GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ BẢY 13/10/2007 TUẦN XXVII THƯỜNG NIÊN |
? Từ Kinh Mân Côi đến Sống Mầu Nhiệm Thánh Thể
? Cầu Kinh Mân Côi là Tái Diễn Hy Tế Thánh Thể trên Bàn Thờ Cuộc Sống
? Thánh Thể và Kinh Mân Côi với Việc Truyền Giáo
KỶ NIỆM 90 NĂM TƯỚC HIỆU "MẸ LÀ ĐỨC BÀ MÂN CÔI" (13/10/1917)
Từ Kinh Mân Côi đến Sống Mầu Nhiệm Thánh Thể
Thật vậy, cử
hành Phụng Vụ, kể cả việc cử hành Giờ Kinh Phụng Vụ trong ngày, như các vị linh
mục buộc phải làm hằng ngày, là việc của chung Giáo Hội và nhân danh Giáo Hội
hay thay cho Giáo Hội mà làm, dù làm một mình. Mà những gì của Giáo Hội, bởi
Giáo Hội và cho Giáo Hội bao gồm tất cả kho tàng ân sủng của Chúa Kitô cũng như
của Đức Mẹ cùng các thánh, nên có một giá trị cứu độ vô cùng và thánh hóa thực
sự. Còn việc lần hạt Mân Côi hay đi Đường Thánh Giá chẳng hạn, dù tốt lành mấy
đi nữa, hay mấy đi nữa, tự bản chất của mình, những việc này không phải là những
việc cử hành phụng vụ, mà chỉ là những việc đạo đức theo cá nhân của người Kitô
hữu mà thôi, nên giá trị cứu độ và thánh hóa của những việc đạo đức tốt lành này
không thể bằng việc cử hành phụng vụ, như việc nguyện Giờ Kinh, việc lãnh nhận
các Bí Tích, việc cử hành Thánh Lễ v.v. Đó là lý do, trong Tông Huấn Marialis
Cultus, (đoạn 48), Đức Thánh Cha Phaolô VI đã minh định rằng: “Lần hạt Mân Côi
đang khi cử hành phụng vụ là một lầm lẫn, thế mà, tiếc thay đây đó việc thực
hành này vẫn còn tồn tại”.
Thật vậy, như Chúa Giêsu, tự bản tính, hơn Mẹ Maria thế nào, phụng vụ của Giáo
Hội, tự bản chất, cũng có giá trị hơn kinh Mân Côi như vậy. Lý do là vì, Chúa
Giêsu là trọng tâm của Phụng Vụ và thực sự hiện diện một cách bí tích khi Giáo
Hội cử hành Phụng Vụ, cả Phụng Vụ Thánh Lễ cũng như Phụng Vụ Bí Tích, Mẹ Maria
dầu sao cũng chỉ là Đấng Đồng Công “đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu” (Gioan
19:25) mà thôi. Tuy nhiên, nếu xét đến việc thông ban ân sủng, có thể nói, như
thực tế cho thấy, Kinh Mân Côi lại có một tác dụng dễ dàng, dồi dào và hiệu
nghiệm hơn là Phụng Vụ.
Sở dĩ kinh Mân Côi có tác dụng thông ban ân sủng một cách dễ dàng, dồi dào và
hiệu nghiệm hơn Phụng Vụ như thế, là vì Mẹ Maria “đầy ơn phúc ... và Giêsu Con
lòng Mẹ gồm phúc lạ” (Luca 1:28,42).
Thiên Chúa đã không trao cho Mẹ cả kho tàng của Ngài là Ngôi Lời nhập thể trong
lòng Mẹ là gì! Thế thì lòng Mẹ, hay Trái Tim Mẹ cũng vậy, không phải là nơi chất
chứa Kho Tàng Thần Linh này hay sao? Nếu Thiên Chúa đã muốn đặt Kho Tàng Thần
Linh của Ngài ở ngay trong cung lòng của Mẹ Maria, chứ không phải ở trong tay
nguyên tổ Evà, hay ở trong tay thánh Gioan Tẩy Giả, con người cao trọng nhất,
thì không phải là Ngài đã muốn trao toàn quyền cho Mẹ canh giữ và tùy nghi ban
phát cho những ai muốn lãnh nhận ân sủng từ Kho Tàng Thần Linh này hay sao!?
Trong Thông Điệp Octobri Mense ban hành ngày 22/9/1891, Đức Thánh Cha Lêô XIII
đã khẳng định điều này rất rõ ràng: “Ý của Thiên Chúa muốn là không một sự gì từ
kho tàng vĩ đại của tất cả mọi ân sủng được ban cho chúng ta từ Chúa Giêsu - 'ân
sủng và chân lý từ Chúa Giêsu Kitô mà đến' (Gioan 1:17) - lại không qua trung
gian của Đức Maria.”
Kinh Mân Côi có tác dụng thông ban ân sủng cách dễ dàng hơn Phụng Vụ.
Thứ nhất, là vì điều kiện thực hiện. Khi lần hạt Mân Côi, người ta không cần
phải đến nhà thờ như khi đi dự lễ, phải có linh mục ngồi tòa như khi đi xưng tội,
phải có giám mục xức dầu như khi chịu phép Thêm Sức v.v. Có thể nói, khi lần hạt
Mân Côi cách sốt sắng là người ta vừa là thừa tác viên ân sủng, vừa là người
lãnh nhận ân sủng. Như thế, lần hạt Mân Côi không phải là một cách tự động, (theo
kiểu self service ngày nay), rất dễ dàng trong việc lãnh nhận ân sủng hay sao!?
