Lịch 27/9/2006
Các bạn thân mến,
“Du lịch thăng hoa”. Đó là đề tài được chọn cho việc cử hành Ngày Thế Giới Du Lịch năm nay, vào ngày 27/9/2006.
Nhân dịp này, chúng tôi xin gửi lời chào thân ái và đặc biệt đến những ai hoạt động ở lãnh vực du lịch, cũng như chúng tôi xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất đến thành phần du lịch và những ai tiếp đón họ một cách bặt thiệp, tốt lành và, đối với nhiều người trong họ, một cách Kitô Giáo nữa.
Con số người trả qua hiện tượng du lịch rộng lớn và quan trọng này theo cá nhân hay qua những người khác là những gì đang trên đà tăng triển.
Thật vậy, du lịch và viếng thăm là những động từ liên quan tới nhiều người, thành phần được thu hút bởi cái mê hoặc về những gì chưa được biết tới, mặc dù được thoáng thấy một cách nào đó, nhờ truyền thông đại chúng, nhờ các cơ quan du lịch hay những người khác kể lại. Việc ca ngợi và ước mong cũng là đặc tính nơi một phần nhân loại đáng kể, có được bởi rất nhiều chuyến du lịch và viếng thăm.
Bởi thế, điều này nhắm đến tính cách hỗ tương nơi một thứ cảm nghiệm thực sự về không gian và văn hóa, một thứ cảm nghiệm đầy những cái khác biệt và ước mong làm phát sinh một loạt những vấn đề, trong đó có nhiều vấn nạn chưa được giải đáp. Điều ấy nhắm đến một tính cách hỗ tương chủ động và thụ động, những gì đổ thêm dầu vào tình trạng bất quân bình trên cái hành tinh chúng ta cùng nhau có được đây, những gì mở ra những cơ hội mới cho việc hội ngộ gặp gỡ, phấn khích việc phát triển, và thậm chí gây ra nỗi hoang mang hốt hoảng và thách đố lương tâm về phương diện đạo lý.
Thế nhưng, đó là một thứ cảm nghiệm nào đây? Câu giải đáp thì nhiều, mặc dù bối cảnh thì giống như nhau. Đối với nhiều người thì nó có nghĩa là đất đai, khí quyển và bầu trời – tóm lại là thiên nhiên – rừng núi, nước nôi, biển cả và gió thổi. Còn những người khác thì lại nghĩ đến những loại máy bay, xe lửa hay xe hơi.
Đối với hầu hết một ít người thì nó liên quan tới cơ hội về tài chính, tới thương mại, tới tư bản độc quyền hay một loại thể tín dụng, tới vốn liếng, tới lợi lộc về tài chính hay với thị trường chứng khoán.
Đối với một số người – thành phần chúng ta hy vọng là nhiều và đang gia tăng về con số – thì nó lại tiêu biểu cho những liên hệ với dân chúng, với tha nhân, với gia đình và cộng đồng, một vấn đề của tâm can và tình cảm, có tính cách chú trọng và tôn trọng.
Đối với một phần lớn thì nó liên quan tới niềm trông đợi và hy vọng, đến niềm tin tưởng và sự bkiên trì, đến tinh thần và đức tin cùng tương lai. Đối với những người khác nữa thì nó là lịch sử tỏ hiện, là gia sản nghệ thuật, là văn khố và các thư viện, là tranh vẽ và pho tượng, là thi ca, là văn chương, là các ngôi vương cung thánh đường, là các nhà thời, các đền đài các đền chùa, các dinh thực, các văn kiện ngoại giao, tóm lại là văn hóa, và thậm chí… là cách nấu nướng.
Bởi thế, đó là những bộ mặt dồi dào phong phú đa dạng được nối kết với nhau trên khắp thế giới. Một thứ dồi dào phong phú độc đoán cách phân, theo thời gian và không gian.
Dân chúng gặp gỡ nhau và con số những cuộc viếng thăm gia tăng theo một trào lưu du lịch bất khả ngăn chặn. Cái dồi dào phong phú của các dân tộc, thành phần đồng thời cũng đang trải qua tình trạng kém phát triển, được ca ngợi. Những cảm tình về việc đoàn kết, những gì thường yếu kém về dạng thức, sau chuyến đi lại được bùng lên.
