GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ HAI 29/1/2007 TUẦN IV THƯỜNG NIÊN |
? "Cái tổng luận Kitô Giáo giữa lý trí và đức tin này... ngày nay cũng cần phải được sử dụng đến để đối thoại với các truyền thống văn hóa và tôn giáo lớn ở Đông phương và Nam phương trên thế giới này"
? Chỉ sống Đức Tin sáng suốt theo lý trí mới có thể đối thoại liên tôn và liên văn hóa
? Tuyên giữ Đức Tin Kitô Giáo trong thế giới tân tiến
"Cái tổng luận Kitô Giáo giữa lý trí và đức tin này... ngày nay cũng cần phải được sử dụng đến để đối thoại với các truyền thống văn hóa và tôn giáo lớn ở Đông phương và Nam phương trên thế giới này"
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật IV Thường Niên 28/1/2007 về Thánh Tôma Tiến Sĩ với Vấn Đề Tổng Luận Lý Trí và Đức Tin
Anh Chị Em thân mến,
Lịch phụng vụ hôm nay tưởng nhớ Thánh Tôma Aquinas, vị đại tiến sĩ của Giáo Hội. Bằng đặc sủng của một triết gia và thần học gia, ngài đã cống hiến một mẫu thức hòa hợp vững chắc giữa lý trí và đức tin, những chiều kích của tinh thần con người, những chiều kích được hoàn toàn hiện thực khi chúng gặp gỡ và trao đổi với nhau.
Theo ý nghĩ của Thánh Tôma thì lý trí con người, có thể nói là, ‘hít thở’, tức là nó chuyển động ở một chân trời rộng mở làm cho nó có thể cảm thấy khả năng tối đa của mình. Tuy nhiên, khi con người chỉ biết nghĩ về n hững đối tượng vật chất và thí nghiệm, thì họ cảm thấy bí trước những câu hỏi về đời sống, về chính mình và về Thiên Chúa, biến mình trở thành bần cùng.
Mối liên hệ giữa đức tin và lý trí là một thách đố nghiêm trọng đối với văn hóa hiện đang chi phối thế giới Tây phương, và chín h vì lý do ấy mà Đức Gioan Phaolô II của chún g ta đã viết một bức thông điệp, mang tựađề chính là ‘Đức Tin và Lý Trí’. Tôi cũng đã tiếp tục luận đề này mới đây, trong bài diễn từ cho Đại Học Đường ở Regensburg.
Thực ra vấn đề phát triển tân tiến của các khoa học mang lại vô vàn hiệu quả tích cực là những gì luôn cần được nhìn nhận. Tuy nhiên, đồng thời cũng cần phải công nhận rằng cái khuynh hướng chỉ coi những gì cảm nghiệm thấy mới là xác thực đã khiến cho lý trí của con người bị giới hạn lại và gây ra một thứ tâm bệnh bất nhất đáng sợ, hiển nhiên trước mắt mọi người, bởi việc đồng hiện hữu giữa chủ nghĩa duy lý với chủ nghĩa duy vật, và giữa siêu đẳng kỹ thuật với những thứ bản năng buông thả.
Bởi thế, cần phải làm sao tái khám phá một cách mới mẻ cái lý sự của con người hướng về ánh sáng của ‘Lời’ thần linh cũng như về mạc khải tuyệt hạo của nó là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Một khi đức tin Kitô giáo là những gì đích thực thì nó không làm triệt tiêu tự do hay lý trí của con người; vậy thì tại sao đức tin và lý trí lại sợ hãi nhau, nếu nhờ gặp gỡ nhau và trao đổi với nhau chúng có thể thể hiện chính bản thân mình một cách tốt đẹp nhất chứ?
Đức tin bao gồm lý trí và làm hoàn hảo lý trí, và lý trí, nhờ được soi sáng bởi đức tin, tìm thấy sức mạnh để tiến tới chỗ nhận biết Thiên Chúa và những thực tại linh thiêng. Lý trí con người chẳng mất đi một sự gì khi nó cởi mở trước những nội tại của đức tin; trái lại, đức tin cần đến việc tư do và ý thức gắn bó của lý trí.