Thứ hai, là vì công việc thực hiện. Để mở một kho tàng, theo các truyện thần
thoại, người ta phải biết câu thần chú, cái mà ngày nay người ta gọi và sử dụng
là mật số (secret code). Cũng thế, muốn mở cả lòng Mẹ Maria, nơi Thiên Chúa cất
giấu mọi sự cao qúi nhất của Ngài trên trần gian, để tiến vào Kho Tàng Thần Linh
là Chúa Kitô ở bên trong, người ta chỉ cần đọc mấy lời hết sức giản dị, đến nỗi
trẻ con cũng thuộc và ai cũng được phép đọc, dù là tội nhân, không cần phải là
thừa tác viên, phải có chức thánh mới được đọc lời mô thể cho Bí Tích hiệu thành.
Lời thần chú hết sức gian dị mà vô cùng thần hiệu làm cho ân sủng tuôn tràn này
là: “Lạy Cha chúng con ở trên trời (và) Kính mừng Maria đầy ơn phúc.”
Kinh Mân Côi có tác dụng thông ban ân sủng cách dồi dào hơn Phụng Vụ.
Mỗi Bí Tích chỉ ban một tích sủng (Ơn Bí Tích) đặc biệt của mình cho thụ lãnh
nhân xứng đáng mà thôi. Chẳng hạn, Bí Tích Hôn Phối không ban tích sủng của mình
cho người lành nhận Bí Tích Truyền Chức Thánh hay ngược lại v.v. Vẫn biết, không
thể nào lần hạt Mân Côi mà người ta, dù sốt sắng đến đâu, có thể lãnh nhận một
tích sủng nào đó mà không cần chính thức đi lãnh nhận Bí Tích ấy. Tuy nhiên,
không phải khi đã lãnh nhận được một tích sủng nào đó là con người không cần
phải nên thánh nữa; trái lại, càng thêm ơn, con người càng phải có trách nhiệm
sinh lợi hơn: “Kẻ được nhiều sẽ bị đòi lại nhiều” (Luca 12:48). Tuy nhiên, để
bao tồn và phát triển tích sủng đã được khi lãnh nhận Bí Tích không phải là
chuyện dễ, cần phải có ơn Chúa nữa mới được. Mà, không gì dễ dàng để kéo ơn Chúa
xuống cho bằng câu thần chú vô cùng linh hiệu là kinh Lạy Cha và Kính Mừng, hai
kinh làm nên kinh Mân Côi. Thật vậy, nhờ đọc câu thần chú này đúng kiểu và đúng
cách, lòng Mẹ Maria tự động sẽ mở ra, và người ta sẽ tha hồ mà thu tích cho mình
đủ mọi thứ vàng bạc châu báu trong Kho Tàng Thần Linh vô cùng qúi giá, bất tận
và bất diệt này, để làm cho những nén bạc tích sủng sinh lợi gấp trăm cho Đấng
muốn “ai đã có sẽ càng được ban thêm cho càng dư dật” (Mathêu 13:12). Là Kho
Tàng Thần Linh, Trái Tim Mẹ Maria có tất cả mọi chân trâu phú qúi là các nhân
đức, công nghiệp và vinh quang của Chúa Cứu Thế và của chính Mẹ khi Đồng Công
với Chúa, xứng đáng là ngân hàng cho chúng ta dùng kinh Mân Côi gửi vào đấy tất
cả những gì Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta để sinh lời (xem Mathêu 25:27)
theo ý Ngài.
Kinh Mân Côi có tác dụng thông ban ân sủng cách hiệu nghiệm hơn Phụng Vụ.
Thứ nhất, là vì tác động của nó nơi người lần hạt. Để tham dự Thánh Lễ hay lãnh
nhận Bí Tích, người ta chỉ cần cộng tác vào việc cử hành Phụng Vụ mà thôi. Do đó,
nếu không đủ ý thức và linh động đối với một lễ nghi dài hơn một chuỗi kinh Mân
Côi, họ sẽ dễ trở thành thụ động, bất xứng với các Mầu Nhiệm Thánh. Trong khi đó,
vì tự mình lần hạt Mân Côi, ngắn gọn, ý nghĩa, dễ dàng, người ta sẽ sốt sắng và
ý thức hơn và sẽ tăng thêm lòng tri ân cũng như kính mến Chúa hơn. Nhờ đó, về
mặt tiêu cực, họ sẽ cai thiện đời sống, không dám làm mất lòng Chúa, và, về mặt
tích cực, họ sẽ bắt chước Chúa, vâng theo Thánh Ý Chúa và trở nên mọi sự cho tất
cả mọi người như Chúa. Thứ hai, là vì hiệu năng của nó nơi các tội nhân. Một
người tội lỗi, muốn được tha tội, nếu không chết bất đắc kỳ tử, cũng phải lãnh
nhận Bí Tích Hòa Giải. Trên thực tế, càng lâu xưng tội, càng ngại vào tòa cáo
giải. Càng ít đến với Bí Tích Giải Tội, người ta càng thiếu ơn Chúa. Càng thiếu
ơn Chúa, đã sẵn yếu đuối cộng thêm tội lỗi nặng nề đầy mình, tội nhân lại càng
dễ sa ngã và càng khó lòng tự động chỗi dạy trở về nhà Cha, nếu không có phép lạ
hay ơn đặc biệt. Trong trường hợp này, Bí Tích Giải Tội trở nên mục tiêu cho tội
nhân, đòi họ phải vào tới tòa giải tội mới được ơn tha tội. Nhưng, làm sao họ
còn đủ sức để trở về, để có thể đến được tận tòa giải tội mà họ đã trở nên xa lạ
và ngại ngùng đây?
