GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ TƯ 24/10/2007 TUẦN XXIX THƯỜNG NIÊN |
? Bối Cảnh Truyền Giáo - Men Đức Tin
? Bối Cảnh Truyền Giáo - Bột lên Men
? Bối Cảnh Truyền Giáo - Lúa mục nát
? Bối Cảnh Truyền Giáo - Men Đức Tin
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Nhận thấy thế
giới loài người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên
Chúa bắt đầu phiêu lưu vào một qũi đạo văn hóa chết chóc như thế, với trách
nhiệm ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian của mình (x.Jn.17:11,13-15),
Giáo Hội Công Giáo Rôma đã triệu tập một Công Đồng Chung tại Vatican lần thứ hai,
từ ngày 11-10-1962 đến 8-12-1965, để làm sao có thể trở thành "Ánh Sáng Muôn Dân"
("Lumen Gentium" - danh xưng của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, một văn kiện chính
yếu nhất trong 16 văn kiện của Công Đồng này), nhờ đó Giáo Hội có thể mang lại
cho thế giới tân tiến "Niềm Vui và Hy Vọng" ("Gaudium et Spes" - danh xưng của
Hiến Chế Mục Vụ diễn đạt tính cách đối ngoại của Giáo Hội trong Thế Giới Tân
Tiến, phản ảnh và quảng diễn văn kiện có tính cách đối nội trên đây).
Không riêng
gì Công Đồng Chung Vaticanô II này, trong suốt giòng lịch sử của mình, tùy theo
thời thế và cách thế, Giáo Hội Công Giáo Rôma, nhất là kể từ Đức Giáo Hoàng Lêô
XIII, với Thông Điệp "Rerum Novarum" về điều kiện của những giai cấp làm việc,
ban hành ngày 15-5-1891, đã mở màn cho học thuyết xã hội của Kitô Giáo vào thời
điểm chủ thuyết cộng sản sắp sửa hiện thân trở thành chế độ cộng sản vô thần sắt
máu, một học thuyết xây dựng trên nền tảng bất biến là mạc khải thần linh, để ít
là làm như muối ướp (x.Mt.5:13) giữ cho văn hóa thế gian khỏi bị thối rữa và
băng hoại. Học thuyết xã hội của Kitô Giáo này đã được các vị giáo hoàng kế tiếp
khai triển và áp dụng vào thời điểm của mình, theo thứ tự thời gian, có thể kể
đến như sau:
Thông Điệp "E
Supremi" của Đức Piô X ban hành ngày 4-10-1903, về việc phục hồi mọi sự
trong Chúa Kitô
Thông Điệp "Ad
Beatissimi Apostolorum" của Đức Bênêđictô XV ban hành ngày 1-1-1914, về việc
kêu gọi hòa bình.
Các Thông Điệp của Đức Piô XI, như "Divini Redemptoris" về cộng sản, ban hành ngày 19-3-1937, và Thông Điệp "Nova Impendet" về việc khủng hoảng kinh tế, ban hành ngày 2-10-1931.
Các Thông Điệp của Đức Gioan XXIII, như "Mater et Magistra" về Kitô Giáo và việc phát triển xã hội, ban hành ngày 15-5-1961, và Thông Điệp "Pacem in Terris" về tình trạng bình an hoàn vũ trong chân lý, chính trực, bác ái và tự do, ban hành ngày 11-4-1963.
Các Thông Điệp của Đức Gioan-Phaolô II, như "Laborem Exercens" về công việc làm của con người, ban hành ngày 14-9-1981; Thông Điệp "Sollicitudo Rei Socialis" về việc quan tâm đến xã hội, ban hành ngày 30-12-1987; Thông Điệp "Mulieris Dignitatem" về phẩm vị và ơn gọi của phụ nữ, ban hành ngày 15-8-1988; Thông Điệp "Centesimus Annus" về những vấn đề xã hội và kinh tế, ban hành để kỷ niệm 100 năm Thông Điệp "Rerum Novarum" (1891-1991); và Thông Điệp "Evangelium Vitae" về gía trị và tính cách bất khả xâm phạm của sự sống con người, ban hành ngày 25-3-1995.