Tuy nhiên – tạ ơn Chúa – cái ấn tượng còn lại đó là guồng máy kinh tế và tài chính không phải là những gì đặc thù duy nhất, mà là những gì bá chủ thống trị, và nó không phải là những gì thượng đẳng đệ nhất thiên hạ, mà là hệ thống hiện đại, một nguồn mạch của nhiều tình trạng mất thăng bằng cả thể.
Cái còn lại đó là ấn tượng về một nhân loại giầu thịnh hơn khi các cửa ngõ của hệ thống này được mở ra cho người khác, nhờ đó, cống hiến cho họ phương tiện tiến đến với các kho tàng về văn hóa, lịch sử, thiên nhiên, mỹ thuật, nhân bản và thiêng liêng là những gì mỗi dân tộc đều muốn gìn giữ lấy một cách ganh tị ở một mức độ nhiều ít nào đó.
Về vấn đề này không thể quên được những lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vị đã nói: “Việc giao tiếp với người khác là những gì dẫn tới việc khám phá ra ‘cái bí mật’, là hướng tới họ để tiếp nhận những khía cạnh đáng giá của họ, nhờ đó góp phần vào việc hiểu biết nhau hơn nữa. Đó là một tiến trình dài nhắm tới việc hình thành các xã hội cùng các nền văn hóa, làm cho chúng càng ngày càng phản ánh tặng ân muôn mặt của Thiên Chúa ban cho loài người” (Pope John Paul II, "Message for the World Day of Migrants and Refugees 2005," 1).
Du lịch thăng hoa chính là ở chỗ nó góp phần vào việc mang lại cái tương đối cho những hệ thống được gọi là giầu thịnh, và hướng chúng tới quan niệm về những hình thức “được giầu thịnh” khác.
Thiên nhiên, nơi tính chất dồi dào phong phú của mình, được biểu lộ nơi chu kỳ của vũ trụ, là một người mẹ đón tiếp trước con mắt của chúng ta khi nó chiêm ngưỡng rặng núi Everest hay Hy Mã Lạp Sơn, những gì được bàn tay chúng ta chạm đến nơi mầu xanh của biển cả, những gì chúng ta ân cần đón nhận nơi cái mấu xám sâu thẳm của thứ Rừng Đen, hay những gì được chúng ta ca ngợi khi chúng ta bay trên cánh của một chiếc phi cơ chúng ta thấy như là một bức thảm len trắng ở bên dưới mình trong khi đó mầu xanh của bầu trời lại phủ ở bên trên chúng ta.
Gia sản văn hóa là những gì nhấn mạnh tới lịch sử của hết mọi người, những gì lưu vết văn minh trên những tháp chuông và những tháp đền chùa, trên những bức bích họa và những kim tự tháp, trên những cây cầu và những vệ tinh ở ngoài không gian. Đó là một thứ dồi dào vô tận thuộc về tất cả chúng ta, một gia sản chung của nhân loại.
Nó không chỉ âm vang những nỗ lực của con người, mà còn cống hiến cho mỗi người một thứ ký ức về những liên kết thắt kết chúng ta với các thế hệ trước và cái cấu trúc lịch sử.
Bởi thế, du lịch cho thấy một thứ phong phú toàn cầu, không loại trừ con người, trái lại, còn bảo trì những vết chân của họ, bảo trì dấu tích của họ.
Nó cũng bảo trì cái cửa sổ kính mầu mè mà mỗi người chúng ta, với tư cách cá nhân và phần tử của cộng đồng, nơi những cái khác biệt và tương tự của mình, đồng thời cũng nơi cả cái bối cảnh và phẩm vị của mình, là một kho tàng được chúng ta chứng thực là những gì bất tử: “Ai tin vào Tôi thì dù có chết cũng sẽ được sống”, Chúa Kitô phán (Jn 11:25).
Cái cửa sổ tráng lệ này là cái cửa sổ của chúng ta, cái cửa sổ mầu mè và được cấu tạo bằng một số yếu tố, với cái phong phú bao gồm tình đoàn kết. Cái vẻ đẹp của nó cũng xuất phát từ việc chấp nhận khuôn mặt của kẻ khác, nhờ đó cái cửa sổ kính mầu mè này trở thành một hình ảnh của toàn thể nhân loại.