Hãy nhớ lại
trường hợp của Lazarô, dù xác của anh đã chết thối bốn ngày rồi, thế mà, với
lòng tin của chị mình là Matta: “Nếu Thày có mặt ở đây em con đâu có chết, nhưng
con biết rằng, ngay cả lúc này đây, Thiên Chúa sẽ ban cho Thày điều Thày xin
cùng Ngài” (Gioan 11:21-22), Lazarô vẫn nghe thấy tiếng Chúa Giêsu gọi tên của
mình và đã tự động bước ra khỏi mồ. Cũng thế, tội nhân tầy trời và cứng lòng đến
đâu đi nữa cũng không thể nào cưỡng lại được sức mạnh vô địch của Kinh Mân Côi
nói chung và của Kinh Kính Mừng nói riêng là kinh tuyên xưng và cầu khẩn đích
danh thánh “Giêsu Maria”: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc... và Giêsu Con lòng Bà
gồm phúc lạ”; “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi
nay và trong giờ lâm tử. Amen”; “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu
chúng con khỏi sa hoả ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những
linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn” (Ngày 13/7/1917, Đức Mẹ dạy 3 Thiếu
Nhi Fatima thêm lời nguyện này vào sau mỗi chục kinh Mân Côi).
Đối với tôi, tràng hạt Mân Côi giống như một cái “remote control” (bộ phận điều
khiến xa). Nếu đầy đủ “pin” sốt mến, nó sẽ gây được nhiều tác dụng theo công
hiệu thần tình của nó. Chẳng hạn, nó có sức làm cho Trái Tim Mẹ Maria, (đã được
Viên Kỹ Sư Thần Linh gài sẵn cho có cùng một tần số -frequency- hay cùng một mã
số -code- với bộ phận điều khiến xa này), như một màn ảnh TV, trình chiếu lại
cuộc tình của Thiên Chúa, được tái diễn qua các mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và
phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu Kitô. Bộ phận điều khiển xa này cũng có thể
làm cho Trái Tim Mẹ, như cánh cửa mở ra cho tội nhân vào ẩn náu và cho kho tàng
ân sủng tuôn tràn ra cho nhân loại nói chung và cho Giáo Hội nói riêng. Đối với
thần dữ, bộ phận điều khiển xa này, một khi được bấm lên bơi những bàn tay bám
chặt vào Mẹ Maria, còn đóng được cả cửa hoả ngục và mở toang cửa Thiên Đàng.
Trên đây chỉ là những phân tích theo cảm nghiệm và nhận định cá nhân liên quan
đến tác dụng của Kinh Mân Côi so sánh với Phụng Vụ nói chung và Thánh Thể nói
riêng. Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là Kinh Mân Côi có giá trị hơn hay lợi
ích thiêng liêng hơn Phụng Vụ và Thánh Thể.
Nói đến chung
Phụng Vụ và riêng Thánh Thể là nói đến sự Hiện Diện Thần Linh, là nói đến Mầu
Nhiệm Chúa Kitô, nói đến Sự Sống Thần Linh được hiện thực qua việc cử hành Phụng
Vụ Thánh Thể cũng như Phụng Vụ Bí Tích. Kinh Mân Côi dù thần hiệu đến đâu đi
chăng nữa cũng không thể nào làm hiện thực Mầu Nhiệm Chúa Kitô hay Hiện Diện
Thần Linh và ban phát Sự Sống Thần Linh. Tuy nhiên, nếu Thánh Thể chất chứa tất
cả Mạc Khải Thần Linh thì Kinh Mân Côi biểu lộ Đức Tin Tuân Phục của con người (nơi
Mẹ Maria và với Mẹ Maria), giúp cho con người hướng về Thánh Thể, khao khát
Thánh Thể và hiện thực Thánh Thể trong cuộc sống của mình và ban phát Thánh Thể
qua chứng từ tông đồ của mình.
Thật ra, việc cử hành Thánh Thể và cầu Kinh Mân Côi, tuy tự bản chất khác nhau
về tính cách và giá trị phụng vụ, nhưng có cùng một mục đích là “tưởng nhớ đến
Thày” (Lk 22:19). Chung Giáo Hội “tưởng nhớ đến Thày” bằng việc cử hành Phụng Vụ,
còn cá nhân Kitô hữu “tưởng nhớ đến Thày” bằng việc cầu Kinh Mân Côi. Tuy nhiên,
nếu không khéo, việc cử hành Phụng Vụ của người Kitô hữu chỉ là những gì làm vì
bị bó buộc (tự bỏ lễ Chúa Nhật không chính đáng sẽ bị sa hỏa ngục), hay làm một
cách hững hờ, tức không cử hành một cách ý thức và chủ động theo tinh thần canh
tân Phụng Vụ của Công Đồng Vaticanô II (đi lễ thì chuyên môn đến muộn, mới rước
lễ hay vừa xong chịu lễ đã bỏ ra về, trong lễ thì lo ra chia trí đủ thứ về những
việc cần phải làm, thi hành các cử chỉ đứng ngồi trong lễ một cách máy móc, sốt
ruột khi nghe giảng dài, cộng đoàn nào hát lễ hay thì có mặt v.v.), thì phụng vụ
chẳng những không sinh ích thiêng liêng gì cho Kitô hữu mà còn trở thành gánh
nặng cho họ nữa. Bởi thế, mới thấy rằng, Kitô hữu chẳng những dự lễ mà còn sốt
sắng cầu Kinh Mân Côi vốn là việc không buộc làm thì không phải là họ thao thức
“tưởng nhớ đến Thày” hay sao?!
