GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ BẢY 27/10/2007 TUẦN XXIX THƯỜNG NIÊN |
? Tâm Điểm của Kinh Mân Côi là Chúa Kitô
? Cầu Kinh Mân Côi là Tuyên Xưng Chúa Kitô
? Kinh Mân Côi và Thánh Thể với Việc Truyền Giáo
? Tâm Điểm của Kinh Mân Côi là Chúa Kitô
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
T |
heo tinh thần gắn bó với Giáo Hội, Phong Trào Thiếu Nhi Fatima luôn học hỏi những gì được Đức Thánh Cha nhắn nhủ và kêu gọi cho giới trẻ. Chẳng hạn Thiếu Nhi Fatima đã học hỏi các sứ điệp của ĐTC gửi cho riêng giới trẻ từ năm 1997 đến 1999 để sửa soạn Mừng Đại Năm Thánh 2000, sau đó, từ năm 2001, hằng năm Thiếu Nhi Fatima cũng lấy sứ điệp của Ngày Giới Trẻ Thế Giới hằng năm để làm đề tài cho Khóa Tĩnh Huấn cuối năm, như năm 2001 “Các con là muối đất, là ánh sáng thế gian”, đề tài cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới XVII ở Canada vào tháng 7/2002. Ngoài ra, trong buổi Tĩnh Tâm Mùa Chay hằng năm, Thiếu Nhi Fatima cũng lấy các sứ điệp của ĐTC về mùa chay trong năm đó để suy niệm và chia sẻ, như năm 2003 về đề tài “Cho đi phúc hơn nhận lãnh”.
Riêng Năm Mân Côi được bắt đầu từ ngày 16/10/2002 tới 19/10/2003, Thiếu Nhi Fatima cũng học hỏi Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Bằng cách có 5 đoàn, mỗi đoàn phụ trách một phần của bức Tông Thư, ba phần thân cùng với phần mở và kết. Đoàn nào tới phiên tổ chức Thứ Bảy Đầu Tháng tại đoàn mình sẽ phụ trách trình bày và chia sẻ phần Tông Thư được chỉ định. Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng Thánh Tâm 7/6/2003 tới phiên Đoàn Thiếu Nhi Fatima Đức Mẹ Mân Côi Pomona trình bày và chia sẻ phần Mở Đầu của Bức Tông Thư. Em huynh trưởng đại diện đoàn đã không nói hoàn toàn trong giới hạn về phần Mở Đầu mà là nói đến điểm cốt lõi của Bức Tông Thư, điểm đã đánh động em, (vì em đã đọc hết văn kiện này bằng tiếng Anh), đó là vấn đề Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi.
Lợi dụng dịp này, tôi cũng bổ túc thêm cho những gì em này cảm nhận và đồng thời cho chung các em Thiếu Nhi Fatima tham dự bấy giờ biết cách để chứng minh Chúa Kitô quả thực là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi. Những đoạn tiêu biểu Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh cái cốt lõi của Kinh Mân Côi trong Bức Tông Thư của Ngài như sau:
“Mặc dù rõ ràng là mang đặc tính Thánh Mẫu, Kinh Mân Côi tự bản chất là một kinh nguyện có tâm điểm là Chúa Kitô. Nơi những yếu tố bình dị của mình, Kinh Mân Côi chất chứa tất cả những gì sâu xa của toàn thể sứ điệp Phúc Âm, có thể nói được rằng Kinh Mân Côi là một tổng hợp Phúc Âm (Pope Paul VI, Apostolic Exhortation Marialis Cultus [2 February 1974], 42: AAS 66 [1974], 153). Kinh này còn là tiếng vọng của lời Mẹ Maria cầu nguyện, đó là Ca Vịnh Ngợi Khen bất hủ của Mẹ về công cuộc của Việc Nhập Thể cứu chuộc được bắt đầu trong cung lòng trinh nguyên của Mẹ”.
“Có điều rõ ràng là, mặc dù Kinh Mân Côi được lập đi lập lại trực tiếp dâng lên Mẹ Maria, nhưng tác động yêu thương với Mẹ và nhờ Mẹ cuối cùng lại được nhắm đến Chúa Giêsu. Việc lập lại được nuôi dưỡng bằng ước muốn nên giống Chúa Kitô hoàn toàn hơn, một hoạt trình đích thực của đời sống Kitô hữu… Kinh Mân Côi giúp chúng ta nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn cho đến khi chúng ta đạt tới tầm mức thánh thiện thực sự” (đoạn 26).
Thế rồi, sau khi chứng thực cho các em thấy Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi, tôi tiếp tục cho các em biết rằng Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi có thể được chứng thực qua ba điều, thứ nhất qua cấu trúc của chính tràng hạt Mân Côi, thứ hai qua ý nghĩa hay nội dung của Kinh Kính Mừng, và thứ ba qua bố cục của Kinh Mân Côi.