Bằng một đức khôn ngoan bao trùm vươn rộng, Thánh Tôma Aquina đã gây nên một cuộc đối chọi phong phú đối với tư tưởng Ả Rập và Do Thái trong thời đại của ngài, đến nỗi ngài được coi như là một bậc thày muôn thuở của việc đối thoại với các nền văn hóa và tôn giáo khác. Ngài đã biết giới thiệu cái tổng luận Kitô Giáo giữa lý trí và đức tin này, cái tổng luận tiêu biểu cho một gia sản quí báu của văn minh Tây phương, cái tổng luận mà cả ngày nay cũng cần phải được sử dụng đến để đối thoại một cách hiệu nghiệm với các truyền thống văn hóa và tôn giáo lớn ở Đông phương và Nam phương trên thế giới này.
Chúng ta hãy nguyện cầu để Kitô hữu, nhất là những ai thuộc lãnh giới hàn lâm và văn hóa, làm sao có thể bày tỏ cho thấy hơn nữa cái tính chất hữu lý nơi niềm tin của họ và làm chứng cho niềm tin này bằng một cuộc đối thoại được tác động bởi yêu thương. Chúng ta xin tặng ân này của Chúa nhờ lời chuyển cầu của Thánh Tôma Aquinas, nhất là của Mẹ Maria là Tòa Đức Khôn Ngoan.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 28/1/2007
(Xin xem 2 bài dưới đây liên quan đến vấn đề chính yếu của bài huấn từ truyền tin trên đây về "cái tổng luận Kitô Giáo giữa lý trí và đức tin này... ngày nay cũng cần phải được sử dụng đến để đối thoại với các truyền thống văn hóa và tôn giáo lớn ở Đông phương và Nam phương trên thế giới này", như chính ĐTC đã nhắc lại những gì ngài đã nói trong chuyến tông du Bavaria Đức quốc, nhất là ở Đại Học Đường Regensburg)
Chỉ sống Đức Tin sáng suốt theo lý trí mới có thể đối thoại liên tôn và liên văn hóa
Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Tông Du Đức Quốc 9-14/9/2006 – Bài diễn văn ngày Thứ Ba 12 tại Đại Học Regensburg
Mới đây tôi đã được nhắc nhớ về tất cả những điều ấy, khi tôi đọc cuốn sách của Giáo Sư Theodore Khoury (Munster) về đoạn đối thoại xẩy ra – có lẽ xẩy ra vào năm 1391 ở các doanh trại mùa đông gần Ankara – giữa vị hoàng đế Byzantine uyên bác là Manuel II Paleologus và một nhà trí thức Ba Tư về vấn đề Kitô Giáo và Hồi Giáo và về sự thật của hai tôn giáo này. Người ta cho rằng chính vị hoàng đế ấy là người đã viết lại cuộc đối thoại này, trong giai đoạn thành Constantinople bị vây hãm vào thời khoảng 1394 và 1402; và điều này có thể giải thích về lý do tại sao những lập luận của ông chi tiết hơn là những lập luận của nhân vật Ba Tư đối thoại với ông. Cuộc đối thoại này liên quan nhiều tới những cấu trúc đức tin trong Thánh Kinh và Sách Qur’an, và đặc biệt bàn luận tới hình ảnh về Thiên Chúa và về con người, trong khi đó cuộc đối thoại này nhiều lần vẫn cần phải trở về với mối liên hệ giữa – những gì được họ gọi là – tam ‘Luật’ hay ‘các qui luật sống’, đó là Cựu Ước, Tân Ước và Sách Qur’an. Tôi không có ý định bàn đến vấn đề này trong bài nói hôm nay; ở đây tôi chỉ muốn bàn đến một điểm duy nhất – một điểm tự nó lại ở bên lề cuộc đối thoại nói chung này – một điểm, theo chiều hướng của vấn đề ‘đức tin và lý trí’, tôi thấy lý thú và là điểm có thể giúp mở màn cho việc tôi chia sẻ về vấn đề này.