Đúng thế, việc cầu Kinh Mân Côi là tác động tỏ ra khao khát Thánh Thể, tức Kinh
Mân Côi là đường lối đưa đến Thánh Thể, và Thánh Thể, trái lại, là sinh lực giúp
Kitô hữu sống Kinh Mân Côi, đúng hơn sống Mầu Nhiệm Mân Côi là Mầu Nhiệm Chúa
Kitô cũng là Mầu Nhiệm Thánh Thể, Mầu Nhiệm Thánh, Mầu Nhiệm Yêu Thương Trọn Hảo.
Vâng, một trong những dấu hiệu cho thấy Kitô hữu cầu Kinh Mân Côi có cảm nghiệm
được Chúa Kitô hay chăng, có thực sự cùng với Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan
Người hay chăng, là ở chỗ họ có sống Mầu Nhiệm Mân Côi hay chăng, hay nói ngược
lại, đời sống của họ có phản ảnh những gì họ đã suy ngắm nơi Mầu Nhiệm Mân Côi
hay chăng, nói đúng hơn, bằng việc cầu Kinh Mân Côi và sau khi cầu Kinh Mân Côi,
họ đã trở thành một chứng nhân cho Chúa Kitô hay chưa, đến nỗi, những ai sống
với họ đều cảm thấy Chúa Kitô sống trong họ, một Chúa Kitô yêu thương, một Chúa
Kitô phục vụ, một Chúa Kitô tử giá, một Chúa Kitô hiệp thông, một Chúa Kitô
Thánh Thể.
Như thế, nếu Thánh Thể đến với mỗi một người Kitô hữu khi hiệp lễ là để ở cùng
với họ và nhất là để tiếp tục sống trong họ và nhờ họ, mà việc cầu Kinh Mân Côi
lại là việc Kitô hữu “tưởng nhớ đến Thày”, việc họ ý thức được sự hiện diện thần
linh của Người, việc họ bắt chước Mẹ Maria luôn “giữ những sự ấy mà suy niệm
trong lòng” (Lk 2:19,51), việc họ tỏ ra cởi mở để sẵn sàng đáp ứng những gì
Người muốn qua tác động của Thần Linh Người tỏ ra trong cuộc đời họ, thì Kinh
Mân Côi quả thực là phương thế bất khả thiếu chẳng những để chủ động Cử Hành
Thánh Thể mà còn để Sống Thánh Thể nữa.
Nếu trọng tâm của Kinh Mân Côi là Mẹ Maria, một tạo vật đệ nhất về ân sủng “vì
đã tin tưởng” (Lk 1:45), thì việc cầu Kinh Mân Côi là việc cử hành Mầu Nhiệm Đức
Tin (của Mẹ Maria), là cùng với Mẹ tin tưởng và “ngợi khen” (Magnificat) vào Vị
Thiên Chúa vô cùng yêu thương đã tỏ hết mình ra nơi Lời Nhập Thể Vượt Qua là
Chúa Giêsu Kitô. Và nếu Thánh Thể liên quan đến Chúa Giêsu Kitô là tất cả Mạc
Khải Thần Linh và Kinh Mân Côi liên quan đến Mẹ Maria đầy ơn phúc vì đã tin
tưởng, thì “việc cầu Kinh Mân Côi là việc cùng Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan
Chúa Kitô”, đúng như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cảm nghiệm và xác định ở
đoạn 3 trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria.
Chớ gì trong Năm Thánh Thể 10/2004-2005 này, chúng ta hãy cầu Kinh Mân Côi hằng
ngày như lời Mẹ Maria kêu gọi ở Fatima để chẳng những thực hiện việc cải thiện
đời sống mà còn để làm tông đồ cho Chúa Giêsu Thánh Thể bằng việc Sống Mầu Nhiệm
Mân Côi như Mẹ Đồng Công Maria, Mẹ Mân Côi Fatima của chúng ta.
Cầu Kinh Mân Côi là Tái Diễn Hy Tế Thánh Thể trên Bàn Thờ Cuộc Sống
Tất nhiên, không thể chối cãi và phủ nhận được rằng: theo bản tính của mình, Mẹ
Maria không thể nào bằng Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô thế nào, thì tự bản
chất, Kinh Mân Côi cũng không thể nào bằng Thánh Thể như vậy. Tuy nhiên, khi Cầu
Kinh Mân Côi và khi Cử Hành Mầu Nhiệm Thánh Thể là người Kitô hữu cùng thực hiện
một mục đích, đó là “tưởng nhớ đến Thày” (Lk 22:19), tưởng nhớ đến Chúa Kitô.
Vẫn biết việc “tưởng nhớ đến Thày” qua việc Cử Hành Thánh Thể là việc Giáo Hội
hiện thực hóa Hy Tế Thập Giá có giá trị phụng vụ và tính cách bí tích ban phát
ân sủng và thánh hóa, còn việc cá nhân Kitô hữu “tưởng nhớ đến Thày” qua việc
Cầu Kinh Mân Côi chỉ là việc theo tu đức mà thôi. Thế nhưng, theo dự án cứu độ
của Thiên Chúa và trong công cuộc cứu độ của Chúa Kitô, nếu không thể thiếu vai
trò Đồng Công của Mẹ Maria thế nào, Phụng Vụ Thánh Thể cũng cần đến Kinh Mân Côi
như vậy! Tại sao?