Trước hết, Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi qua cấu trúc của Tràng hạt Mân Côi, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhận định ở Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria của Ngài về cây thánh giá vừa là khởi điểm vừa là qui điểm của tràng chuỗi Mân Côi như sau:
“Việc lần hạt Mân Côi từ trước đến nay vẫn được thi hành bằng việc sử dụng một cỗ tràng hạt. Nếu lần hạt mà chẳng để ý gì lắm thì các hạt chuỗi thường trở thành một cái máy thuần túy đếm thứ tự các Kinh Kính Mừng. Tuy nhiên, những hạt chuỗi này cũng có thể trở thành một biểu hiệu cho việc sâu xa chiêm niệm nữa. Ở đây, điều đầu tiên phải để ý là cách thức những hạt chuỗi này đồng qui nơi Cây Thánh Giá, nơi vừa mở ra lại vừa đóng lại cái tiến trình tỏ hiện của việc nguyện cầu. Đời sống và việc cầu nguyện của người tín hữu được tập trung vào Chúa Kitô. Hết mọi sự được bắt đầu từ Người, hết mọi sự đều qui về Người, hết mọi sự nhờ Người mà đến cùng Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần” (đoạn 36).
Sau nữa, Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi ở chỗ ý nghĩa hay nội dung của Kinh Kính Mừng, một ý nghĩa và nội dung được tập trung nơi câu “Và Giêsu Con lòng bà gồm phúc lạ”. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề cập đến điều này như sau:
“Trọng tâm nơi Kinh Kính Mừng, cái then chốt thực sự gắn nối hai phần của kinh này lại với nhau đó là tên của Chúa Giêsu. Đôi khi, vì vội vàng lần hạt chúng ta đã không để ý đến trọng tâm này cho lắm, và bởi thế cũng chẳng chú ý tới việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm Chúa Kitô liên quan đến trọng tâm ấy. Tuy nhiên, chính việc chăm chú đến danh của Chúa Giêsu cũng như đến mầu nhiệm của Người là dấu hiệu chứng tỏ việc lần hạt Mân Côi có ý vị và hiệu quả” (đoạn 33.2).
Thật vậy, mở đầu Kinh Kính Mừng là lời Sứ Thần Gabiên chúc tụng Mẹ: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”. Thế nhưng, tại sao Mẹ Maria được Đầy Ơn Phúc? Nếu không phải vì “Đức Chúa Trời ở cùng Bà”. Và tại sao “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ”? Nếu không phải vì “Giêsu Con lòng bà gồm phúc lạ”.
Chưa hết, Mẹ Maria “đầy ơn phúc” không phải chỉ vì Mẹ được Thiên Chúa ở cùng, và “có phúc hơn mọi người nữ” không phải chỉ vì Mẹ được diễm hạnh thụ thai, cưu mang và cho Con Chúa Trời bú (x Lk 11:27), mà còn “có phúc vì đã tin những gì Chúa phán sẽ được thực hiện” (Lk 1:45). Đó là lý do, ở Mầu Nhiệm Mùa Thương, dù Con Mẹ có bị khổ nạn thế nào đi nữa, nhất là có bị đóng đanh trên thập giá chất vô cùng thảm thương và ô nhục mấy đi nữa, chúng ta vẫn chúc tụng Mẹ: “Kính mừng Maria đầy ơn Phúc”. Nếu chính bản thân và cả cuộc đời của Mẹ Maria tập trung vào Chúa Kitô và hiệp nhất với Chúa Kitô, “Giêsu Con lòng bà gồm phúc lạ”, như thế, thì quả thực Chúa Kitô chính là Tâm Điểm cho ý nghĩa và nội dung của Kinh Kính Mừng vậy, một Kinh tóm gọn tất cả mọi sự về Mẹ Maria, một kinh gói ghém tất cả Mầu Nhiệm Maria.
Chính vì thế, dù cả đời của mình, từng giây từng phút, chúng ta có lập lại lời Kinh Kính Mừng này, một lời kinh được Thánh Linh phát ngôn qua cửa miệng thần trời và thánh nhân, chúng ta, với tư cách cá nhân, cũng không xứng đáng và hoàn toàn chúc tụng Mẹ Maria cho đủ, vì Mẹ là kỳ công ân sủng tuyệt vời nhất của Thiên Chúa. Đó là lý do chúng ta cứ phải lập đi lập lại Kính Mừng Maria mãi mãi để chúc tụng Mẹ. Tuy nhiên, khi chúng ta chúc khen Mẹ diễm phúc là chúng ta cùng với Mẹ chúc tụng chính Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ những sự lạ lùng vậy (x Lk 1:49). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bày tỏ cảm nhận này ở Tông Thư Kinh Mân Côi như sau:
“Khi hiểu đúng Kinh Kính Mừng, chúng ta sẽ thấy một cách rõ ràng là tính cách Thánh Mẫu của kinh này không nghịch lại với đặc tính Kitô học của kinh ấy, nhưng lại là đặc tính được kinh này thực sự nhấn mạnh và đề cao… Việc lập đi lập lại Kinh Kính Mừng nơi Kinh Mân Côi làm cho chúng ta được thông phần vào việc Thiên Chúa ngắm nghía và mãn nguyện, ở chỗ, chúng ta hân hoan thán phục nhìn nhận phép lạ cả thể nhất lịch sử loài người. Lời tiên tri của Mẹ Maria ở đây đã được nên trọn: ‘Từ nay hết mọi thế hệ sẽ khen tôi diễm phúc’ (Lk 1:48)” (đoạn 33.1).
Sau hết, Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi ở bố cục của Kinh Mân Côi. Đúng thế, Kinh Mân Côi có hai phần rõ rệt, phần khẩu nguyện, với kinh chính yếu là Kinh Kính Mừng, và phần tâm nguyện, phần bao gồm 20 Mầu Nhiệm Chúa Kitô (kể cả 5 Mầu Nhiệm Ánh Sáng mới được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thêm vào trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria từ đầu Năm Mân Côi 16/10/2002).