Trong cuộc đàm thoại thứ bảy (*4V8,>4H - controversy) được Giáo Sư Khoury thu thập, thì vị hoàng đế này đã chạm tới đề tài về cuộc thánh chiến. Vị hoàng đế này chắc chắn biết được rằng Sura 2, 256, có câu ‘Không có vấn đề võ lực nơi việc tin tưởng’. Theo các chuyên gia, thì đây là một trong những chương Sura thuộc giai đoạn đầu, thời điểm mà Đức Mahommed vẫn còn ở trong tình trạng bất lực và bị đe dọa. Tuy thế, bình thường thì vị hoàng đề này cũng biết được những điều hướng dẫn, được khai triển sau này và được ghi vào Sách Qur’an liên quan tới cuộc thánh chiến. Không đi sâu vào những chi tiết như tính cách khác nhau liên quan tới việc xử sự nơi những ai có ‘Cuốn Sách’ này với thành phần ‘vô tín ngưỡng’, vị hoàng đế này đã đột ngột cộc lốc nói cùng nhân vật đối thoại với mình về vấn đề chính yếu liên quan tới mối liên hệ giữa tôn giáo và bạo lực nói chung, mà rằng: ‘Xin tỏ cho tôi thấy chỉ những gì Tiên Tri Muhammed đã viết có tính cách mới mẻ mà ở đó nhà ngươi thấy được những gì chỉ toàn là sự dữ và phi nhân, chẳng hạn như việc ngài truyền dạy hãy dùng gươm giáo để quảng bá niềm tin được ngài rao giảng’ (‘Show me just what Mohammed brought that was new, and there you will find things only evil and inhuman, such as his command to spread by the sword the faith he preached’). Vị hoàng đế này, sau khi bày tỏ chủ trương của mình thật là mạnh mẽ, tiếp tục giải thích cặn kẽ về những lý do tại sao việc quảng bá niềm tin bằng võ lực là những gì phi lý.
Bạo động là những gì không thích hợp với bản tính của Thiên Chúa và bản tính của linh hồn. Ông nói rằng: ‘Thiên Chúa không thích việc đổ máu – và việc không tác hành một cách hợp lý (F×< 8`(T) là điều trái nghịch với bản tính của Thiên Chúa. Niềm tin là những gì xuất phát từ linh hồn chứ không phải từ thân xác. Ai dẫn người nào đó tới với niềm tin thì cần phải có khả năng nói năng khéo léo và lý luận thích đáng, không có vấn đề bạo lực và đe dọa… Để chinh phục một linh hồn biết suy nghĩ thì người ta không cần đến thứ vũ khí mãnh liệt, hay bất kỳ một thứ khí giới này, hoặc bất cứ một phương tiện đe dọa sát hại nhân sự nào khác…”
Lời phát biểu quyết liệt nơi lập luận này chống lại việc hoán cải bằng võ lực là thế này: không hành động theo lý trí là việc phản lại bản tính của Thiên Chúa. Nhà biên soạn Theodore Khoury nhận định rằng: Đối với vị hoàng đế, một con người Byzantine chịu ảnh hưởng của triết lý Hy Lạp, thì lời phát biểu này là những gì minh nhiên. Thế nhưng, đối với giáo huấn của tín đồ Hồi Giáo thì Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn siêu việt. Ý muốn của Ngài không bị ràng buộc bởi bất cứ một phạm trù nào của chúng ta, thậm chí là phạm trù về lý lẽ. Đến đây giáo sư Khoury đã trích tác phẩm của một người Pháp nổi tiếng theo chủ nghĩa Hồi Giáo là R. Arnaldez, nhân vật đã vạch ra là Ibn Hazn đã đi quá xa khi nói rằng Thiên Chúa không bị ràng buộc thậm chí bởi chính lời của Ngài, cũng như nói rằng không gì ép buộc được Ngài phải mạc khải chân lý cho chúng ta. Nếu thực sự là ý Chúa muốn thì thậm chí chúng ta cần phải tôn thờ cả đến ngẫu tượng nữa.