Tại vì, nếu Thánh Thể thực sự là Hiện Diện Thần Linh, là Sự Sống Ban Phát, là Hy
Tế Cứu Độ, cần được nhận biết, đón nhận và ban phát một cách xứng đáng, thì Kinh
Mân Côi, một kinh nguyện được làm nên chính yếu bởi Kinh Kính Mừng, là biểu hiện
cho một tạo vật “đầy ơn phúc” (Lk 1:28), vì tạo vật đầy ơn phúc này “đã tin
tưởng những gì Chúa phán sẽ được thực hiện” (Lk 1:45). Thật vậy, Mẹ Maria đầy ơn
phúc chẳng những vì Mẹ được “Thiên Chúa ở cùng” (x Lk 1:28), mà còn vì Mẹ “được
ơn nghĩa với Chúa” (Lk 1:30), tức Mẹ đã sống đẹp lòng Chúa mọi đàng như Chúa
Kitô Con Mẹ đối với Cha trên trời (x. Mk 1:11), bởi lòng Mẹ hoàn toàn và tuyệt
đối tin tưởng nơi Ngài, không bao giờ làm mất lòng Ngài, trái lại, bao giờ ý
muốn tối cao của Ngài cũng được “thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6:10)
nơi Mẹ.
Phúc Âm đã cho thấy bốn lần điển hình nhất Mẹ “đầy ơn phúc” vì Mẹ đã hoàn toàn
và tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa: Lần thứ nhất là lần Mẹ được tổng thần
Gabiên truyền tin Lời Nhập Thể, một việc không thể nào có thể xẩy ra với một
người trinh nữ như Mẹ, nhưng Mẹ vẫn tin tưởng “những lời Chúa nói sẽ được thực
hiện” là “không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được” (Lk 1:37). Lần thứ hai
là lần Mẹ bị Thánh Giuse công chính hiểu lầm với cái bụng đang mang thai Lời
Nhập Thể, nhưng Mẹ vẫn tin tưởng “những lời Chúa nói sẽ được thực hiện” là “Con
trẻ được sinh ra là Con Thiên Chúa” (Lk 1:35). Lần thứ ba là lần tìm được Thiếu
Nhi Giêsu 12 tuổi trong đền thờ sau 3 ngày lạc mất, lần mà sau khi gặp được Con,
Mẹ đã chẳng hiểu Con nói gì, nhưng Mẹ vẫn tin tưởng “những lời Chúa nói sẽ được
thực hiện” là Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao” (Lk 1:32).
Lần thứ bốn là lần Mẹ đứng dưới chân cây thập tự giá của Con Mẹ, nhưng Mẹ vẫn
tin tưởng “những lời Chúa nói sẽ được thực hiện” là “vương quốc của Người sẽ vô
cùng bất tận”.
Chính vì cuộc đời của Mẹ Maria là một chuỗi ngày lắng nghe Lời Chúa để có thể
đáp ứng Lời Chúa từng giây từng phút như thế mà hạnh phúc của Mẹ thực sự và Mẹ
được đầy ơn phúc thật sự không phải ở chỗ lòng của Mẹ đã được cưu mang Lời Nhập
Thể và vú của Mẹ đã được cho Con Thiên Chúa bú (x Lk 11:27-28). Thế nhưng, sống
đức tin hoàn toàn và tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa toàn năng toàn thiện ở
mức độ “đầy ơn phúc” như thế không phải là một chuyện dễ. Phúc Âm cho thấy có
một lần, dù Mẹ không hiểu gì về những lời Thiếu Nhi Giêsu 12 tuổi nói với Mẹ
trong đền thờ, Mẹ vẫn thinh lặng lắng nghe, bằng cách “giữ tất cả những điều ấy
mà suy niệm trong lòng” (Lk 2:51). Nếu Mẹ Maria luôn chuyên chú đến từng tác
động thần linh, từng lời nói cử chỉ thần linh được tỏ ra cho Mẹ như thế, thì
Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ là tất cả Mạc Khải Thần Linh được tỏ ra cho Mẹ 30 trên 33
năm Người sống ở trần gian ấy lại không được Mẹ luôn tưởng nhớ và tôn sùng hay
sao?
Nếu Cầu Kinh Mân Côi là việc tưởng niệm Chúa Kitô qua các Mầu Nhiệm Mân Côi, Mầu
Nhiệm về cuộc đời của Người, thì quả thực, Đức Thánh Cha Gioan Phaollô II, trong
Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, đoạn 11, đã chí lý khi cảm nhận về việc Mẹ
Maria cũng lần hạt Mân Côi trong cuộc đời của Mẹ như thế này: “Mẹ Maria đã sống
động bằng đôi mắt gắn chặt vào Chúa Kitô, lưu giữ hết mọi lời Người nói: ‘Mẹ giữ
lấy tất cả những điều này mà suy niệm trong lòng’ (Lk 2:19; x 2:51). Những ký ức
về Chúa Giêsu được in sâu trong lòng Mẹ ấy luôn luôn ở với Mẹ, khiến cho Mẹ suy
nghĩ vào những giây phút khác nhau của cuộc đời Mẹ ở bên Con Mẹ. Những điều Mẹ
tưởng niệm này có thể được coi như là ‘kinh mân côi’ Mẹ không ngừng lần suốt
cuộc sống trần gian của Mẹ”.