Theo Đức Thánh Cha Phaolô VI và Gioan Phaolô II thì bởi vì các Mầu Nhiệm Chúa Kitô là hồn sống của Kinh Mân Côi, mà Kinh Mân Côi tự bản chất là một kinh nguyện chiêm niệm, một yếu tố chiêm niệm mà nếu không được thực hiện thì việc lần hạt Mân Côi chẳng khác gì như một cái xác vô hồn.
“Chính vì được bắt nguồn từ cảm nghiệm riêng của Mẹ Maria, Kinh Mân Côi là một kinh chiêm niệm tuyệt hảo. Thiếu chiều kích chiêm niệm này, Kinh Mân Côi sẽ mất đi ý nghĩa của mình, như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã tỏ tường vạch ra cho thấy điều ấy: ‘Thiếu chiêm niệm, Kinh Mân Côi là một cái xác không hồn, và việc lần hạt có nguy cơ sẽ trở thành một việc lập đi lập lại theo công thức như máy móc, một việc phạm đến lời cảnh cáo của Chúa Kitô: Khi cầu nguyện chớ lảm nhảm như kiểu của Dân Ngoại, vì họ nghĩ rằng cứ phải nhiều lời thì việc cầu nguyện của họ mới có công hiệu (Mt 6:7). Tự bản chất của mình, việc lần hạt Mân Côi đòi phải có một nhịp điệu nhẹ nhàng và một tốc độ chậm rãi, giúp cho con người nhờ đó có thể suy niệm về các mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Kitô là những gì đã được nhìn thấy bằng ánh mắt của Vị ở gần Người nhất. Nhờ đó, kho tàng khôn thấu của các mầu nhiệm này mới được tỏ hiện’ (Apostolic Exhortation Marialis Cultus [2 February 1974], 47: AAS [1974], 156)”.
Tóm lại, chính vì Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã định nghĩa việc lần hạt Mân Côi hay cầu kinh Mân Côi là việc cùng Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô:
“Hãy chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô với Mẹ Rất Thánh của Người và tại học đường của Mẹ Người. Việc lần hạt Mân Côi không là gì khác ngoài việc cùng với Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô” (Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, đoạn 3).
“Bằng việc đọc lên những lời của Thiên Thần Gabiên và của bà Thánh Isave trong Kinh Kính Mừng, chúng ta cảm thấy mình liên lỉ được thúc đẩy tìm kiếm lại nơi Mẹ Maria, nơi đôi cánh tay của Mẹ, cũng như nơi trái tim của Mẹ, ‘quả phúc của lòng Mẹ’” (đoạn 24).
(xin đọc tiếp bài dưới đây)
Cầu Kinh Mân Côi là Tuyên Xưng Chúa Kitô
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Cũng em huynh trưởng Thiếu Nhi Fatima trên đây, vào ngày 29/8/2003, đã gửi cho tôi một điện thư đặt vấn đề là Kinh Mân Côi là một kinh chiêm niệm tại sao lại đọc chung thành lời, vì làm như thế sẽ gây chia trí vì đã chiêm niệm thì cần phải trầm lặng? Sau đây là những gì tôi đã trả lời cho em.
Để hiểu rõ vấn đề có vẻ mâu thuẫn này cần phải thấu triệt được bản chất của chiêm niệm Kitô giáo cũng như kết cấu chuyên biệt của chính Kinh Mân Côi.
Bản Chất Chiêm Niệm Kitô Giáo
Trước hết, chiêm niệm là gì, nếu không phải là cảm nghiệm thần linh bằng tất cả tâm hồn của mình, chứ không phải chỉ bằng trí khôn qua việc suy niệm, hay bằng ký ức qua việc tưởng nhớ, hoặc bằng cảm tình qua việc cảm xúc nhất thời. Tuy nhiên, cảm nghiệm thần linh cần phải được phản ảnh qua các hoạt động tông đồ. Đây là đặc điểm chuyên biệt nơi vấn đề chiêm niệm của Kitô giáo, khác với việc chiêm niệm của các tôn giáo khác. Việc Kitô giáo chiêm niệm không dừng lại ở chỗ một mình hoan hưởng những tư tưởng cao siêu, mà là tiến đến chỗ hăng say truyền bá và phục vụ. Nếu "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Jn 1:5) thì tâm hồn chiêm niệm, tâm hồn cảm nghiệm thần linh, hay cảm nghiệm ánh sáng, sẽ trở thành một thứ phản chiếu ánh sáng.