Đến đây, đối với vấn đề hiểu biết Thiên Chúa, và nhờ đó liên hệ tới vấn đề cụ thể sống đạo, chúng ta đối diện với một vấn đề nan giải bất khả tránh. Phải chăng ý nghĩ cho rằng tác hành một cách vô lý thì trái nghịch với bản tính của Thiên Chúa chỉ là một ý nghĩ của người Hy Lạp, hay nó tự bản chất bao giờ cũng đúng? Tôi tin rằng ở đây chúng ta có thể thấy được tính cách hòa hợp sâu xa giữa những gì là Hy Lạp theo đúng nghĩa nhất của ngôn từ, với kiến thức thánh kinh về niềm tin kính Thiên Chúa. Điều chỉnh lại câu đầu tiên của Sách Khởi Nguyên, câu đầu tiên của toàn bộ Thánh Kinh, Thánh Gioan đã mở đầu cuốn Phúc Âm của mình bằng những chữ: “Từ ban đầu đã có 8`(@H”. Đó chính là những lời được vị hoàng đề này sử dụng: Thiên Chúa hành động, F×< 8`(T, với logos. Logos vừa có nghĩa là lý trí vừa có nghĩa là lời – một lý trí sáng tạo và có khả năng tự truyền đạt, chính vì nó là lý trí. Vậy Thánh Gioan đã nói đến lời tối chung về quan niệm Thiên Chúa theo thánh kinh, và nơi lời này, tất cả những gì thường là khó khăn cực nhọc và những gì là quanh co uẩn khúc của niềm tin theo thánh kinh đều được đạt tới tột đỉnh của mình và sự tổng hợp của mình. Từ ban đầu đã có logos và logos này là Thiên Chúa, vị Thánh Ký viết. Cuộc hội ngộ giữa sứ điệp Thánh Kinh đây với tư tưởng Hy Lạp không xẩy ra một cách ngẫu nhiên tình cờ đâu. Thị kiến của Thánh Phaolô, vị đã thấy những con đường dẫn tới Á Châu bị ngăn chặn và trong một giấc mơ ngài đã thấy một ngưoơi đàn ông Macedonia van xin ngài rằng: ‘Xin hãy đến với Macedonia để giúp đỡ chúng tôi!’ (x Tông Vụ 16:6-10) – thị kiến này có thể được hiểu như là một thứ ‘chưng cất’ liên quan tới nhu cầu nội tại của một thứ tái kết hữu nghị giữa niềm tin theo Thánh Kinh và việc tra vấn của người Hy Lạp.
Thật ra thì việc tái kết hữu nghị này đã từng tiếp diễn mấy lần. Danh xưng mầu nhiệm của Thiên Chúa này, được mạc khải từ bụi cây bừng cháy, một danh xưng tách biệt vị Thiên Chúa này ra khỏi tất cả mọi thứ thần linh khác mang nhiều tên gọi của họ, và là một danh xưng chỉ tuyên bố rằng ‘Ta là’, đã trở thành một thách đố đối với quan niệm về thần thoại hoang đường, một danh xưng mà triết gia Socrate đã có những suy loại khít khao để làm tan biến đi cũng như để vượt lên trên những gì là thần thoại hoang đường. Trong Cựu Ước, tiến trình được mở màn ở bụi cây bừng cháy ấy đã tiến đến chỗ phát triển mới mẻ hơn nữa vào thời kỳ Lưu Đầy, khi vị Thiên Chúa của dân Yến Duyên, một dân Yến Duyên bấy giờ bị mất đi mảnh đất của mình cùng với việc phụng thờ của mình, đã tuyên bố mình như là vị Thiên Chúa của trời đất, và diễn tả bằng một công thức giản dị âm vang những lời đã được Ngài thốt ra ở bụi cây bừng cháy: ‘Ta là’. Kiến thức mới mẻ này về Thiên Chúa được kèm theo một thứ minh thức, thứ minh thức tỏ ra khắc nghiệt khi chế nhạo những vị thần linh chỉ là việc làm của loài người (x Ps 115). Bởi thế, mặc dù xẩy ra tình trạng xung khắc gay go với thành phần cai trị theo nền văn hóa Hy Lạp muốn tìm cách bắt buộc đức tin thánh kinh thích ứng với những thứ tục lệ và việc sùng bái ngẫu tượng của người Hy Lạp, niềm tin thánh kinh, trong giai đoạn văn hóa Hy Lạp, cũng đã hội ngộ với tư tưởng hay nhất của Hy Lạp một cách sâu đậm, kết quả