GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ NĂM 8/11/2007 TUẦN XXXI THƯỜNG NIÊN |
? THÁNH THỂ LÀ CỬ HÀNH VINH HIỂN THẦN LINH
? THÁNH THỂ LÀ TƯỞNG NIỆM CÁC VIỆC TỒN NĂNG CỦA THIÊN CHÚA
? THÁNH THỂ LÀ HY TẾ CHÚC TỤNG TUYỆT HẢO
? THÁNH THỂ LÀ CỬ HÀNH VINH HIỂN THẦN LINH
ĐTC GPII: Bài Giáo Lý 24 trong Năm Thánh 2000 (Thứ Tư 27/9/2000)
1. Theo chương trình được phác họa trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến Tertio Millennio Adveniente, Năm Mừng Kỷ Niệm này, năm long trọng cử hành biến cố Nhập Thể, phải là một năm “nặng về Thánh Thể” (số 55). Bởi thế, sau khi ngắm nhìn vinh quang của Chúa Ba Ngôi tỏa chiếu trên đường nẻo của con người, chúng ta hãy bắt đầu tiến đến phần giáo lý về việc cử hành vinh quang thần linh cao cả dù thấp hạ là Thánh Thể. Cao cả, vì Thánh Thể là việc Chúa Kitô hiện diện được thực sự thể hiện giữa chúng ta “mãi mãi cho đến tận thế” (Mt 28:20); thấp hạ, vì Thánh Thể được trao ban cho thành phần đơn thành, vì là những hình thức bánh rượu thường ngày, vì là thứ của ăn của uống thông thường nơi mảnh đất của Chúa Giêsu cũng như của nhiều phần đất khác. Nơi thứ bổ dưỡng thường ngày này, Thánh Thể mang lại chẳng những hứa hẹn mà còn “bảo chứng” cho vinh quang mai hậu nữa: “futurae gloriae nobis pignus datur” (Thánh Tôma Aquina, Officium de festo corporis Christi). Để thấu hiểu được tính cách cao cả của mầu nhiệm Thánh Thể, hôm nay chúng ta hãy suy niệm đề tài về vinh quang thần linh cũng như về tác động của Thiên Chúa trong thế giới, một thứ vinh quang và tác động hiện nay đang được tỏ lộ qua những biến cố cứu độ cao cả, một thứ vinh quang và tác động hiện nay đang được khuất kín dưới những hình thức thấp hạ mà chỉ có con mắt đức tin mới thấy được.
2. Trong Cựu Ước, từ ngữ kabód của tiếng Do Thái nói lên việc tỏ hiện của vinh quang thần linh cũng như việc hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử cùng thiên nhiên vạn vật. Vinh quang Chúa đã chiếu tỏa trên đỉnh núi Sinai, nơi mạc khải Lời thần linh (x Ex 24:16). Vinh quang Chúa hiện diện nơi lều thánh cũng như trong phụng vụ của Dân Chúa qua cuộc lữ hành nơi sa mạc của họ (x Lv 9:23). Vinh quang Chúa tràn ngập đền thờ, vị trí mà theo tác giả Thánh Vịnh nói đó là “nơi vinh quang Ngài ngự trị” (Ps 26:8). Vinh quang Chúa bao phủ toàn dân Chúa chọn như một chiếc áo choàng bằng ánh sáng (x Is 60:1), ở chỗ, theo lời của chính Thánh Phaolô, “họ là Dân Yến Duyên, thành phần chiếm được ơn làm nghĩa tử, vinh quang và các giao ước” (Rm 9:4).