Thật vậy, nếu “việc lần hạt Mân Côi không là gì khác ngoài việc cùng Mẹ chiêm
ngưỡng dung nhan Chúa Kitô”, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô định nghĩa trong
Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, đoạn 3, thì việc Cầu Kinh Mân Côi chính là
cử hành Mầu Nhiệm Đức Tin của Mẹ Maria, một đức tin đầy ơn phúc, một đức tin đáp
ứng hết mọi tác động thần linh, một đức tin chấp nhận tất cả Mạc Khải Thần Linh
là Chúa Giêsu Kitô, một Mạc Khải Thần Linh đã đạt đến tuyệt đỉnh của mình nơi
Mầu Nhiệm Vượt Qua, một mầu nhiệm vẫn được hiện thực nơi việc Cử Hành Mầu Nhiệm
Thánh Thể. Đó là lý do, như trên đã nhận định và xác tín, “nếu Thánh Thể thực sự
là Hiện Diện Thần Linh, là Sự Sống Ban Phát, là Hy Tế Cứu Độ, cần được nhận biết,
đón nhận và ban phát một cách xứng đáng, thì Kinh Mân Côi, một kinh nguyện được
làm nên chính yếu bởi Kinh Kính Mừng, là biểu hiện cho một tạo vật ‘đầy ơn phúc’
(Lk 1:28), vì tạo vật đầy ơn phúc này ‘đã tin tưởng những gì Chúa phán sẽ được
thực hiện’ (Lk 1:45)”. Vậy khi Cầu Kinh Mân Côi, hay khi Cử Hành Mầu Nhiệm Đức
Tin của Mẹ Maria, không phải là Kitô hữu đang cùng với Mẹ Maria và nhờ Mẹ Maria
nhận biết và đón nhận Chúa Kitô Nhập Thể và Vượt Qua đang Hiện Diện Thần Linh và
Thông Ban Sự Sống trong Bí Tích Thánh Thể hay sao?
Đúng thế, một khi thiết tha và sốt sắng Cầu Kinh Mân Côi bằng con mắt chiêm ngắm
Chúa Kitô và con tim gắn bó với Chúa Kitô của Mẹ Maria, Kitô hữu sẽ sống cuộc
đời như Mẹ Maria, một cuộc đời hoàn toàn và tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa,
một cuộc đời đồng công với Hy Tế Thập Giá, Hy Tế Thánh Thể. Nếu Mẹ Maria không
thực sự ra đi truyền giáo như các Thánh Tông Đồ, nhưng lại là mẫu gương cho các
vị tông đồ, và nếu Mẹ Maria không thực sự đổ máu tử đạo như các thánh tử đạo,
nhưng vẫn là nữ vương các Thánh Tử Đạo, chỉ vì lòng tin tưởng đầy ơn phúc của Mẹ
thế nào, thì thành phần sống đức tin của Mẹ Maria, sống đức tin với Mẹ Maria và
sống đức tin như Mẹ Maria, dù bị bệnh tật nằm một xó như đồ vô dụng, dù bị vu
oan giáng họa không còn mặt mũi hoạt động tông đồ, cũng vẫn có thể trở thành
những chứng nhân của Chúa Kitô, thành những vị đại thừa sai truyền giáo cứu được
vô số các linh hồn.
Để rồi, một khi Kitô hữu sống đức tin tới độ “như” Mẹ Maria, không phải là họ
cũng đã làm “hiện thực” Chúa Kitô trên bàn thờ cuộc sống của họ rồi hay sao? Bởi
vì, bấy giờ, Chúa Giêsu Kitô là tất cả Mạc Khải Thần Linh được hoàn toàn tỏ hiện,
được thần hiển, được hiển linh nơi Kitô hữu và qua Kitô hữu là thành phần chứng
nhân đích thực và sống động của Người, đến nỗi, “ai thấy Thày là thấy Cha” (Jn
14:9) thế nào thì ai thấy họ cũng thấy Chúa Kitô như vậy. Nhờ đó, Chúa Giêsu
hiện diện trong Thánh Thể và ban mình qua Thánh Thể sẽ tiếp tục Hy Tế Thánh Thể
cứu độ trần gian của Người qua cuộc đời của con người Kitô hữu hằng chiêm ngưỡng
Người nơi các Mầu Nhiệm Mân Côi, và sống với Người bằng Đức Tin Thánh Mẫu. Quả
thực: Cầu Kinh Mân Côi là Tái Diễn Hy Tế Thánh Thể trên Bàn Thờ Cuộc Sống vậy!
? Thánh Thể và Kinh Mân Côi với Việc Truyền Giáo
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Ngày Chúa Nhật Truyền Giáo bao giờ cũng rơi vào Tháng Mười hằng năm. Năm 2003, Ngày Giáo Hội Truyền Giáo 19/10, được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn để kết thúc Năm Mân Côi, một năm kéo dài từ 16/10/2002, ngày kỷ niệm đúng 24 năm được bầu làm giáo hoàng của ĐTCGPII. Trong Ngày Giáo Hội Truyền Giáo 19/10/2003 cũng là ngày Bế Mạc Năm Mân Côi ấy, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gửi một sứ điệp về Ngày Giáo Hội Truyền Giáo liên quan đến Kinh Mân Côi. Năm 2004, Ngày Giáo Hội Truyền Giáo là ngày 24/10, xẩy ra một tuần sau ngày bế mạc Đại Hội Thánh Thể Thế Giới lần thứ 48 ở Mễ Tây Cơ, Chúa Nhật 17/10/2004, dịp Đức Thánh Cha đã chính thức khai mạc Năm Thánh Thể, một năm sẽ kéo dài tới khi kết thúc Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Thường Lệ 29/10/2005. Về Ngày Giáo Hội Truyền Giáo 24/10/2004 vừa bước vào Năm Thánh Thể này, Đức Thánh Cha cũng đã gửi cho Giáo Hội một sứ điệp, chủ đề “Thánh Thể với Việc Truyền Giáo”.