bởi một cuộc phong phú hóa lẫn nhau, rõ ràng được thấy một cách đặc biệt nơi thứ văn chương khôn ngoan sau này. Ngày nay, chúng ta biết rằng bản dịch Cựu Ước theo tiếng Hy Lạp đã được thực hiện ở Alexandria – tức Bản 70 – còn hơn là một bản dịch từ bản văn theo tiếng Do Thái (mà bởi thế thực sự là một bản dịch không thỏa đáng cho lắm): nó là một chứng từ nguyên văn có tính cách độc lập, và là một bước tiến khác biệt và quan trọng trong lịch sử mạc khải, một bước tiến đưa đến cuộc hội ngộ quan trọng cho việc khai sinh và phát triển Kitô Giáo này. Một cuộc hội ngộ về đức tin và lý trí đang xẩy ra ở đấy, một cuộc hội ngộ giữa minh thức đích thực và tôn giáo. Từ chính tâm điểm của đức tin Kitô Giáo, cũng như từ tâm điểm của tư tưởng Hy Lạp, giờ đây liên kết lại thành niềm tin, hoàng đế Manuel II đã có thể nói rằng: Việc không tác hành ‘với logos’ là việc làm phản lại với bản tính của Thiên Chúa.
Người ta cần phải nhận định một cách hết sức thành thật rằng vào cuối Thời Trung Cổ, chúng ta thấy có những chiều hướng nơi thần học làm tách biệt cái tổng hợp giữa tinh thần Hy Lạp và tinh thần Kitô Giáo này. Ngược lại với cái được gọi là duy lý trí của Âu Cơ Tinh và Tôma, xuất hiện nơi Duns Scotus một chủ nghĩa duy ý chí là chủ nghĩa, qua những diễn tiến sau này, dẫn đến chỗ cho rằng chúng ta chỉ có thể biết voluntas ordinate (ý muốn bình thường) của Thiên Chúa mà thôi. Ngoài ý muốn bình thường này là lãnh vực thuộc quyền tự do của Thiên Chúa, từ đó, Ngài có thể làm đảo lộn hết mọi sự Ngài đã làm. Điều này làm phát sinh ra những chủ trương rõ ràng là sát cận với những chủ trương của Ibn Hazn, thậm chí có thể dẫn đến hình ảnh của một vị Thiên Chúa đồng bóng, một vị Thiên Chúa thậm chí không liên hệ gì tới sự thật và sự thiện. Siêu việt tính của Thiên Chúa và cái khác biệt của Thiên Chúa là những gì được đề cao đến nỗi, lý trí của chúng ta, giác quan của chúng ta về sự thật và sự thiện, không còn là những gì thực sự phản ảnh Thiên Chúa, Vị Thiên Chúa mà những năng thể sâu xa nhất của Ngài vĩnh viễn trở thành những gì bất khả đạt và được dấu kín đằng sau những quyết định thực sự của Ngài. Ngược lại với chủ trương này, đức tin của Giáo Hội bao giờ cũng nhấn mạnh rằng giữa Thiên Chúa và chúng ta, giữa Thần Linh Sáng Tạo hằng hữu của Ngài và lý trí thụ tạo của chúng ta có một cái gì tương tự thật sự, như Công Đồng Chung Latêranô IV năm 1215 đã nói, một sự tương tự với cái không giống vĩnh viễn là nhiều hơn là cái giống, tuy nhiên không tới độ hủy loại đi cái tương tự cùng với ngôn từ của nó. Thiên Chúa không trở thành thần linh hơn khi chúng ta đẩy Ngài ra khỏi chúng ta theo chiều hướng duy ý chí hoàn toàn bất khả thấu; trái lại, vị Thiên Chúa thực sự thần linh này là vị Thiên Chúa đã tỏ mình ra như logos – lời, và như logos – lời, ngài đã tác hành và tiếp tục tác hành một cách yêu thương đối với chúng ta. Tình yêu, như Thánh Phaolô viết, thực sự là những gì ‘vượt trên’ kiến thức và vì thế có thể cảm nhận hơn là duy tưởng (x Eph 3:19); tuy nhiên, nó vẫn là tình yêu của vị Thiên Chúa là Logos – Lời. Bởi thế, việc tôn thờ của Kitô Giáo, cũng Thánh Phaolô nói, là "8@(46¬ 8"JD,\"", việc tôn thờ hợp với Lời hằng hữu và với lý trí của chúng ta (x Rm 12:1).