3. Vinh quang thần linh này, một vinh quang thần linh được bộc lộ cho dân Yến Duyên cách đặc biệt, đang hiện diện trên toàn thế giới, như tiên tri Isaia đã nghe thấy thần Seraphim loan báo vào lúc lãnh nhận ơn gọi của mình: “Chúa các đạo binh là thánh, thánh, thánh; toàn thể trái đất đầy vinh quang Ngài” (Is 6:3). Thật vậy, Chúa đã tỏ vinh quang của Ngài ra cho tất cả mọi dân nước, như chúng ta đọc thấy trong Thánh Vịnh: “Tất cả mọi dân nước được thấy vinh quang của Ngài” (Ps 97:6). Bởi thế, việc chiếu tỏa ánh sáng vinh quang là một việc làm phổ cập, để tất cả loài người có thể nhận ra việc thần linh hiện diện trong vũ trụ. Việc chiếu tỏa ánh sáng vinh quang này được nên trọn đặc biệt nơi Chúa Kitô, vì Người “phản ánh vinh quang” của Thiên Chúa (Heb 1:3). Việc chiếu tỏa vinh quang ấy cũng được nên trọn nơi các việc Người làm, như Thánh Ký Gioan đã chứng thực qua dấu lạ ở Cana: Chúa Kitô “đã tỏ vinh quang của Người ra làm cho các môn đệ tin tưởng vào Người” (Jn 2:11). Người cũng chiếu tỏa vinh quang thần linh ra qua lời thần linh của Người nữa: “Con đã ban cho họ lời của Cha, Chúa Giêsu thưa cùng Chúa Cha, “vinh quang Cha đã ban cho Con thì Con cũng đã ban cho họ” (Jn 17:14, 22). Chính yếu hơn nữa, Người tỏ lộ vinh quang thần linh qua nhân tính Người mặc lấy khi Nhập Thể: “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta, đầy ân sủng và chân lý; chúng ta được thấy vinh hiển của Người, vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha” (Jn 1:14).
4. Việc vinh quang thần linh tỏ hiện trên thế gian đạt đến tột đỉnh của mình nơi biến cố Phục Sinh, một biến cố được riêng các bản văn của Thánh Gioan và Phaolô cho là Chúa Kitô vinh hiển ngự bên hữu Chúa Cha (x Jn 12:23, 13:31, 17:1; Phil 2:6-11; Col 3:1; 1Tím 3:16). Mà mầu nhiệm vượt qua, một mầu nhiệm “Thiên Chúa hoàn toàn được vinh hiển” (Hiến Chế về Phụng Vụ Sacrosanctum Concilium, 7), được kéo dài nơi hy tế Thánh Thể, một tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh Chúa Kitô đã được ký thác cho Giáo Hội, Hiền Thê dấu yêu của Người (x cùng nguồn vừa dẫn, 47). Bằng lời truyền “các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lk 22:19), Chúa Giêsu muốn bảo đảm việc hiện hữu của vinh quang vượt qua của Người nơi tất cả mọi cuộc cử hành Thánh Thể sẽ đánh dấu giòng lịch sử nhân loại. “Nhờ Bí Tích Thánh Thể, biến cố Vượt Qua của Chúa Kitô lan ra khắp Giáo Hội... Bằng việc rước Mình Máu Thánh Chúa Kitô, tín hữu lớn lên trong việc được thần linh hóa một cách nhiệm mầu, một việc thần linh hóa Thánh Linh làm cho họ ở trong Người Con như là những người con cái của Chúa Cha” (Gioan Phaolô II và Moran Mar Ignatius Zakka I Iwas, Joint Declaration, 23/6/1984, số 6: Enchiridion Vaticanum, 9, 842).
5. Ngày nay chúng ta đã có được một cuộc cử hành tuyệt vời nhất vinh quang thần linh trong phụng vụ: “Vì cuộc tử nạn của Chúa Kitô trên Thập Giá và cuộc phục sinh của Người làm nên những gì thuộc sinh hoạt hằng ngày của Giáo Hội và là bảo chứng cho Cuộc Vượt Qua vĩnh cửu của Người mà việc đầu tiên của phụng vụ là không ngừng dẫn chúng ta trở về với cuộc hành trình Phục Sinh do Chúa Kitô khởi xướng, một cuộc hành trình chúng ta chấp nhận chết đi để tiến vào sự sống” (Tông Thư Vicesimus quintus annus, 6). Giờ đây, công việc đầu tiên của phụng vụ này trước hết được thực thi qua việc cử hành Thánh Thể, một việc cử hành làm hiện thực Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô và là một việc thông đạt năng lực của cuộc khổ nạn này cho tín hữu. Như thế, việc tôn thờ của Kitô Giáo là một diễn đạt sống động nhất cuộc gặp gỡ giữa vinh quang thần linh với vinh hiển phát xuất từ môi miệng và lòng trí loài người. Đường lối chúng ta “hết lòng tôn vinh Chúa” (Sir 35:8) cần phải xứng hợp với “vinh quang Chúa tràn ngập lều tạm” (x Ex 40:34).