Không ai là một bản sao cả. Tất cả chúng ta đều là những tạo vật độc nhất vô nhị chứ không phải là một thứ tạo sinh sao bản. Chúng ta là tỏ hiện sự sống của Đấng là sự sống: “Ông đã đến để làm chứng, để làm chứng cho ánh sáng, nhờ đó tất cả mọi người qua ông mà tin tưởng” (Jn 1:7).
Hết mọi người đều mang dấu ấn của nhiệm mầu, và hết mọi người đều cảm thấy ước vọng tuyệt đối, một dấu ấn cho thấy là Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Ngài và tương tự như Ngài (x Gen 1:27).
Bởi thế, con người là một gia sản quí giá nhất (cf. John Paul II, "Centesimus annus," 35), có một giá trị thẩm mỹ ngoài lòng mong đợi trước con mắt đức tin, trong cộng đồng cũng thế, vì họ là hoa trái từ Tình Yêu của Cộng Đồng Hằng Sống (cf. Benedict XVI, "Deus Caritas Est," 17), bằng một hơi thở chất ngất (Gen 2:7) của mối hiệp thông bất khả sánh ví, nhờ đó hiện lên như hình ảnh của Ngài, với một dung nhan thanh thản hay bối rối, có những mầu da khác nhau, nơi có những giọt lệ của một thứ nước nguyên sơ thường chảy xuống.
Tuy nhiên, những giọt lệ này cuối cùng thường được khô đi bởi niềm hy vọng được chia sẻ với “những kho tàng khôn lường của Chúa Kitô” (Eph 3:8). Và việc du lịch, liên hệ với những địa điểm khác và các nền văn hóa khác, hiện lên như là một bình minh mới, một thứ dồi dào phong phú được cống hiến trên dung nhan của mỗi một người anh chị em của chúng ta, một tặng ân thường xuyên và vĩnh viễn của Thiên Chúa là Đấng đã trở thành một khách lữ hành và viếng thăm mỗi người chúng ta qua dunh nhan của Người Con ân phúc của Ngài. “Vinh quang và quyền năng muôn đời thuộc về Ngài” (Rev 1:6).
Chớ gì sứ điệp này cũng là một sứ điệp của niềm an ủi và phấn khởi, nhất là cho những ai phục vụ ở lãnh vực của hoạt động quan trọng này, của việc cổ võ nhân bản và truyền bá phúc âm hóa này.
Hiệp thông với tất cả anh chị em, tin tưởng rằng lời nguyện cầu của chúng tôi cho anh chị em đạt được thành quả tốt đẹp trong Ngày Thế Giới Du Lịch theo quan điểm mục vụ.
Hồng Y Renato Martino,
Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Di DSân và Du Hành,
Tổng Giám Mục,
Thư Ký Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Di DSân và Du Hành.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh,
BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 24/8/2006
Thẩm Định Chuyến Tông Du Thứ Tư của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Sau đây là những nhận định của vị tân giám đốc văn phòng báo chí Tòa Thánh là linh mục Federico Lombardi, qua cuộc phỏng vấn với mạnh điện toán toàn cầu Zenit, những nhận định được ngài bày tỏ trước khi xẩy ra biến cố bấn loạn nơi thế giới Hồi Giáo.
Vấn: Kết quả của chuyến tông du này ra sao?
Đáp: Tôi nghĩ rằng chuyến tông du này có thể đạt được một thành quả khá nhất, và nó đã đáp ứng hoàn toàn cả niềm hy vọng của Đức Giáo Hoàng cũng như của những ai ở Giáo Hội địa phương cùng nhân dân Bavaria.
Bầu khi đón tiếp thật là tuyệt vời và sự nồng hầu đã gia tăng trong thời gian những ngày vừa qua, như được thấy qua tất cả mọi nơi Đức Giáo Hoàng tới thăm. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI cảm thấy vui mừng, có những lúc ngài thậm chí lấy làm cảm động nữa. Sự kiện ngài đã bộc phát qua bài giảng ở cuộc gặp gỡ cuối cùng ở vương cung thánh đường Freising cũng là những gì cho thấy cái niềm vui gia tăng nơi ngài vậy.