Đất không thể
tự mình xanh tươi nếu các hạt giống nơi nó không mọc lên thế nào thì thế gian
cũng không thể nào có một bộ mặt nhân bản nếu không có văn hóa của con người như
vậy. Tuy nhiên, cho dù có xanh tươi nhờ các hạt giống nơi nó mọc lên đi nữa, đất
cũng chỉ là những cánh đồng hoang hay những khu rừng rậm, nơi ẩn nấp của loài dã
thú. Cũng thế, qua giòng thời gian của lịch sử thế giới, nhất là giai đoạn BC (trước
Chúa Kitô giáng sinh), văn hóa của con người vẫn còn là nơi chất chứa những con
dã thú của sức mạnh, của rừng rú, của chộp bắt nhau, ăn thịt nhau.
Thật vậy, về
thể lý, văn hóa của con người trong giai đoạn BC không là nơi ẩn nấp của loài dã
thú, sặc mùi máu tanh và tử khí bốc lên từ sức mạnh của các đế quốc là gì? Như
đế quốc Akkadian từ 2360 BC ở vùng Mesopotamia và Ba Tư, đế quốc Cựu Babylon
cũng ở vùng này từ 1728 BC, đế quốc Hittite từ 1296 BC ở vùng Anatonia và Syria,
đế quốc Assyria từ 883 BC ở vùng Mesopotamia và Persia, đế quốc Tân Babylon từ
605 BC rồi đến đế quốc Ba Tư từ 550 BC cũng ở vùng này, đế quốc Alexander từ 323
BC ở vùng Hy Lạp và Rôma, đế quốc Seleucid từ 280 BC ở vùng Anatolia và Syria,
đế quốc Parthian ở vùng Mesopotamia và Ba Tư và đế quốc Rôma ở vùng Hy Lạp và
Rôma cùng một thời sau 200 BC, đế quốc Rôma ở Palestine từ 50 BC v.v.,
Chưa hết, về
luân lý, văn hóa của loài người trong giai đoạn BC cũng còn là nơi ẩn nấp cho
loài dã thú, loài sống theo luật rừng mạnh được yếu thua, được tỏ hiện qua những
khuynh hướng triết lý hay đạo lý khinh thường vật chất, hạ giá xác thịt, và coi
thường phụ nữ nơi các tục đa thê v.v.
Thế nhưng, kể
từ khi "có người kia đi gieo giống tốt trong thửa ruộng của mình" (Mt.13:24), đó
là Lời nhập thể đi rao giảng Tin Mừng, đi truyền bá Phúc Âm trên thế gian và cho
con người, bắt đầu từ vùng đất Do Thái, thì đất đã bắt đầu "trổ sinh muôn vàn
hoa trái" (Jn.12:24,15:5).
(xem tiếp bài dưới)
Bối Cảnh Truyền Giáo - Bột lên Men
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Đúng vậy, kể từ khi "hạt giống tốt" là mạc khải thần linh, là tinh thần đức ái
trọn hảo, được trời cao gieo xuống thửa ruộng thế gian, thì văn hóa nhân bản bắt
đầu lên men thần linh. Không phải hay sao, kể từ giai đoạn AD là "năm của Chúa",
tức kể từ thời điểm Chúa Kitô giáng sinh, thời điểm "sự sống đã tỏ hiện cho
chúng ta" (1Jn.1:2), thời điểm "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một
mình để ai tin Con sẽ không phải chết nhưng được sự sống đời đời" (Jn.3:16), văn
hóa nhân bản, như một mầm thai tới thời khắc được hồn thiêng hóa để bắt đầu sống
động như một con người thế nào, thực sự cũng đã được Phúc Âm hóa để trổ sinh "sự
sống viên mãn hơn" (Jn.10:10) cho loài người như thế?
Nhìn vào thế giới hiện nay, sau gần 2000 AD, tức sau gần 2000 năm Chúa Kitô
giáng sinh, chúng ta nhận thấy gì đặc biệt, nếu không phải là tinh thần yêu
thương phục vụ do Kitô giáo khởi xướng, bắt đầu từ Âu Châu, một đại lục có thể
nói là đại lục Kitô giáo, đã được nẩy nở khắp nơi trên thế giới, về cả lãnh vực
văn học cũng như xã hội.