Đó là lý do chúng ta thấy, qua các Phúc Âm, bất cứ ai, kể cả thành phần ngoại giáo hay tội nhân, một khi được giao tiếp với Lời Nhập Thể, được giao tiếp với Vị Thiên Chúa thần linh nơi Con Người Giêsu Nazarét, tức một khi có được một cảm nghiệm thần linh thực sự, họ đều trở thành những nhà truyền giáo. Điển hình nhất là những người được Chúa Giêsu chữa cho lành bệnh đã không thể câm nín mà không tuyên dương chúc tụng Người dù đã được Người căn dặn phải giữ kín (x Mt 9:3-31; Mk 1:44-45), hay trường hợp của người phụ nữ Samaritanô sau khi bất ngờ được hội ngộ với Người bên bờ giếng Giacóp giữa buổi trưa nóng bức (x Jn 4:28-30), hoặc trường hợp của hai môn đệ chán chường đi về Emmau sau khi nhận ra Đấng Phục Sinh qua cử chỉ bé bánh của Người (x Lk 24:31-35). Một tâm hồn chiêm niệm, chính vì cảm nghiệm thần linh, cảm thấy Thiên Chúa vô cùng đáng yêu đáng mến, làm sao có thể không lên tiếng chúc tụng Ngài, không "rên lên những lời than khôn tả" (Rm 8:26), cũng như có thể ngồi yên không làm hết cách để Ngài được nhận biết và yêu mến.
Là đệ nhất mô phạm về chiêm niệm, Mẹ Maria đã chẳng vội vã lên đường đi thăm bà chị họ Isave của mình ngay sau khi Mẹ đã được thụ thai và cưu mang Con Đấng Tối Cao (x Lk 1:39-40) hay sao? Và việc chiêm niệm của Mẹ, việc Mẹ cảm nghiệm thần linh, cảm nghiệm Vị "Thiên Chúa là Thần Linh" (Jn 4:24) đang thực sự hiện diện một cách thể lý ngay trong lòng dạ của Mẹ cũng đã chẳng làm cho Mẹ không thể không cất tiếng ngợi khen chúc tụng Ngài hay sao: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và lòng trí tôi hân hoan trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Chúa đã thương đến phận thấp hèn tôi tớ của Ngài, nên từ nay muôn đời sẽ khen tôi diễm phúc. Vì Chúa đã làm cho tôi những điều trọng đại, danh Ngài là thánh" (Lk 1:46-48)?
Tóm lại, theo Kitô giáo, một Kitô hữu (đã tiến đến bậc cầu nguyện) chiêm niệm chính là một tông đồ. Các vị tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn sống gần Người, nhờ đó có thể chiêm ngắm Người, có thể cảm nghiệm được Người một cách cụ thể (x 1Jn 1:1-2), là để các vị sau đó, sau khi Người từ trong kẻ chết sống lại, lên trời và sai Thánh Thần xuống, hiên ngang ra đi rao giảng tin mừng cho tất cả mọi tạo vật cho đến tận cùng trái đấy (x Mt 28:19; Mk 16:15; Acts 1:8). Đó là lý do Người đã căn dặn các vị ngay từ lần Người sai các vị đi truyền giáo tiên khởi cho thành phần "chiên lạc của nhà Yến Duyên" (Mt 10:6): "Những gì Thày nói với các con trong tăm tối, hãy nói ra trong ánh sáng. Những gì các con âm thầm nghe được hãy rao giảng trên mái nhà" (Mt 10:26-27). Thật vậy, tâm hồn chiêm niệm chỉ thực sự cảm nghiệm thần linh sau khi họ đã trải qua những đêm tăm tối đức tin, cũng như sau khi, nhờ đó, họ được Thiên Chúa mạc khải cho biết những điều cao siêu huyền nhiệm mà chính thành phần khôn ngoan thông thái nhất thế gian cũng không thể nào tự mình có thể thấu hiểu và chấp nhận (x Mt 11:25).
Căn cứ vào bản chất của vệc chiêm niệm theo Kitô giáo trên đây, chúng ta thấy chiêm niệm có tích cách sinh động và truyền đạt chứ không phải thụ động và chiếm thủ. Bởi thế, việc nội tâm chiêm niệm và miệng lưỡi chúc tụng nơi Kinh Mân Côi một lúc là tác động rất thích hợp với việc chiêm niệm.
Cấu Trúc Chuyên Biệt của Kinh Mân Côi
Không giống như tất cả mọi kinh nguyện khác, Kinh Mân Côi gồm có hai phần, khẩu nguyện (vocal prayer) và tâm nguyện (mental prayer). Khẩu nguyện là việc đọc các Kinh Mân Côi, nhất là Kinh Kính Mừng. Tâm nguyện là việc suy niệm các Mầu Nhiệm Mân Côi (vui, sáng, thương, mừng). Thiếu một trong hai phần này, hoặc khẩu nguyện hay tâm nguyện, đều không phải là Kinh Mân Côi. Sở dĩ Kinh Mân Côi vừa có cả khẩu nguyện lẫn tâm nguyện là vì khẩu nguyện liên quan đến đức tin cứu độ và tâm nguyện liên quan đến mạc khải thần linh.
Thật vậy, Mầu Nhiệm Mân Côi cũng chính là Mầu Nhiệm Chúa Kitô, bao gồm tất cả những gì Thiên Chúa muốn tỏ ra cho loài người biết qua Con Người Giêsu Nazarét, để loài người có thể nhờ đó mà được cứu độ bằng đức tin của mình, một đức tin được chứng thực bằng việc tuyên xưng "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16:16; x Jn 11:27). Thế nhưng, trong loài người ai đã tin tưởng Thiên Chúa, Đấng tỏ mình ra nơi Con Người Giêsu Nazarét cho bằng Mẹ Maria. Bởi vậy, theo ý nghĩa này, khi đọc Kinh Kính Mừng là Kitô hữu Công giáo chúng ta chẳng những tỏ ra khâm phục đức tin tuyệt đối của Mẹ, Đấng "có phúc vì đã tin" (Lk 1:45), Đấng luôn "đầy ơn phúc" (Lk 1:28), ở chỗ, đã theo Người cho đến cùng, đến khi đứng dưới chân thập giá của Người (x Jn 19:25), mà còn cùng với Mẹ Maria tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu Kitô.