Vấn: Cũng cả ở chuyến tông du này, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI cũng không đích thân nói tiếng “không”. Ngài nói “Đức tin không phải là một đống những thứ cấm đoán, mà là một chọn lựa tích cực”.
Đáp: Vâng, đúng thế, Đó là một sứ điệp hết sức phấn khởi, nhất là đối với Giáo Hội địa phương này, một Giáo Hội ở vào một thời điểm xã hội đang ở trong tiến trình tục hóa, bởi thế, không dễ dàng cho việc loan báo niềm tin.
Niềm phấn khích là những gì được Đức Giáo Hoàng mang lại cho các linh mục, phó tế, tất cả mọi nhân viên mục vụ (cùng) tín hữu, khi ngài làm cho nó trở thành một sự hiện diện chủ động và sống động trong xã hội ngày nay. Đó là một vấn đề rất ư là quan trọng.
Có một số người thuộc Giáo Hội địa phương này đã nói với tôi trong những ngày này rằng nó sẽ có một ảnh hưởng rất lớn trong tương lai. Thật vậy, chính đề tài của chuyến tông du là “Những ai tin tưởng thì không cảm thấy lẻ loi cô độc” là những gì đã thực sự theo chiều hướng ấy: ở chỗ, tỏ ra vẻ đẹp và sự phong phú của mối hiệp thông của niềm tin, mối hiệp thông với Thiên Chúa trước hết, song cũng với cả cộng đồng tín hữu, cũng như cho thấy được khả năng đối thoại, phục vụ, thăng hóa toàn thể cộng đồng được xuất phát từ niềm tin sống động.
Vấn: Đức Giáo Hoàng một lần nữa đã nói tới lý trí và tính chất hợp lý của đức tin để chống lại tất cả mọi chủ nghĩa bảo thủ và vô tri, cả về đạo giáo lẫn văn hóa. Ngài nói, đức tin cho thấy một thứ Minh Tri chân thực.
Đáp: Phải, qua thời gian, đức tin trở thành một trong những đề tài chính yếu của giáo triều này, nơi giáo huấn của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI.
Mối liên hệ hòa hợp giữa đức tin và lý trí như là nền tảng của việc phục vụ mà đức tin có thể cống hiến cho văn minh của con người vào lúc này đây, thế nhưng một cách chung vậy thôi. Đức tin và lý trí làm phong phú cho nhau.
Chúng ta đã thấy rằng ở một số đoạn trong cácbài nói của Đức Giáo Hoàng đã diễn tả rằng đức tin cần phải thoát khỏi những cái băng hoại của mình để có được một ý nghĩ đứng đắn về Thiên Chúa. Trong mối tương quan ấy, lý trí đóng phần chủ động nơi lãnh vực đức tin, nó là những gì giúp ích rất nhiều.
Đồng thời, đức tin ngăn ngừa lý trí khỏi bị hạn hẹp ở những thứ ích lợi của lý trí, ở những mục tiêu và lãnh vực hoạt động của lý trí, làm cho lý trí bị nghèo nàn đi và trở thành bất lực trong việc hướng dẫn nhân loại nơi những vấn nạn luôn tồn tại và là vấn đề về đạo lý cả thể ngày nay.
Vấn: Cha nghĩ gì về tầm quan trọng đại kết nơi chuyến tông du này?
Đáp: Chuyến tông du này đã có một thời điểm đặc biệt quan trọng về đại kết: đó là buổi Kinh Tối ở Vương Cung Thánh Đường Regensburg. Tuy nhiên, tất cả chuyến tông du này có ý nghĩa đại kết, vì nó tập trung nhiều đến niềm tin vào Thiên Chúa.
Vào vì Thiên Chúa nào? Vào vị Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, vị Thiên Chúa đã tự mạc khải mình nơi Chúa Giêsu Kitô, Vị Thiên Chúa là tình yêu.
Đó là những gì căn bản chung trên hết của đức tin Kitô Giáo. Việc loan truyền của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, bởi thế, phần lớn, là việc loan truyền có thể được chia sẻ bởi các giáo hội Kitô giáo và các giáo phái Kitô giáo.
Vấn: Sau hết, đâu là những gì còn vương vấn nơi tâm hồn của Đức Giáo Hoàng từ cuộc tông du tới Bavaria này?