6. Như Thánh Phaolô nhắc nhở, chúng ta cũng phải tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác của chúng ta nữa, tức là nơi tất cả cuộc hiện hữu của chúng ta, vì thân xác của chúng ta là đền thờ của Thần Linh là Đấng ngự trong chúng ta (x 1Cor 6:19, 20). Theo ý nghĩa này, người ta cũng có thể nói về một cuộc cử hành vinh quang thần linh của vũ tru nữạ. Thế giới được dựng nên, một thế giới “thường hay bị biến dạng vì tính vị kỷ và lòng tham lam”, tự mình cũng có “mầm Thánh Thể”, ở chỗ, nó “được sử dụng nơi Thánh Thể của Chúa, nơi cuộc Vượt Qua của Người, được hiện diện nơi hy tế trên bàn thờ” (Orientale lumen, 11). Thế là thiên nhiên tạo vật sẽ hợp tiếng tụng ca một cách hòa điệu đáp lại hơi thở vinh quang Chúa “ở trên các tầng trời” (Ps 113:4) và chiếu xuống trần gian để, “Thiên Chúa được tôn vinh trong mọi sự nhờ Chúa Giêsu Kitô. Nguyện cho Người được vinh quang và hiển trị cho đến muôn đời. Amen!” (1Pt 4:11).
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 4/10/2000)
? THÁNH THỂ LÀ TƯỞNG NIỆM CÁC VIỆC TỒN NĂNG CỦA THIÊN CHÚA
ĐTC GPII: Bài Giáo Lý 25 trong Năm Thánh 2000 (Thứ Tư 4/10/2000)
1. Trong nhiều khía cạnh của Thánh Thể nổi nhất là khía cạnh “tưởng niệm”, một khía cạnh liên hệ đến một đề tài Thánh Kinh hết sức quan trọng. Chẳng hạn chúng ta đọc thấy trong Sách Xuất Hành: “Thiên Chúa đã nhớ đến giáo ước Ngài đã lập với Abraham và Giacĩp” (Ex 2:24). Tuy nhiên, Sách Nhị Luật lại viết: “Các ngươi phải nhớ đến những gì Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã làm...” (7:18). Theo Thánh Kinh, việc Thiên Chúa nhớ lại và việc con người nhớ đến đã cấu kết với nhau làm thành một yếu tố nền tảng nơi sinh hoạt của Dân Thiên Chúa. Thế nhưng, “đây khơng phải thuần túy chỉ là một việc hồi tưởng về những biến cố đã qua, mà là việc loan báo các cơng cuộc quyền năng do Thiên Chúa thực hiện cho lồi người. Trong việc cử hành phụng vụ các biến cố này, những biến cố ấy trở nên hiện hữu thực sự một cách chắc chắn” (Sách Giáo Lý của Giáo Hội Cơng Giáo, số 1363). Việc tưởng niệm là việc nhắc lại mối liên kết của một giao ước bất biến: “Chúa đã nhớ đến chúng tơi; Ngài sẽ chúc phúc cho chúng tơi” (Ps 115:12).
Như thế, đức tin theo Thánh Kinh bao hàm việc hồi tưởng thực sự về các cơng cuộc cứu độ. Những cơng cuộc này được tuyên xưng trong bản Đại Tuyên Hỷ là Thánh Vịnh 136, một thánh vịnh mà , sau khi loan báo về việc tạo thành và cứu độ được ban cho dân Yến Duyên qua Cuộc Xuất Hành, đã kết thúc như sau: “Chính Ngài là Đấng đã nhớ đến chúng tơi nơi phận thấp hèn, vì tình Ngài bền vững muơn đời; và Ngài đã giải cứu chúng tơi...; Ngài là Đấng ban lương thực cho tất cả mọi xác phàm, vì tình Ngài bền vững muơn đời” (Ps 136:23-25). Chúng ta cũng thấy những lời tương tự như vậy nơi Phúc Âm, qua mơi miệng của Mẹ Maria và ơng Zacaria: “Ngài đã hộ phù Yến Duyên tơi tớ của Ngài bởi nhớ lại lịng Ngài xĩt thương... khi nhớ tới giao ước thánh của Ngài” (Lk 1: 54, 72).