Đó là lý do chúng ta hãy cũng nhau ôn lại những điểm chính yếu của những gì được Vị Chủ Chăn Tối Cao của chúng ta huấn dụ sống đạo qua hai sứ điệp cho Ngày Giáo Hội Truyền Giáo, một liên quan tới Kinh Mân Côi kết Năm Mân Côi (10/2002-2003) và một liên quan đến Thánh Thể khai mở Năm Thánh Thể (10/2004-2005)
Kinh Mân Côi với Việc Truyền Giáo
Để thấy được ý hướng của Đức Thánh Cha ra sao nơi mối liên hệ giữa Kinh Mân Côi và Việc Truyền Giáo, chúng ta hãy đọc lại đoạn sứ điệp cho Ngày Truyền Giáo 2003 của Ngài sau đây sẽ thấy:
“Nhờ phép rửa, tất cả mọi tín hữu được kêu gọi nên thánh. Trong Hiến Chế Tín Lý ‘Ánh Sáng Muôn Dân’ Lumen Gentium, Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhấn mạnh là ơn gọi phổ quát nên thánh là ở chỗ tất cả mọi người được kêu gọi sống đức ái trọn hảo. Đức thánh thiện và việc truyền giáo là những khía cạnh không thể tách rời nhau nơi ơn gọi của hết mọi người đã lãnh nhận phép rửa. Việc dấn thân trở nên thánh thiện hơn là việc chặt chẽ gắn liền với việc dấn thân truyền bá sứ điệp cứu độ. Trong Thông Điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Chuộc Redemptoris Missio, Tôi đã nhắc nhở rằng: ‘Hết mọi phần tử tín hữu được kêu gọi nên thánh và truyền giáo” (số 90). Trong việc chiêm ngưỡng các mầu nhiệm của Kinh Mân Côi, người tín hữu được thúc đẩy theo Chúa Kitô và chia sẻ đời sống của Người, nhờ đó, họ có thể nói với Thánh Phaolô rằng: “Không phải là tôi sống, song là Chúa Kitô sống trong tôi’ (Gal 2:20). (4)
Qua đoạn sứ điệp cốt lõi này, trước hết, Ngài nhấn mạnh đến khía cạnh bất khả phân ly giữa việc nên thánh và truyền giáo. Sau đó, Ngài xác định tầm quan trọng của cầu Kinh Mân Côi với việc truyền giáo.
Ngài nhấn mạnh đến khía cạnh bất khả phân ly giữa việc nên thánh và truyền giáo như thế này:
· “Đức thánh thiện và việc truyền giáo là những khía cạnh không thể tách rời nhau nơi ơn gọi của hết mọi người đã lãnh nhận phép rửa”;
· “Việc dấn thân trở nên thánh thiện hơn là việc chặt chẽ gắn liền với việc dấn thân truyền bá sứ điệp cứu độ”;
· “Hết mọi phần tử tín hữu được kêu gọi nên thánh và truyền giáo”.
Sau khi đã mạnh mẽ khẳng định tính cách bất khả phân ly của việc nên thánh và truyền giáo, Ngài xác định tầm quan trọng của cầu Kinh Mân Côi với việc truyền giáo. Hay nói cách khác, Ngài muốn nói rằng Kinh Mân Côi cần cho việc truyền giáo. Tại sao? Ngài đã nhận định là
· “Trong việc chiêm ngưỡng các mầu nhiệm của Kinh Mân Côi, người tín hữu được thúc đẩy theo Chúa Kitô và chia sẻ đời sống của Người, nhờ đó, họ có thể nói với Thánh Phaolô rằng: “Không phải là tôi sống, song là Chúa Kitô sống trong tôi’”
Vâng, ở đây Đức Thánh Cha đã động đến cốt lõi của việc truyền giáo, đó là việc loan báo hay rao giảng Chúa Kitô, là việc làm chứng nhân cho Người, tức làm cho Người được nhận biết và yêu mến. Thế nhưng, làm sao Kitô hữu có thể làm chứng nhân cho Người nếu chúng ta không biết về Người, nếu chúng ta không được Người chiếm đoạt và sống trong chúng ta để sinh hoa trái nơi chúng ta là cành nho phát xuất từ Người là thân nho. Theo Đức Thánh Cha thì Kinh Mân Côi có thể giúp Kitô hữu đạt đến mức độ thần hiệp, đến độ Chúa Kitô sống trong họ, vì, như Đức Thánh Cha xác tín:
· “Trong việc chiêm ngưỡng các mầu nhiệm của Kinh Mân Côi, người tín hữu được thúc đẩy theo Chúa Kitô và chia sẻ đời sống của Người, nhờ đó, họ có thể nói với Thánh Phaolô rằng: “Không phải là tôi sống, song là Chúa Kitô sống trong tôi’”
Nếu Kinh Mân Côi theo Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có thể giúp đào tạo Kitô hữu trở thành những thánh nhân và chứng nhân như thế, thì những ai vốn lần hạt Mân Côi hãy kiểm điểm lại xem Kinh mân Côi quả thực đã “thúc đẩy (mình) theo Chúa Kitô và chia sẻ đời sống của Người” hay chưa? Nếu rồi thì cùng Mẹ “ngợi khen” Chúa; nếu chưa thì tại sao?
Thánh Thể với Việc Truyền Giáo
Như cách thức để phân tích trên đây về mối liên hệ giữa Kinh Mân Côi và Việc Truyền Giáo, áp dụng vào mối liên hệ giữa Thánh Thể và Việc Truyền Giáo, chúng ta cũng cần trích lại một câu sứ điệp tiêu biểu của Đức Thánh Cha cho Ngày Giáo Hội Truyền Giáo 2004 để chẳng những tìm hiểu mà còn áp dụng vào đời sống đạo.