Đáp: Tôi nghĩ rằng đối với Đức Giáo Hoàng thì niềm vui cao cả còn lại được xuất phát từ sức mạnh và động lực ở các nơi gốc gác đối với đức tin nơi ngài; từ niềm khích lệ lớn lao đối với Giáo Hội địa phương, và đối với Giáo Hội cùng văn hóa Đức quốc, từ một cuộc đóng góp suy tư cao cả. Một cuộc chia sẻ có thể bao gôà cả văn hóa Âu Châu liên quan tới tầm quan trọng của việc đối thoại đứng đắn giữa đức tin và lý trí cho thiện ích của xã hội tân tiến, và nếu bao gồm cả thế giới nói chung, về khả năng đối thoại với các nền văn hóa khác, như Đức Giáo Hoàng đã nhấn mạnh, một cuộc đối thoại cảm thấy chiều kích tôn giáo như là một cái gì đó hết sức quan trọng và có thể nhập cuộc đối thoại với chúng ta một cách tốt đẹp hơn nhiều, nếu chúng ta sống một thứ văn hóa tôn trọng chiều kích tôn giáo, hoàn toàn tôn trọng con người và văn hóa con người.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 14/9/2006
Thánh Thể là Mầu Nhiệm Đức Tin
(Thông Điệp GIÁO HỘI SỐNG BỞI THÁNH THỂ của ĐTC Gioan Phaolô II ban hành ngày Thứ Năm Tuần Thánh 17/4/2003 - Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo man5g điện toán toàn cầu của Tòa Thánh http://www.vatican.va/edocs/ENG0821/_INDEX.HTM)
14. Cuộc vượt qua của Chúa Kitô chẳng những bao gồm cuộc khổ nạn và tử nạn của Người mà còn cả cuộc phục sinh của Người nữa. Điều này được nhắc nhớ qua lời cộng đồng tung hô sau phần truyền phép: “Chúng tôi tuyên xưng việc Chúa sống lại”. Hy Tế Thánh Thể hiện thực chẳng những mầu nhiệm khổ nạn và tử nạn của Chúa Cứu Thế mà còn cả mầu nhiệm phục sinh làm hiển vinh hiến tế của Người nữa. Chính vì là Đấng hằng sống và phục sinh mà Chúa Kitô mới có thể trở thành “bánh ban sự sống” (Jn 6:35,48), “bánh sống” (Jn 6:51) trong Bí Tích Thánh Thể. Thánh Ambrôsiô đã nhắc nhở thành phần mới được khai tâm Kitô giáo rằng Thánh Thể thể hiện biến cố phục sinh vào cuộc sống của họ: “Hôm nay đây Chúa Kitô là của anh chị em, thế nhưng hằng ngày Người sống lại một lần nữa cho anh chị em” (20). Thánh Cylilô Alexandria cũng làm sáng tỏ vấn đề về việc thông phần vào các mầu nhiệm linh thánh “là một việc thực sự tuyên xưng và là việc tưởng nhớ rằng Chúa đã chịu chết và sống lại vì chúng ta và cho chúng ta” (21).
15. Việc tái hiện thực một cách bí tích hiến tế của Chúa Kitô, một hiến tế được hiển vinh bởi cuộc phục sinh, nơi Thánh Lễ chất chứa một thứ hiện diện đặc biệt nhất như lời Đức Phaolô VI nói “được gọi là ‘có thực’, không phải kiểu loại trừ tất cả mọi kiểu hiện diện khác như những kiểu hiện diện ấy ‘không có thực’, song bởi đây là kiểu hiện diện trọn nghĩa nhất, một hiện diện chính yếu nhờ đó Chúa Kitô, Vị Thiên Chúa Làm Người, hiện diện một cách trọn vẹn và hoàn toàn” (22). Điều này là điều lập lại giáo huấn bền vững của Công Đồng Chung Triđentinô, đó là “việc thánh hiến bánh và rượu làm biến đổi tất cả bản thể bánh thành bản thể thân mình của Đức Kitô Chúa chúng ta, và tất cả bản thể rượu thành bản thể máu của Người. Giáo Hội Công Giáo thánh thiện đã gọi việc biến đổi này một cách xác đáng và xứng hợp là việc biến thể” (23). Thánh Thể thực sự là một mysterium fidei mầu nhiệm đức tin, một mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta và chỉ có thể chấp nhận bằng đức tin mà thôi, như vẫn thường được nhắc đến trong những bài giáo lý của các Vị Giáo Phụ liên quan tới bí tích thần linh này. Thánh Cylilô Giêrusalem đã khuyến dụ: “Đừng thấy nơi bánh và rượu này chỉ là những chất tự nhiên, vì Chúa đã tỏ tường phán chúng là mình và máu của Người: đức tin bảo đảm với anh em về điều này, cho dù giác quan có cảm thấy khác đi nữa” (24).