2. Trong Cựu Ước, việc “tưởng niệm” tuyệt đỉnh về các cơng cuộc của Thiên Chúa trong lịch sử đĩ là phụng vụ Vượt Qua trong biến cố Xuất Ai Cập, ở chỗ, mỗi lần dân Yến Duyên cử hành Lễ Vượt Qua thì Thiên Chúa thực sự ban cho họ ơn được tự do và cứu độ. Thế nên, trong lễ nghi Vượt Qua, hai việc tưởng nhớ được giao kết với nhau: một thần linh và một nhân loại, tức là, ân sủng cứu độ và đức tin tri ân. “Ngày này sẽ là một ngày tưởng nhớ đối với các người, và các người sẽ cử hành ngày ấy như là một ngày lễ kính Chúa... Ngày này sẽ nên như là một dấu hiệu trên tay của các người và như là một việc tưởng niệm trước mắt của các người, để lề luật của Chúa luơn ở trên mơi miệng của các người; vì Chúa đã dùng cánh tay mạnh mẽ mang các người ra khỏi Ai Cập” (Ex 12:14, 13:9). Vì biến cố này mà dân Yến Duyên, như một triết gia Do Thái nĩi, sẽ luơn luơn là “một cộng đồng theo lịng tưởng nhớ” (M. Buber).
3. Việc Thiên Chúa tưởng nhớ giao kết với việc lồi người tưởng niệm cũng ở ngay trung tâm của Thánh Thể nữa, một việc “tưởng nhớ” tuyệt đỉnh của Lễ Vượt Qua Kitơ Giáo. Vì “anamnesis”, tức tác động tưởng nhớ, là cốt lõi của việc cử hành này, ở chỗ, hy sinh của Chúa Kitơ, một biến cố cĩ một khơng hai, được thực hiện một cách ephapax, tức “một lần vĩnh viễn” (Heb 7:27, 9:12, 26, 10:12), đã trải dài sự hiện diện cứu độ của mình trong thời gian và khơng gian nơi lịch sử lồi người. Điều này đã được thể hiện nơi lệnh truyền sau hết, một lệnh truyền được Thánh Luca và Phaolơ ghi lại trong đoạn về Bữa Tiệc Ly như sau: “Đây là mình Thày sẽ bị nộp vì các con. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày... Đây là chén tân ước bằng máu Thày. Mỗi lần các con uống chén này, các con hãy làm để nhớ đến Thày” (1Cor 11:24-25; x Lk 22:19). Biến cố đã qua về “thân thể đã hy sinh vì chúng ta” trên cây Thập Giá được tái hiện hơm nay đây, để rồi, như Thánh Phaolơ tuyên bố, hướng về tương lai của việc cứu chuộc tận cùng: “Mỗi lần anh em ăn bánh này và uống chén ấy, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết cho tới khi Người ại đến” (1Cor 11:26). Như thế, Thánh Thể là việc tưởng niệm cuộc tử nạn của Chúa Kitơ, thế nhưng, Thánh Thể cũng là việc hiện diện hy sinh của Người cững như là việc ngưỡng vọng đến cuộc tái hiện vinh quang của Người. Thánh Thể là bí tích của việc Chúa phục sinh liên tục áp dụng ơn cứu độ trong lịch sử. Như thế chúng ta mới cĩ thể hiểu được lời Thánh Phaolơ huấn dụ Timơthêu: “Hãy nhớ đến Chúa Giêsu Kitơ, Đấng sống lại từ kẻ chết, Đấng thuộc giịng dõi Đavít” (2Tim 2:8). Nơi Thánh Thể, việc tưởng nhớ này tồn tại và sinh động một cách đặc biệt.