Về lãnh vực văn học là lãnh vực đầu não chi phối các lãnh vực khác, phải kể đến
các đại học là môi trường giáo dục cao cấp do Kitô giáo khởi xướng từ thời trung
cổ. Như Đại Học Bologna ở Ý có từ năm 1100, Đại Học Oxford ở Anh Quốc cũng bắt
đầu hình thành từ năm 1100, Đại Học Ba Lê năm 1200, Đại Học Toulouse do Đức
Thánh Cha Gregoriô X thiết lập năm 1229, Đại Học Napoli do hoàng đế Frederic
thiết lập năm 1224, Đại Học Salamanca do vua Ferđinand xứ Castilla sáng lập năm
1243, các đại học ở Đức và Bắc Âu mãi tới thế kỷ 14 mới có, như Đại Học Praga
năm 1348, Đại Học Vienna năm 1365, Đại Học Heidelberg năm 1386, Đại Học Cologne
năm 1388 v.v. Tại Hoa Kỳ, đại học đầu tiên là Đại Học Harvard ở Cambridge tiểu
bang Massachusetts được thành lập từ năm 1636, trước hết, là để dạy chủng sinh
theo học thần học, sau đó mới trở thành một đại học đời như bây giờ. Đối với
việc giáo dục học đường, cách riêng ở Việt Nam, nổi tiếng nhất phải kể đến
trường của các Sư Huynh Lasan, như trường trung học Tabert Sài Gòn, một học
đường thu hút được không biết bao nhiêu là con cái của những nhà có tai mắt
ngoại giáo. Ngày nay, chính các cán bộ cộng sản theo chủ thuyết chống Công Giáo
lại chỉ yên tâm khi mang con cái của mình đến học ở các trường có các bà sơ dạy
mà thôi.
Về lãnh vực xã hội, một lãnh vực tim gan, (so với lãnh vực văn học là lãnh vực
đầu não), Kitô giáo cũng đã là khai sáng viên trong các việc phục vụ con người
về mọi phương diện, như việc mở các nhà thương để chữa trị thương đau nơi xác
thân con người, lập các viện mồ côi để chăm nuôi dưỡng dục trẻ em không nhà, mở
các trại cùi để săn sóc thành phần bị người đời ghê sợ xa tránh v.v
Theo lịch sử Giáo Hội, việc bác ái xã hội bắt đầu triển nở từ cuối thể kỷ 16
sang đầu thế kỷ 17. Khởi sự với việc Dòng Thánh Gioan Thiên Chúa ở Bồ Đào Nha mở
các bệnh viện, nên dòng này còn được gọi là Dòng Bệnh Viện. Tiếp đến là Văn
Phòng Bác Ái Công Giáo do vua Henri IV lập năm 1606 để kiểm soát các tổ chức bác
ái xã hội và xây cất nhiều bệnh viện mới. Nổi tiếng nhất là Dòng Nữ Tử Bác Ái
Thánh Phaolô lập năm 1633 để chuyên chăm sóc người bệnh hoạn, tật nguyền, già
nua cũng như các trẻ em mồ côi. Thế nhưng, công cuộc bác ái xã hội phát triển
nhanh nhất (từ năm 1950) và rộng nhất (tới 126 quốc gia, kể cả các nước cộng sản)
phải kể đến việc phục vụ "người nghèo nhất trong các người nghèo" của Dòng Thừa
Sai Bác Ái do Mẹ Têrêsa Calcutta lập, một hiện thân đức ái Kitô giáo thời đại đã
được cả thế giới tiếc thương khi mẹ qua đi ngày 5-9-1997. Ngoài ra, việc bác ái
xã hội Công Giáo còn ôm ấp chính thành phần người cùi nữa, mà hai vị tông đồ
người cùi lưu danh là cha Đa-miêng ở Môlôcai bên Hạ-Uy-Di, và đức cha Cát-Sanh ở
Di Linh Việt Nam.