Việc tái tấu mối hữu nghị nội tại giữa đức tin theo Thánh Kinh và triết thức Hy Lạp là một biến cố hệ trọng thật là quyết liệt, chẳng những theo quan điểm lịch sử các tôn giáo, mà còn theo quan điểm lịch sử thế giới nữa – nó là một biến cố liên quan thậm chí tới chúng ta ngày nay nữa. Trước việc qui hợp này, không lạ gì Kitô Giáo, cho dù việc bắt nguồn và phát triển của nó ở Đông phương, cuối cùng lại mang tính cách quan trọng về lịch sử ở Âu Châu. Chúng ta có thể diễn đạt vấn đề này một cách khác như sau: việc qui hợp ấy, cùng với việc thêm thắt sau này của gia sản Rôma, đã là những gì kiến tạo nên Âu Châu và tiếp tục là nền tảng cho những gì có thể đáng được gọi là Âu Châu.
Luận đề cho rằng gia sản được can thận thanh tẩy là những gì hình thành một phần nguyên vẹn của đức tin Kitô Giáo, là luận đề đã bị phản kháng bởi tiếng gọi hãy giải thể văn hóa Hy Lạp khỏi Kitô Giáo – một tiếng gọi càng ngày càng chi phối những cuộc bàn luận về thần học từ khi mở màn thời đại tân tiến. Nhìn kỹ, người ta thấy có 3 giai đoạn trong tiến trình giải thể văn hóa Hy Lạp này: mặc dù có liên hệ với nhau, song 3 giai đoạn ấy rõ ràng là khác biệt hẳn nhau nơi những cái mới mẻ và mục tiêu của mình.
Việc giải thể văn hóa Hy Lạp đầu tiên liên quan tới những định đề của phong trào Cải Cách ở thế kỷ 16. Khi nhìn vào truyền thống của nền thần học kinh viện, thành phần Cải Cách nghĩ rằng họ phải đối đầu với một hệ thống tin tưởng hoàn toàn bị điều kiện hóa bởi triết lý, tức là họ muốn nói đến một sự kết nối của đức tin dựa trên một hệ thống tư tưởng ngoại lạ. Do đó, đức tin không còn là một Lời sống động trong lịch sử mà chỉ là một yếu tố của một hệ thống bị hệ thống triết lý bao trùm. Trái lại, nguyên lý duy thánh kinh – sola srciptura lại tìm kiếm một niềm tin hoàn toàn mặc hình thức tinh tuyền, nguyên khôi, như được thấy từ ban đầu ở Lời trong thánh kinh. Siêu hình học đã trở thành như là một tiền đề được xuất phát từ một nguồn mạch khác, là nơi đức tin đã được giải phóng để trở về với chính bản chất của mình. Khi triết gia Kant nói rằng ông cần dẹp việc suy nghĩ ra ngoài để lấy chỗ cho niềm tin, là ông đã tiền hành dự án này một cách cấp tiến chưa từng thấy nơi thành phần Cải Cách. Bởi thế ông đã cột thắt niềm tin vào thứ lý trí thực tiễn mà thôi, không để cho niềm tin tiến tới với toàn thể thực tại.