Nếu Thiên Chúa tỏ mình ra là để cứu độ loài người thì Ngài còn mong gì hơn là được loài người tỏ ra tin tưởng chấp nhận Ngài. Cũng thế, nếu Mầu Nhiệm Mân Côi, hay Mầu Nhiệm Chúa Kitô, là những mầu nhiệm diễn đạt Mạc Khải Thần Linh, thì Mầu Nhiệm Mân Côi, Mầu Nhiệm Chúa Kitô không thể thiếu Kinh Nguyện Mân Côi nói chung và Kinh Kính Mừng nói riêng là kinh nguyện chất chứa đức tin của một đệ nhất tạo vật về ân sủng. Việc môi miệng đọc Kinh Kính Mừng, do đó, không thể thiếu khi nội tâm đồng thời cũng chiêm ngắm dung nhan Chúa Kitô qua các Mầu Nhiệm Mân Côi.
Tuy nhiên, vì thuộc về gia đình nhân loại mà mỗi một con người sinh vào trần gian đều nhiễm lây nguyên tội và phải lãnh chịu hậu quả của nguyên tội thế nào, theo lịch sử cứu độ, Thiên Chúa cũng muốn thực hiện dự án cứu độ của Ngài qua Cộng Đồng Dân Chúa là dân Do Thái, và muốn qui tụ con cái của Ngài phân tán khắp nơi lại thành Cộng Đồng Giáo Hội như vậy. Vì là Dân Chúa đã được cứu độ qua Bí Tích Rửa Tội, Kitộ hữu càng cần phải cùng nhau chẳng những tuyên xưng đức tin, nhất là qua việc cử hành Mầu Nhiệm Đức Tin là Thánh Lễ, mà còn cần phải cùng nhau truyền bá đức tin, cụ thể là việc bác ái xã hội của các dòng tu.
Nếu Kinh Kính Mừng, như đã nhận định, là kinh thể hiện đức tin cao cả của Mẹ Maria trước Mầu Nhiệm Chúa Kitô, thì việc đọc Kinh Mân Côi chung cũng là một cách hết sức thích hợp và chích đáng trong việc cùng nhau biểu lộ đức tin, tuyên xưng đức tin. Bởi thế, Kinh Mân Côi, tuy không phải là Kinh Phụng Vụ chính thức của Giáo Hội, làm cho Kitô hữu dù có đọc riêng theo cá nhân cũng vẫn có tác dụng đọc chung với tư cách của toàn thể Giáo Hội, một khi được đọc chung, bấy giờ Kinh Mân Côi mang tính cách Giáo Hội, tính cách của một Cộng Đồng Dân Chúa cùng nhau tuyên xưng đức tin. Đó là lý do Kinh Mân Côi chẳng những có thể đọc riêng mà còn nên đọc chung và cần phải đọc chung nữa.
Tình trạng chia trí khi đọc kinh Mân Côi chung hơn là đọc riêng không phải do chính kết cấu của Kinh Mân Côi, hay do đường lối thực hành kinh nguyện đặc biệt này, cho bằng, ngoài những lý do khác, còn do bởi tâm hồn cầu kinh nguyện ấy đi từ ngoài vào trong, chứ không phải từ trong ra ngoài. Nếu con người đi từ ngoài vào trong ở chỗ nhờ những lời kinh mà suy mầu nhiệm, một tác động, theo kinh nghiệm, dễ trở thành thuần túy "môi miệng" (x Mk 7:6), thì con người cầu kinh Mân Côi đi từ trong ra ngoài, từ lòng đầy mới trào ra ngoài miệng (x Mt 12:34), ở chỗ, nội tâm họ say sưa chiêm niệm Mầu Nhiệm Chúa Kitô rồi mới bật thành lời lập đi lập lại không ngừng Kinh Kính Mừng Maria!
? Kinh Mân Côi và Thánh Thể với Việc Truyền Giáo
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
N |
gày Chúa Nhật Truyền Giáo bao giờ cũng rơi vào Tháng Mười hằng năm. Năm 2003, Ngày Giáo Hội Truyền Giáo 19/10, được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn để kết thúc Năm Mân Côi, một năm kéo dài từ 16/10/2002, ngày kỷ niệm đúng 24 năm được bầu làm giáo hoàng của ĐTCGPII. Trong Ngày Giáo Hội Truyền Giáo 19/10/2003 cũng là ngày Bế Mạc Năm Mân Côi ấy, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gửi một sứ điệp về Ngày Giáo Hội Truyền Giáo liên quan đến Kinh Mân Côi. Năm 2004, Ngày Giáo Hội Truyền Giáo là ngày 24/10, xẩy ra một tuần sau ngày bế mạc Đại Hội Thánh Thể Thế Giới lần thứ 48 ở Mễ Tây Cơ, Chúa Nhật 17/10/2004, dịp Đức Thánh Cha đã chính thức khai mạc Năm Thánh Thể, một năm sẽ kéo dài tới khi kết thúc Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Thường Lệ 29/10/2005, (sau này, qua thời Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, được đổi vào ngày 23/10/2005). Về Ngày Giáo Hội Truyền Giáo 24/10/2004 vừa bước vào Năm Thánh Thể này, Đức Thánh Cha cũng đã gửi cho Giáo Hội một sứ điệp, chủ đề “Thánh Thể với Việc Truyền Giáo”.