4. Thánh Ký Gioan đã giải thích cho chúng ta biết ý nghĩa sâu xa của việc “tưởng niệm” những lời nĩi và các biến cố của Chúa Kitơ. Khi Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ cho khỏi đám buơn bán và loan báo rằng đền thờ sẽ bị phá hủy rồi được tái thiết trong ba ngày, Thánh Gioan đã chú giải rằng: “Khi Người sống lại từ cõi chết, các mơn đệ đã nhớ lại rằng Người đã nĩi đến điều này; do đĩ, các vị đã tin Thánh Kinh và lời Chúa Giêsu đã phán” (Jn 2:22). Việc tưởng nhớ này, một việc tưởng nhớ trổ sinh và nuơi dưỡng đức tin, là việc làm của Chúa Thánh Thần, “Đấng Cha sẽ sai đến nhân danh” Chúa Kitơ: “Ngài sẽ dạy các con tất cả mọi sự, và sẽ làm cho các con nhớ lại tất cả những gì Thày đã nĩi với các con” (Jn 14:26). Như thế là cĩ một việc tưởng niệm thực sự, đĩ là việc tưởng niệm nội tâm làm cho chúng ta hiểu được Lời của Thiên Chúa, và việc tưởng niệm theo bí tích nơi Thánh Thể. Đây là hai thực tại cứu độ được Thánh Luca hợp lại trong trình thuật rõ ràng về hai mơn đệ trên đường đi Emmau, một trình thuật được cấu trúc chung quanh việc giải thích các câu Kinh Thánh và việc “bẻ bánh” (x Lk 24:13-55).
5. Bởi thế, “tác động tưởng nhớ” là “mang đến cho cõi lịng” theo ký ức và cảm tình, song nĩ cũng là việc cử hành một sự hiện diện nữa. “Chỉ cĩ một mình Thánh Thể, việc tưởng niệm thực sự mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitơ, mới cĩ khả năng làm cho việc tưởng nhớ đến tình yêu của Người tồn tại mà thơi. Vì thế, Thánh Thể là việc Giáo Hội âm thầm tỉnh thức, bằng khơng, khơng cĩ hiệu năng thần linh của niềm hứng khởi liên tục rất ngọt ngào này, khơng cĩ quyền năng thấm nhập của ánh mắt Vị Hơn Phu gắn nhìn mình, Giáo Hội rất dễ bị rơi vào quên lãng, vơ cảm và bất trung” (Tơng Thư Patres Ecclesiae, III: Ench. Vat., 7, 33). Lời mời gọi tỉnh thức này làm cho các phụng vụ Thánh Thể vươn tới việc Chúa đến sau hết, tới việc Giêrusalem trên trời xuất hiện. Nơi Thánh Thể, Kitơ hữu phát triển niềm hy vọng được vĩnh viễn gặp gỡ Chúa của mình.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 11/10/2000)
? THÁNH THỂ LÀ HY TẾ CHÚC TỤNG TUYỆT HẢO
ĐTC GPII: Bài Giáo Lý 26 trong Năm Thánh 2000 (Thứ Tư 11/10/2000)
1. “Nhờ Người, với Người và trong Người mà mọi chúc tụng và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng cùng với Chúa Thánh Thần”. Lời tuyên tụng Ba Ngôi này kết thúc lời cầu của Kinh Nguyện Thánh Thể mỗi lần cử hành Thánh Lễ. Thật vậy, Thánh Thể là “hy tế chúc tụng” tuyệt hảo, là việc tôn vinh cao cả nhất từ đất dâng lên trời, là “nguồn mạch và là tột đỉnh của đời sống Kitô hữu, thành phần hiến dâng tế vật thần linh nơi Thánh Thể (lên Chúa Cha) cùng với chính bản thân mình nữa” (Hiến Chế Lumen Gentium, 11). Trong Tân Ước, Thư gửi giáo đoàn Do Thái dạy chúng ta rằng phụng vụ Kitô Giáo được hiến dâng bởi “một thượng tế thánh thiện, liêm chính, vẹn tuyền, không dính dáng với tội nhân, vượt trên các tầng trời”, Đấng thực hiện một hy tế chuyên nhất một lần vĩnh viễn bằng “việc dâng hiến bản thân mình” (x Heb 7:26-27). Bức Thư viết: “Thế nên, nhờ Người, chúng ta hãy tiếp tục hiến dâng lên Thiên Chúa hy tế chúc tụng” (Heb 13:15). Hôm nay, chúng ta hãy vắn tắt nhắc lại hai đề tài hy tế và chúc tụng, sacrificium laudis, nơi Thánh Thể.