Thần học giải phóng trong thế kỷ 19 và 20 đã mở màn cho giai đoạn hai trong tiến trình giải thể văn hóa Hy Lạp, với Adolf von Harnack như nhân vật tiêu biểu nhất của thứ thần học này. Khi tôi còn là một sinh viên, và vào những năm đầu làm nghề giảng dạy của mình, thì cái cương lĩnh này cũng đã có một ảnh hươởg lớn nơi thần học Công Giáo rồi. Nó được khởi đi từ chỗ phân biệt của triết gia Pascal về vấn đề vị Thiên Chúa của thành phần triết gia với vị Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp. Trong bài khai mạc của tôi ở Bonn năm 1959, tôi đã cố gắng nói tới vấn đề này, và tôi không muốn lập lại ở đây những gì tôi đã nói vào lúc bấy giờ, thế nhưng tôi muốn diễn tả vắn gọn ít là những gì mới mẻ về giai đoạn thứ hai của việc giải thể văn hóa Hy Lạp này. Ý tưởng chính yếu của Harnack đó chỉ là việc trở về với con người Giêsu cũng như với sứ điệp bình thường của Người, một sứ điệp nằm ở bên dưới những thứ bồi đắp của thần học và thực sự của nền văn hóa Hy Lạp: sứ điệp bình thường này được thấy như là tột đỉnh của việc phát triển về đạo giáo của nhân loại. Chúa Giêsu là vị được cho rằng đã chấm dứt việc thờ phượng để hướng chiều về luân lý. Để rồi Người được trình bày như là một người cha của thứ sứ điệp về luân lý nhân đạo. Nói cho cùng thì mục đích của Harnack đó là đem Kitô Giáo vào cuộc hài hòa với thứ lý trí tân tiến, tức là giải phóng Kitô Giáo khỏi những yếu tố có vẻ triết lý và thần học, chẳng hạn như niềm tin tưởng vào thần tính của Chúa Kitô và vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Như thế, việc dẫn giải Tân Ước theo kiểm nhận về lịch sử, như ông thấy, là những gì đã trả về cho thần học vị trí của thần học trong đại học: thần học, đối với Harnack, là một cái gì đó có tính cách lịch sử thiết yếu, bởi thế thần học hoàn toàn có tính cách khoa học. Những gì có thể nói theo nhận định về Chúa Giêsu thực sự là một bày tỏ của thứ lý trí thực tiễn, từ đó, nó có thể chiếm được thế đứng thật sự của mình ở đại học đường. Đứng đằng sau việc suy nghĩ này là tính chất tự hạn hữu mới của lý trí, những gì đã được đề cập đến theo kiểu cổ điển trong cuốn “Critiques” của Kant, thế nhưng đồng thời lại được cấp tiến hóa hơn bởi ảnh hưởng của các ngành khoa học tự nhiên. Quan niệm tân tiến này về lý trí, nói tóm lại, được căn cứ vào một cuộc tổng hợp giữa chủ nghĩa Platonism (Cartesianism) và chủ nghĩa duy nghiệm, một tổng hợp được củng cố bởi việc thành đạt của kỹ thuật. Một đàng nó bao hàm cái cấu trúc toán học của chất thể, bao hàm cái lý lẽ nội tại của cuộc tổng hợp này, cái lý lẽ để có thể hiểu được chất thể hoạt động ra sao và việc sử dụng nó một cách hiệu năng: cái tiền đề căn bản này thực sự là yếu tố của triết lý Plato nơi kiến thức tân tiến về thiên nhiên tạo vật. Mặt khác, năng lực của thiên nhiên tạo vật đang bị khai thác cho các mục đích của chúng ta, và ở nơi đây, chỉ có khả năng kiểm chứng hay xuyên tạc bằng thử nghiệm mới có thể thật sự nắm vững được vấn đề mà thôi. Cán cân giữa đúng sai này, tùy theo hoàn cảnh, có thể chạy từ bên này sang bên kia. Là con người mạnh mẽ theo thực chứng chủ nghĩa, một tư tưởng gia như J. Monod đã từng tuyên bố mình là thành phần chấp nhận chủ nghĩa Plotonist/Cartesian.