Đó là lý do chúng ta hãy cũng nhau ôn lại những điểm chính yếu của những gì được Vị Chủ Chăn Tối Cao của chúng ta huấn dụ sống đạo qua hai sứ điệp cho Ngày Giáo Hội Truyền Giáo, một liên quan tới Kinh Mân Côi kết Năm Mân Côi (10/2002-2003) và một liên quan đến Thánh Thể khai mở Năm Thánh Thể (10/2004-2005)
Kinh Mân Côi với Việc Truyền Giáo
Để thấy được ý hướng của Đức Thánh Cha ra sao nơi mối liên hệ giữa Kinh Mân Côi và Việc Truyền Giáo, chúng ta hãy đọc lại đoạn sứ điệp cho Ngày Truyền Giáo 2003 của Ngài sau đây sẽ thấy:
“Nhờ phép rửa, tất cả mọi tín hữu được kêu gọi nên thánh. Trong Hiến Chế Tín Lý ‘Ánh Sáng Muôn Dân’ Lumen Gentium, Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhấn mạnh là ơn gọi phổ quát nên thánh là ở chỗ tất cả mọi người được kêu gọi sống đức ái trọn hảo. Đức thánh thiện và việc truyền giáo là những khía cạnh không thể tách rời nhau nơi ơn gọi của hết mọi người đã lãnh nhận phép rửa. Việc dấn thân trở nên thánh thiện hơn là việc chặt chẽ gắn liền với việc dấn thân truyền bá sứ điệp cứu độ. Trong Thông Điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Chuộc Redemptoris Missio, Tôi đã nhắc nhở rằng: ‘Hết mọi phần tử tín hữu được kêu gọi nên thánh và truyền giáo” (số 90). Trong việc chiêm ngưỡng các mầu nhiệm của Kinh Mân Côi, người tín hữu được thúc đẩy theo Chúa Kitô và chia sẻ đời sống của Người, nhờ đó, họ có thể nói với Thánh Phaolô rằng: “Không phải là tôi sống, song là Chúa Kitô sống trong tôi’ (Gal 2:20). (4)
Qua đoạn sứ điệp cốt lõi này, trước hết, Ngài nhấn mạnh đến khía cạnh bất khả phân ly giữa việc nên thánh và truyền giáo. Sau đó, Ngài xác định tầm quan trọng của cầu Kinh Mân Côi với việc truyền giáo.
Ngài nhấn mạnh đến khía cạnh bất khả phân ly giữa việc nên thánh và truyền giáo như thế này:
· “Đức thánh thiện và việc truyền giáo là những khía cạnh không thể tách rời nhau nơi ơn gọi của hết mọi người đã lãnh nhận phép rửa”;
· “Việc dấn thân trở nên thánh thiện hơn là việc chặt chẽ gắn liền với việc dấn thân truyền bá sứ điệp cứu độ”;
· “Hết mọi phần tử tín hữu được kêu gọi nên thánh và truyền giáo”.
Sau khi đã mạnh mẽ khẳng định tính cách bất khả phân ly của việc nên thánh và truyền giáo, Ngài xác định tầm quan trọng của cầu Kinh Mân Côi với việc truyền giáo. Hay nói cách khác, Ngài muốn nói rằng Kinh Mân Côi cần cho việc truyền giáo. Tại sao? Ngài đã nhận định là
· “Trong việc chiêm ngưỡng các mầu nhiệm của Kinh Mân Côi, người tín hữu được thúc đẩy theo Chúa Kitô và chia sẻ đời sống của Người, nhờ đó, họ có thể nói với Thánh Phaolô rằng: ‘Không phải là tôi sống, song là Chúa Kitô sống trong tôi’”
Vâng, ở đây Đức Thánh Cha đã động đến cốt lõi của việc truyền giáo, đó là việc loan báo hay rao giảng Chúa Kitô, là việc làm chứng nhân cho Người, tức làm cho Người được nhận biết và yêu mến. Thế nhưng, làm sao Kitô hữu có thể làm chứng nhân cho Người nếu chúng ta không biết về Người, nếu chúng ta không được Người chiếm đoạt và sống trong chúng ta để sinh hoa trái nơi chúng ta là cành nho phát xuất từ Người là thân nho. Theo Đức Thánh Cha thì Kinh Mân Côi có thể giúp Kitô hữu đạt đến mức độ thần hiệp, đến độ Chúa Kitô sống trong họ, vì, như Đức Thánh Cha xác tín:
· “Trong việc chiêm ngưỡng các mầu nhiệm của Kinh Mân Côi, người tín hữu được thúc đẩy theo Chúa Kitô và chia sẻ đời sống của Người, nhờ đó, họ có thể nói với Thánh Phaolô rằng: “Không phải là tôi sống, song là Chúa Kitô sống trong tôi’”
Nếu Kinh Mân Côi theo Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có thể giúp đào tạo Kitô hữu trở thành những thánh nhân và chứng nhân như thế, thì những ai vốn lần hạt Mân Côi hãy kiểm điểm lại xem Kinh mân Côi quả thực đã “thúc đẩy (mình) theo Chúa Kitô và chia sẻ đời sống của Người” hay chưa? Nếu rồi thì cùng Mẹ “ngợi khen” Chúa; nếu chưa thì tại sao?