2. Trước hết, hy tế của Chúa Kitô hiện diện nơi Thánh Thể. Chúa Giêsu thực sự hiện diện dưới hình bánh và rượu, như chính Người đã bảo đảm với chúng ta rằng: “Đây là mình Thày... đây là máu Thày” (Mt 26:26, 28). Thế nhưng, Chúa Kitô hiện diện nơi Thánh Thể là một Chúa Kitô hiện đang được vinh quang, Đấng đã hiến mình trên thập giá vào Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Đó là những gì được nhấn mạnh bởi những lời Người phán trên chén rượu: “Đây là máu giao ước đổ ra cho nhiều người” (Mt 26:28; x Mk 14:24; Lk 22:20). Nếu những lời này được khảo sát theo chiều hướng xuất phát từ Thánh Kinh thì có hai liên quan đáng chú ý. Liên quan thứ nhất là kiểu nói “máu đổ ra”, một kiểu nói, như ngôn ngữ Thánh Kinh chứng thực, cho thấy đồng nghĩa với cái chết dữ dằn (x Gen 9:6). Liên quan thứ hai là ở nơi câu phát biểu đích xác “cho nhiều người”, ám chỉ thành phần được máu này đổ ra cho. Việc gián tiếp ám chỉ ở đây đưa chúng ta về với đoạn văn nền tảng đối với việc giải thích Thánh Kinh của Kitô Giáo, đó là bài ca thứ bốn của tiên tri Isaia: bằng hy tế của mình, Người Tôi Tớ Chúa “đã thí mạng sống mình” và “mang lấy tội lỗi của nhiều người” (Is 53:12; x Heb 9:28; 1Pt 2:24).
3. Khía cạnh vừa hy tế lẫn cứu chuộc của Thánh Thể được thể hiện nơi những lời Chúa Giêsu phán trên bánh trong Bữa Tiệc Ly, những lời theo truyền thống được Thánh Luca và Phaolô thuật lại: “Đây là mình Thày sẽ bị nộp vì các con” (Lk 22:19; x 1Cor 11:24). Cả ở đây nữa cũng liên quan đến việc tự hy hiến bản thân mình của Người Tôi Tớ Chúa, hợp với đoạn sách tiên tri Isaia vừa được đề cập đến (53:12). “Người đã thí mạng sống mình...; Người đã mang lấy tội lỗi của nhiều người, và đã cầu bầu cho các phạm nhân”. “Thánh Thể không phải là gì khác ngoài chính hy tế. Chính hy tế Cứu Chuộc cũng là hy tế Tân Ước, như chúng ta tin tưởng và Giáo Hội Đông Phương minh nhiên tuyên xưng. “Hy tế của ngày hôm nay, Giáo Hội Hy Lạp đã nói từ nhiều thế kỷ trước đây (ở Công Đồng Contantinôpôli phi bác Sotericus vào năm 1156-1157), giống như hy tế được hiến dâng một lần bởi Lời Nhập Thể; hy tế đó được Người dâng hiến (hiện nay cũng như bấy giờ), vì hy tế ấy cũng là một hy tế duy nhất” (Tông Thư Dominicae Cenae, 9).