Phải, nhờ tinh thần hy sinh phục vụ của con cái Giáo Hội, thành phần truyền giáo
nơi các xứ dân ngoại, cũng như thành phần làm việc tông đồ ngay trong lòng xã
hội, được thực hiện bởi thành phần giáo sĩ và tu sĩ sống đời tận hiến, theo lệnh
truyền của Chúa Kitô phục sinh: "Các con hãy đi khắp thế gian loan báo Tin Mừng
cho tất cả mọi tạo vật" (Mk.16:15), mà đức tin nhỏ như hạt cải, nhỏ đến nỗi
không thể nhìn thấy bằng con mắt tự nhiên, đã mọc lên xum xuê thành một Giáo Hội
hoàn vũ vĩ đại, đến nỗi, các linh hồn như chim trời đến làm tổ nương thân nơi
càc cành của nó (x.Mt.13:31-32) là các chi thể thuộc Nhiệm Thể của Chúa Kitô,
được hiện thân qua các Giáo Hội chuyên biệt địa phương, các dòng tu, các vị đại
thánh thời đại v.v.
(xem tiếp dưới đây)
? Bối Cảnh Truyền Giáo - Lúa mục nát
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Tuy nhiên, vì Phúc Âm Kitô giáo dạy những điều hoàn toàn đi ngược lại với đường
lối và chủ trương tự nhiên của thế gian, do đó, Phúc Âm mang thân phận giống như
một hạt lúa miến cần phải bị mục nát đi để có thể sinh muôn vàn hoa trái
(x.Jn.12:24). Thực tế đã cho thấy hạt lúa miến Phúc Âm đã bị mục nát đi nơi
những cuộc bắt bớ, tiêu diệt ngay từ đầu, tại chính nơi phát xuất ra Kitô giáo
là Thành Thánh Gia-Liêm. Để rồi, từ đó, về thời gian cũng như không gian, máu
của vị tử đạo tiên khởi là Thánh Stêphanô đã liên tục chảy đến tất cả mọi xứ
truyền giáo, nhất là đến vùng đất Á Đông, từ thế kỷ 16 đến 19, như Đại Hàn, với
103 vị tử đạo được Đức Gioan Phaolô II phong thánh năm 1984, và Việt Nam, với
117 vị tử đạo cũng được cùng vị Giáo Hoàng phong thánh năm 1989, thậm chí cho
tới thế kỷ 20, đặc biệt vào hạ bán thập niên 1990 của cuối thế kỷ 20 này, một
thời điểm loài người văn minh tột bậc mà máu tử đạo vẫn còn loang chảy tại Phi
Châu.
Tuy nhiên, vì Phúc Âm là hạt giống thần linh, "một hạt giống không hư nát"
(1Pt.1:23), nên Phúc Âm không thể bị quyền lực thế gian tiêu diệt, trái lại, hơn
lúc nào hết, Phúc Âm nhờ đó càng sáng tỏ trên thế gian. Thực tế đã cho thấy,
trong tất cả mọi tôn giáo chỉ có Kitô giáo là tôn giáo dễ bị bắt bớ nhất, bị bắt
bớ nhiều nhất, bị bắt bớ lâu nhất, bị bắt bớ ở mọi đời và khắp mọi nơi. Đến nỗi,
có thể nói, Chúa Kitô không tử nạn không thực là Chúa Kitô thế nào, thì
Kitô giáo không bị bắt bớ không là Kitô giáo như vậy.
Thế mà, càng bị thế gian bắt bớ, Kitô giáo chẳng những không bị tiêu diệt, trái
lại, như có đà, Kitô giáo càng phát triển hơn nữa, phát triển đến "tất cả mọi
tạo vật" (Mk.16:15), "đến tận cùng thời gian" (Mt.28:20), một tầm mức phát triển
đúng như ý nguyện của Đấng Sáng Lập Kitô giáo khi Người sai các môn đệ của mình
đi "như chiên giữa sói rừng" (Mt.10:16), một phát triển "vĩ đại nhất"
(Mt.13:32) và kiên vững nhất (x.Mt.7:24-25), một phát triển vượt trội hơn hết
mọi thứ cây tôn giáo, thể chế và ý hệ, một phát triển không lấn át trần gian
song thu hút trần gian cho đến khi đạt được sứ mệnh của mình là làm cho trần
gian dậy men Phúc Âm thần linh.