Thánh Thể với Việc Truyền Giáo
Như cách thức để phân tích trên đây về mối liên hệ giữa Kinh Mân Côi và Việc Truyền Giáo, áp dụng vào mối liên hệ giữa Thánh Thể và Việc Truyền Giáo, chúng ta cũng cần trích lại một câu sứ điệp tiêu biểu của Đức Thánh Cha cho Ngày Giáo Hội Truyền Giáo 2004 để chẳng những tìm hiểu mà còn áp dụng vào đời sống đạo.
· “Mục đích của Thánh Thể chính là ‘hiệp thông loài người với Chúa Kitô và trong Người với Chúa Cha và Thánh Thần’ (Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia đoạn 22). Khi chúng ta tham dự vào Hy Tế Thánh Thể chúng ta hiểu sâu xa hơn nữa tính cách phổ quát của ơn cứu chuộc, nhờ đó, hiểu được tính cách khẩn trương của sứ vụ Giáo Hội thực hiện chương trình hoạt động của mình ‘lấy Chúa Kitô làm tâm điểm, Đấng cần phải được nhận biết, yêu mến và bắt chước, để trong Người chúng ta được sống sự sống Chúa Ba Ngôi và cùng với Người biến đổi lịch sử cho đến khi nó được nên trọn nơi Giêrusalem thiên đình’ (Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia đoạn 60)… Ở cuối mọi Thánh Lễ, khi vị chủ tế từ biệt cộng đồng dân Chúa bằng lời ‘Ite, Missa est’, thì tất cả mọi người đều cảm thấy rằng họ được sai đi như ‘những vị thừa sai Thánh Thể’ để mang đến cho mọi hoàn cảnh tặng ân cao cả họ đã lãnh nhận. Thật thế, bất cứ ai được hội ngộ với Chúa Kitô nơi Thánh Thể đều không thể nào không loan báo bằng đời sống của mình tình yêu nhân hậu của Đấng Cứu Thế” (2).
Qua đoạn văn chính yếu cho Sứ Điệp “Thánh Thể Với Việc Truyền Giáo” này, chúng ta thấy Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến mấy điểm sau đây: thứ nhất, đến mục đích của Thánh Thể; thứ hai, đến nội dung của Thánh Thể; và thứ ba tính chất của Thánh Thể.
Về mục đích của Thánh Thể, Đức Thánh Cha đã xác định rõ ràng đến khía cạnh hướng nội của Thánh Thể như sau:
· “Mục đích của Thánh Thể chính là ‘hiệp thông loài người với Chúa Kitô và trong Người với Chúa Cha và Thánh Thần’”
Về nội dung của Thánh Thể, Đức Thánh Cha đã cho thấy Hy Tế Thánh Thể chất chứa ơn cứu độ phổ quát là những gì Giáo Hội có sứ vụ cần phải ban phát và làm sinh hoa kết trái trong giòng lịch sử.
· “Khi chúng ta tham dự vào Hy Tế Thánh Thể chúng ta hiểu sâu xa hơn nữa tính cách phổ quát của ơn cứu chuộc, nhờ đó, hiểu được tính cách khẩn trương của sứ vụ Giáo Hội thực hiện chương trình hoạt động của mình ‘lấy Chúa Kitô làm tâm điểm, Đấng cần phải được nhận biết, yêu mến và bắt chước, để trong Người chúng ta được sống sự sống Chúa Ba Ngôi và cùng với Người biến đổi lịch sử cho đến khi nó được nên trọn nơi Giêrusalem thiên đình’”.
Về tính chất của Thánh Thể, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến khía cạnh trao ban, khía cạnh vươn mình ra của Thánh Thể như sau:
· “Ở cuối mọi Thánh Lễ, khi vị chủ tế từ biệt cộng đồng dân Chúa bằng lời ‘Ite, Missa est’, thì tất cả mọi người đều cảm thấy rằng họ được sai đi như ‘những vị thừa sai Thánh Thể’ để mang đến cho mọi hoàn cảnh tặng ân cao cả họ đã lãnh nhận. Thật thế, bất cứ ai được hội ngộ với Chúa Kitô nơi Thánh Thể đều không thể nào không loan báo bằng đời sống của mình tình yêu nhân hậu của Đấng Cứu Thế”
Với ba ý tưởng chính của đoạn sứ điệp về “Thánh Thể Với Việc Truyền Giáo” trên đây của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, liên quan đến mục đích của Thánh Thể, nội dung của Thánh Thể và tính chất của Thánh Thể, chúng ta thấy Thánh Thể quả thực là như một thân nho, Kitô hữu là cành nho được tháp nhập với thân nho này qua phép rửa nhưng phải được nuôi dưỡng một cách đặc biệt bởi thân nho qua Bí Tích Thánh Thể, nhờ đó, thân nho Thánh Thể mới sinh muôn vàn hoa trái các linh hồn nơi các cành nho Kitô hữu chi thể của mình, những cành nho dính liền với thân nho bằng việc thiết tha cử hành Thánh Thể và lãnh nhận Thánh Thể ban sự sống của Người.