“Mục đích của Thánh Thể chính là ‘hiệp thông loài người với Chúa Kitô và trong Người với Chúa Cha và Thánh Thần’ (Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia đoạn 22). Khi chúng ta tham dự vào Hy Tế Thánh Thể chúng ta hiểu sâu xa hơn nữa tính cách phổ quát của ơn cứu chuộc, nhờ đó, hiểu được tính cách khẩn trương của sứ vụ Giáo Hội thực hiện chương trình hoạt động của mình ‘lấy Chúa Kitô làm tâm điểm, Đấng cần phải được nhận biết, yêu mến và bắt chước, để trong Người chúng ta được sống sự sống Chúa Ba Ngôi và cùng với Người biến đổi lịch sử cho đến khi nó được nên trọn nơi Giêrusalem thiên đình’ (Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia đoạn 60)… Ở cuối mọi Thánh Lễ, khi vị chủ tế từ biệt cộng đồng dân Chúa bằng lời ‘Ite, Missa est’, thì tất cả mọi người đều cảm thấy rằng họ được sai đi như ‘những vị thừa sai Thánh Thể’ để mang đến cho mọi hoàn cảnh tặng ân cao cả họ đã lãnh nhận. Thật thế, bất cứ ai được hội ngộ với Chúa Kitô nơi Thánh Thể đều không thể nào không loan báo bằng đời sống của mình tình yêu nhân hậu của Đấng Cứu Thế” (2).
Qua đoạn văn chính yếu cho Sứ Điệp “Thánh Thể Với Việc Truyền Giáo” này, chúng ta thấy Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến mấy điểm sau đây: thứ nhất, đến mục đích của Thánh Thể; thứ hai, đến nội dung của Thánh Thể; và thứ ba tính chất của Thánh Thể.
Về mục đích của Thánh Thể, Đức Thánh Cha đã xác định rõ ràng đến khía cạnh hướng nội của Thánh Thể như sau:
· “Mục đích của Thánh Thể chính là ‘hiệp thông loài người với Chúa Kitô và trong Người với Chúa Cha và Thánh Thần’”
Về nội dung của Thánh Thể, Đức Thánh Cha đã cho thấy Hy Tế Thánh Thể chất chứa ơn cứu độ phổ quát là những gì Giáo Hội có sứ vụ cần phải ban phát và làm sinh hoa kết trái trong giòng lịch sử.
· “Khi chúng ta tham dự vào Hy Tế Thánh Thể chúng ta hiểu sâu xa hơn nữa tính cách phổ quát của ơn cứu chuộc, nhờ đó, hiểu được tính cách khẩn trương của sứ vụ Giáo Hội thực hiện chương trình hoạt động của mình ‘lấy Chúa Kitô làm tâm điểm, Đấng cần phải được nhận biết, yêu mến và bắt chước, để trong Người chúng ta được sống sự sống Chúa Ba Ngôi và cùng với Người biến đổi lịch sử cho đến khi nó được nên trọn nơi Giêrusalem thiên đình’”.
Về tính chất của Thánh Thể, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến khía cạnh trao ban, khía cạnh vươn mình ra của Thánh Thể như sau:
· “Ở cuối mọi Thánh Lễ, khi vị chủ tế từ biệt cộng đồng dân Chúa bằng lời ‘Ite, Missa est’, thì tất cả mọi người đều cảm thấy rằng họ được sai đi như ‘những vị thừa sai Thánh Thể’ để mang đến cho mọi hoàn cảnh tặng ân cao cả họ đã lãnh nhận. Thật thế, bất cứ ai được hội ngộ với Chúa Kitô nơi Thánh Thể đều không thể nào không loan báo bằng đời sống của mình tình yêu nhân hậu của Đấng Cứu Thế”
Với ba ý tưởng chính của đoạn sứ điệp về “Thánh Thể Với Việc Truyền Giáo” trên đây của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, liên quan đến mục đích của Thánh Thể, nội dung của Thánh Thể và tính chất của Thánh Thể, chúng ta thấy Thánh Thể quả thực là như một thân nho, Kitô hữu là cành nho được tháp nhập với thân nho này qua phép rửa nhưng phải được nuôi dưỡng một cách đặc biệt bởi thân nho qua Bí Tích Thánh Thể, nhờ đó, thân nho Thánh Thể mới sinh muôn vàn hoa trái các linh hồn nơi các cành nho Kitô hữu chi thể của mình, những cành nho dính liền với thân nho bằng việc thiết tha cử hành Thánh Thể và lãnh nhận Thánh Thể ban sự sống của Người.
Đó là lý do, ở đoạn 3 trong cùng sứ điệp “Thánh Thể với Việc Truyền Giáo”, Đức Thánh Cha còn khẳng định như sau:
· “Làm sao Giáo Hội có thể hoàn thành ơn gọi của mình mà lại không vun trồng một mối liên hệ liên lỉ với Thánh Thể, mà lại không nuôi dưỡng mình bằng thứ lương thực thánh hóa này, mà lại không đặt nền tảng hoạt động truyền giáo của mình trên sự nâng đỡ bất khả thiếu này được? Để truyền bá phúc âm hóa thế giới cần phải có những vị tông đồ ‘chuyên nghiệp’ trong việc cử hành, tôn thờ và chiêm ngưỡng Thánh Thể”.
Chính vì cả Kinh Mân Côi lẫn Thánh Thể đều liên quan mật thiết đến Việc Truyền Giáo mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tóm gọn ý tưởng của mình về mối liên hệ tam diện này như sau, trong sứ điệp “Thánh Thể với Việc Truyền Giáo”, ở ngay đoạn thứ 1 của sứ điệp này:
· “Chúng ta hãy chiêm ngưỡng Thánh Thể bằng ánh mắt của Mẹ Maria. Tin tưởng vào lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ, Giáo Hội hiến dâng Chúa Kitô, Bánh Cứu Độ, cho tất cả mọi dân nước để họ nhận biết Người và chấp nhận Người như Đấng Cứu Thế duy nhất của nhân loại”.