Hiện nay, trước ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba, kể từ thập niên 1960, Phúc Âm
không phải chỉ bị một thể chế, một quyền lực hay một địa phương nào đàn áp nữa,
mà là đang bị cả một trào lưu văn hóa trần tục ở khắp nơi, nhất là văn hóa Âu Mỹ,
một nền văn hóa chịu ảnh hưởng Kitô giáo và mang tinh thần Kitô giáo, chống đối,
áp đảo và muốn hoàn toàn triệt hạ, bằng những luật pháp cho phép phá hủy đi
những giá trị luân lý phổ quát làm nên nhân phẩm con người, (như luật cho phép
mang thai mướn và cấy thai trong ống nghiệm), làm nên yếu tính hôn nhân, (như
luật cho phép hôn nhân đồng phái tính), và làm nên cơ cấu gia đình, (như luật
cho phép ly dị và phá thai).
Tuy nhiên, hiện tượng băng hoại nơi các nền văn hóa nói chung, nhất là nơi nền
văn hóa Âu Mỹ, một nền văn hóa thăng hoa bởi Phúc Âm Kitô giáo qua bao thế kỷ và
cũng là một nền văn hóa ảnh hưởng khắp thế giới cho đến nay nhờ các cuộc truyền
giáo, không phải là vì Phúc Âm Kitô giáo đã đến lúc hoàn toàn bị lỗi thời, nhất
là vào thời của khoa học và kỹ thuật, thời của tự do và nhân quyền. Bởi vì, như
thực tế cho thấy, hiện tượng duy nhân bản trong tân thời đại khoa học thực
nghiệm này chẳng những không làm con người thăng tiến về mặt tâm linh là yếu tố
làm nên con người đích thực, mà càng văn minh con người lại càng cảm thấy bất
nhất (về thể chế xã hội theo chủ thuyết cộng sản ngược lại với chủ nghĩa tư bản),
bất an (về mối lo sợ thế chiến thứ ba xẩy ra sẽ tiêu diệt cả loài người bằng
chính những sản phẩm khoa học do con người tạo ra là bom nguyên tử và bom khinh
khí), bất hòa (với những cuộc Thế Chiến I và II, cùng các cuộc chiến dằng dai ở
khắp nơi dọc suốt thế kỷ 20 này, như các cuộc Chiến Tranh Việt Nam, Chiến Tranh
Đại Hàn, Chiến Tranh Trung Đông, chiến tranh ở Phi Châu, chiến tranh ở Âu Châu),
và bất hạnh (với những đứa trẻ mồ côi bất đắc dĩ vì cha mẹ ly dị nhau, những
thai nhi vô tội bị giết chết ngay trong bụng mẹ, những thanh thiếu niên nam lập
băng đảng phạm pháp, những thanh thiếu nữ chửa hoang, những người tàn tật và bị
bệnh vô phương cứu chữa trở thành gánh nặng cho xã hội cần phải thanh toàn món
nợ của mình, những người đồng tính luyến ái bị triệu chứng Aids là triệu chứng
hoại kháng tố v.v.).
Như thế, nếu trong giai đoạn lịch sử của nền văn hóa chịu ảnh hưởng Kitô giáo
đang còn được Phúc Âm hóa xưa kia không hề xẩy ra những hiện tượng băng hoại
càng ngày càng lở loét như một căn bệnh ung thư bất trị khắp nơi như được đề cập
trên đây, cho đến thời khoa học và kỹ thuật, thời tự do và duy nhân bản mới có,
thì không phải hay sao, đó là bằng cớ hiển nhiên và hùng hồn nhất nói lên rằng,
khoa học và kỹ thuật, tự do, và duy nhân bản không phải là chúa tể hay là cứu
chúa của con người, hơn là một con bò vàng ngẫu tượng mà con người sùng bái mà
thôi.
Nếu con người hạ bệ Phúc Âm, loại trừ Phúc Âm ngàn đời ra khỏi văn hóa của mình, làm cho văn hóa nhạt mất chất mặn của muối Phúc Âm (x.Mt.5:13), con người đã, đang và sẽ như "cá không ăn muối cá ươn" thế nào thì hiện tượng con người văn minh băng hoại ngày nay đúng là một cuộc trắc nghiệm chứng thực là chỉ được Phúc Âm hóa, văn hóa của con người mới thực sự là văn hóa sự sống mà thôi.