Đó là lý do, ở đoạn 3 trong cùng sứ điệp “Thánh Thể với Việc Truyền Giáo”, Đức Thánh Cha còn khẳng định như sau:
· “Làm sao Giáo Hội có thể hoàn thành ơn gọi của mình mà lại không vun trồng một mối liên hệ liên lỉ với Thánh Thể, mà lại không nuôi dưỡng mình bằng thứ lương thực thánh hóa này, mà lại không đặt nền tảng hoạt động truyền giáo của mình trên sự nâng đỡ bất khả thiếu này được? Để truyền bá phúc âm hóa thế giới cần phải có những vị tông đồ ‘chuyên nghiệp’ trong việc cử hành, tôn thờ và chiêm ngưỡng Thánh Thể”.
Chính vì cả Kinh Mân Côi lẫn Thánh Thể đều liên quan mật thiết đến Việc Truyền Giáo mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tóm gọn ý tưởng của mình về mối liên hệ tam diện này như sau, trong sứ điệp “Thánh Thể với Việc Truyền Giáo”, ở ngay đoạn thứ 1 của sứ điệp này:
· “Chúng ta hãy chiêm ngưỡng Thánh Thể bằng ánh mắt của Mẹ Maria. Tin tưởng vào lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ, Giáo Hội hiến dâng Chúa Kitô, Bánh Cứu Độ, cho tất cả mọi dân nước để họ nhận biết Người và chấp nhận Người như Đấng Cứu Thế duy nhất của nhân loại”.
Lược Sử Lễ Đức Bà Mân Côi
Những diễn tiền về lịch sử đáng ghi nhớ của ngày mùng 7 tháng 10 năm 1571, Ngày Chúa Nhật đầu tháng này, đã là những gì đưa đến việc xuất hiện lễ Đức Bà Mân Côi. Thế giới Tây phương đã phải đối diện với cuộc thảm họa và tàn phá toàn diện gây ra bởi những người Thổ Nhĩ Kỳ có một hạm đội dũng mãnh đã làm chủ hầu hết Địa Trung Hải và thực sự đang đe dọa Ý quốc. Thánh Giáo Hoàng Piô V và các vị lãnh đạo Kitô giáo khác, vì tin rằng chỉ có ơn trợ giúp siêu nhiên bấy giờ mới có thể chặn đứng cuộc xâm chiếm sắp sửa xẩy ra, đã hướng mắt về trời nài van Người Mẹ thiên đình chuyển cầu cho họ. Vị Thánh Giáo Hoàng cũng xin các Hiệp Hội Mân Côi hãy gia tăng việc họ tôn sùng này vào ngày 7/10 và cử hành việc tôn sùng này một cách trọng thể hơn.
Thật thế, chính vào ngày này, lực lượng hải quân của liên minh Kitô giáo đụng độ hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ vững chắc của Thổ Nhĩ Kỳ ở Vịnh Lêpantô. Truyện kể rằng trong khi trận chiến hết sức quan trọng này đang gay go thì Đức Piô V, được linh cảm thiên đình, đã kêu lên “Chiến thắng! Chiến thắng!” Thật thế, hạm đội của bên địch đã hoàn toàn thảm bại làm tan rã lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ. Vị Giáo Hoàng này không được đặc ân cử hành cuộc mừng kỷ niệm ân huệ lớn lao này của Thiên Chúa. Ngày cùng tháng tận của ngài đã đến, nhưng không xẩy ra trước khi ngài tuyên bố hiệu thành vào ngày 17/3/1572 về việc công khai tạ ơn Mẹ Maria và sâu xa tri ân Mẹ về việc Mẹ bảo vệ chở che, một cuộc tưởng niệm đặc biệt được giành cho Mẹ vào ngày 7/10 dưới tước hiệu Đức Bà Thắng Trận.
Đức Grêgôriô XIII, vị thừa nhiệm của ngài, đã thay đổi tước hiệu này thành Đức Bà Mân Côi, và vào ngày 1/4/1573, đã ban sắc chỉ truyền cử hành một thánh lễ mới vào ngày Chúa Nhật đầu Tháng Mười, ban phép cử hành ở những nhà thờ có bàn thờ mang tước hiệu ấy. Một trăm năm sau, theo lời yêu cầu của Nữ Hoàng Tây Ban Nha là Mary Anne, lễ này được lan rộng khắp Tây Ban Nha, và sau đó ít lâu, đến nhiều giáo phận ở Ý và các quốc gia khác. Vào ngày 3/10/1716, như một cách công nhận cuộc chiến thắng của Hoàng Tử Eugene của Savoy đối với quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Hung Gia Lợi vào ngày 5/8 dưới sự bảo hộ của Đức Mẹ Xuống Tuyết, Đức Clêmentê XI đã ban hành một văn kiện, một văn kiện được soạn thảo bởi vị tiền nhiệm của ngài là Đức Innocentê XI, nới rộng lễ Đức Mẹ Mân Côi ra khắp Giáo Hội hoàn vũ. Đức Lêô XIII đã nâng lễ này lên bậc lễ cao hơn. Sau cùng Đức Piô X, trong tự sắc Motu Proprio ngày 23/10/1913, đã chỉ định lễ này vào ngày 7/10 hằng năm.
(Lm Juniper B. Carol, OFM, Thánh Mẫu Học do Brice xuất bản năm 1961, tập thứ 3)