4. Thánh Thể, như một hy tế của Tân Ước, là việc phát triển và hoàn tất giao ước được cử hành trên núi Sinai, khi Moisen đổ một nửa máu của các tế vật hy sinh trên bàn thờ, biểu hiệu cho Thiên Chúa, và một nửa trên cộng đồng con cái Yến Duyên (x Ex 24:5-8). “Máu giao ước” này gắn bó Thiên Chúa với loài người lại với nhau một cách chặt chẽ bằng một mối giây liên kết. Mối thân mật trở nên trọn vẹn nơi Thánh Thể; việc Thiên Chúa và loài người gắn bó với nhau đạt đến tột đỉnh của mình. Đó là việc hoàn tất của “tân ước” được tiên tri Giêrêmia tiên báo (x 31:31-34): một giao ước trong tinh thần và trong tâm can, một giao ước được Thư gửi giáo đoàn Do Thái hết sức ca ngợi, khi trích lại lời của vị tiên tri này mà đem ghép nó với hy tế tối hậu duy nhất của Chúa Kitô (x Heb 10:14-17).
5. Đến đây, chúng ta có thể dẫn chứng một xác nhận khác về Thánh Thể là một hy tế chúc tụng. Thực sự hướng đến việc hiệp thông trọn vẹn giữa Thiên Chúa và con người, “hy tế Thánh Thể là nguồn mạch và là tột đỉnh cho tất cả việc phụng thờ của Giáo Hội cũng như của đời sống Kitô hữu. Tín hữu tham dự trọn vẹn hơn vào bí tích tạ ơn, đền bồi, nguyện xin và chúc tụng, chẳng những lúc họ cùng với vị linh mục hết lòng hiến dâng tế vật linh thánh cũng như chính mình với tế vật này lên Chúa Cha, mà còn cả lúc họ lãnh nhận tế vật này trong bí tích nữa” (Thánh Bộ Lễ Nghi, Eucharisticum Mysterium, 3e).
Như chính nguyên ngữ Hy Lạp thì Thánh Thể nghĩa là “tạ ơn”; nơi Thánh Thể Con của Thiên Chúa liên kết nhân loại được cứu chuộc với chính mình trong bản thánh ca tạ ơn và chúc tụng. Chúng ta hãy nhớ rằng tiếng todah của Do Thái, được phiên dịch là “chúc tụng”, cũng có nghĩa là “tạ ơn” nữa. Hy tế chúc tụng là một hy tế tạ ơn (x Ps 50 [49]: 14, 23). Trong Bữa Tiệc Ly, để thiết lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã tạ ơn Cha Người (x Mt 26:26-27 và những đoạn Phúc Âm Nhất Lãm tương đương); đó là nguồn gốc cho tên gọi của bí tích này.
6. “Nơi hy tế Thánh Thể, toàn thể tạo vật Thiên Chúa yêu thương được hiến dâng lên Chúa Cha qua cuộc tử nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô” (Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 1359). Hiệp nhất mình với hy tế của Chúa Kitô, Giáo Hội, qua bí tích Thánh Thể, vang lên lời chúc tụng của tất cả mọi tạo vật. Việc mọi tín hữu quyết tâm hiến dâng cuộc sống của mình, “thân xác” của mình, như Thánh Phaolô nói, như một “hy tế sống động, thánh hảo, đáng Thiên Chúa chấp nhận” (Rm 12:1), trong niềm hiệp thông trọn vẹn với Chúa Kitô, phải hợp với điều này. Như thế, chỉ có một sự sống duy nhất hiệp nhất Thiên Chúa với con người, đó là Chúa Kitô tử giá và phục sinh vì tất cả chúng ta với người môn đệ được kêu gọi hoàn toàn hiến mình cho Người.
Thi sĩ người Pháp Paul Claudel đã ca lên bản hát về mối hiệp thông yêu thương, khi đặt những lời sau đây vào môi miệng của Chúa Kitô: “Hãy đến với Ta, nơi Ta Hiện Hữu, ở trong bản thân con,/ và Ta sẽ trao cho con chìa khóa vào sự sống./ Nơi nào Ta Hiện Hữu, ở nơi đó có bí mật đời đời về nguồn gốc của con.../ ... Đôi tay của con ở đâu mà không phải là của Ta? Và đôi chân của con lại không bị đóng đanh vào cùng một thập giá với Ta hay sao? Ta đã chết và sống lại một lần vĩnh viễn! Chúng ta rất gần gũi với nhau/... Con làm sao lại có thể tách lìa khỏi Ta/ mà không làm tan nát trái tim Ta?” (La Messe là-bas).
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 11/10/2000)