Cùng với vị Tiến Sĩ Thiên Thần chúng ta hãy tiếp tục xướng lên rằng adoro te devote, latens Deitas. Trước mầu nhiệm yêu thương này, trí khôn nhân loại hoàn toàn cảm thấy cái hạn hẹp của nó. Người ta hiểu được tại sao qua các thế kỷ chân lý này đã từng kích thích khoa thần học nỗ lực tìm hiểu nó mỗi ngày một sâu xa hơn.
Đó là những nỗ lực đáng khen, những nỗ lực lại càng hữu ích và minh tường hơn nữa ở chỗ chúng góp phần suy tư cần thiết vào “đức tin sống động” của Giáo Hội, một đức tin được đặc biệt nắm giữ bởi Huấn Quyền liên quan đến “đặc sủng vững vàng về chân lý” cũng như đến “cảm quan sâu xa về các thực tại linh thiêng” (25) là những gì được thành phần đặc biệt các thánh nhân đạt tới. Đức Phaolô VI còn đề cập đến một giới hạn như sau: “Hết mọi thứ giải thích của thần học tìm cách hiểu được phần nào mầu nhiệm này, để am hợp với đức tin Công Giáo, đều phải mạnh mẽ chủ trương rằng nơi thực tại khách quan, hoàn toàn độc lập với lý trí của chúng ta, bánh và rượu không còn hiện hữu nữa sau lời truyền phép, để từ giây phút đó mình và máu đáng tôn thờ của Chúa Giêsu thực sự hiện diện ở trước chúng ta dưới các hình dạng bí tích bánh rượu (26).
16. Hiệu năng cứu độ của hiến tế này được hoàn toàn hiện thực khi lãnh nhận mình máu Chúa lúc hiệp lễ. Hiến Tế Thánh Thể tự bản chất nhắm đến việc hiệp nhất nội tâm của tín hữu với Chúa Kitô qua việc hiệp lễ; chúng ta lãnh nhận chính Đấng đã hiến mình cho chúng ta, chúng ta lãnh nhận thân thể Người đã trao nộp cho chúng ta trên Thập Giá cũng như lãnh nhận máu Người “đã đổ ra cho nhiều người được tha tội” (Mt 26:28). Chúng ta được lời Người nhắc nhớ rằng: “Như Cha hằng sống đã sai Tôi và Tôi sống bởi Cha thế nào, thì ai ăn Tôi cũng sẽ sống bởi Tôi như vậy” (Jn 6:57). Chính Chúa Giêsu đã bảo đảm với chúng ta rằng việc hiệp nhất này, một thứ hiệp nhất được Người so sánh với việc hiệp nhất sự sống Ba Ngôi, được thực sự thể hiện. Thánh Thể thực sự là một bữa tiệc Chúa Kitô đã tự hiến mình làm của dưỡng nuôi chúng ta. Vào lần đầu tiên Chúa Giêsu nói về thứ dưỡng nuôi này, thành phần nghe Người bấy giờ lấy làm lạ lùng và bối rối khiến Vị Thày này bắt buộc phải nhấn mạnh đến chân lý khách quan của những lời Người nói: “Thật vậy, thật vậy, Tôi nói cho quí vị hay, trừ phi quí vị ăn thịt Con Người và uống máu của Người, bằng không quí vị sẽ không có sự sống nơi bản thân quí vị” (Jn 6:53). Đây không phải là thứ lương thực bóng bẩy mỹ từ, bởi vì “Thịït Tôi thực sự là của ăn và máu Tôi thực sự là của uống” (Jn 6:55).
(các bài chủ đề về Thánh Thể vào các Thứ Năm hằng tuần)