Điều này làm phát sinh ra hai nguyên tắc hệ trọng đối với vấn đề được chúng ta nêu lên. Nguyên tắc thứ nhất, đó là chỉ có thứ xác nhận nào xuất phát từ việc tác động của các yếu tố toán học và thử nghiệm mới có thể được coi là khoa học. Bất cứ điều gì cho là khoa học đều phải được căn cứ vào qui chuẩn ấy. Bởi thế, các khoa học về nhân văn, như lịch sử, tâm lý, xã hội và triết học, cần phải tuân hợp với qui luật của khoa học tính này. Nguyên tắc thứ hai, một nguyên tắc quan trọng cho những suy tư của chúng ta, đó là, tự bản chất của mình, phương pháp này là những gì loại trừ vấn đề về Thiên Chúa, cho vấn đề ấy như là vấn đề phi khoa học hay tiền khoa học. Tóm lại, chúng ta đang phải đối diện với một thứ thu ngắn phạm vi khoa học và lý trí, một thứ thu ngắn cần được đặt lại vấn đề.
Tôi sẽ trở lại với vấn đề ấy sau này. Lúc này đây, vấn đề cần phải nhận định là, theo quan điểm ấy thì bất cứ một nỗ lực nào muốn bảo trì việc cho thần học là ‘khoa học’ đều tiến đến chỗ biến Kitô Giáo thành một đơn mảnh thuộc bản chất trước kia của nó. Thế nhưng, chúng ta cần phải nói thêm là: nếu tất cả khoa học là như thế và chỉ như thế mà thôi, thì chính con người cuối cùng cũng bị biến giảm, vì những vấn đề đặc biệt về con người liên quan tới nguồn gốc và định mệnh của chúng ta, những vấn đề được tôn giáo và đạo lý gợi lên, bấy giờ không có chỗ đứng trong nhãn quan của thứ lý trí vơ đũa cả nắm được cho là “khoa học”, được hiểu là như thế, và như vậy thì các vấn đề đặc biệt ấy cần phải được chuyển sang cho lãnh vực chủ quan. Để rồi chủ thể là người, căn cứ vào kinh nghiệm của mình, sẽ quyết định những gì họ coi là khả thủ nơi các vấn đề về tôn giáo, và thứ “lương tâm” chủ quan sẽ trở thành một thẩm phán viên độc đoán duy nhất về những gì có tính cách đạo lý. Cho dù là như thế chăng nữa, luân thường đạo lý và tôn giáo cũng đã mất đi quyền lực của mình trong việc kiến tạo nên một cộng đồng và hoàn toàn trở thành một vấn đề riêng tư cá nhân. Đó là một tình trạng nguy hiểm nơi những sự vụ giành cho nhân loại, như chúng ta thấy được từ những chứng bệnh đáng lo ngại về tôn giáo và lý trí là những gì đang cần phải bùng nổ, khi mà lý trí bị biến giảm đến nỗi những vấn đề về tôn giáo và đạo lý không còn liên hệ gì với nó nữa. Những nỗ lực kiến tạo nên một thứ đạo lý theo các qui luật của việc tiến hóa, hay theo tâm lý học và xã hội học, đều là những gì sẽ tiến tới chỗ bị què cụt hụt hẫng mà thôi.
Trước khi tôi rút ra những kết luận từ tất cả những điều ấy, tôi cần phải vắn tắt nói tới giai đoạn thứ ba của việc giải thể văn hóa Hy Lạp là giai đoạn đang diễn tiến hiện nay. Theo kinh nghiệm của chúng ta về tính cách đa nguyên của văn hóa, ngày nay người ta thường nói rằng cái tổng hợp với văn hóa Hy Lạp đạt được ở Giáo Hội vào lúc ban đầu là một thứ hội nhập văn hóa sơ khởi không có hiệu lực trên các nền văn hóa khác. Các nền văn hóa khác này được cho rằng có quyền trở về với sứ điệp thuần túy của Tân Ước trước cuộc hội nhập văn hóa ấy, để hội nhập sứ điệp ấy một cách mới mẻ vào môi trường riêng biệt của chúng ta. Luận đề này chẳng những sai lầm; nó còn tồi tệ và thiếu chính xác nữa. Tân Ước được viết bằng Hy ngữ và mang dấu ấn của tinh thần Hy Lạp, một tinh thần đã tiến đến chỗ chín mùi như Cựu Ước đã phát triển vậy. Thật thế, có những yếu tố trong cuộc tiến hóa của Giáo Hội sơ khai không được hội nhập vào tất cả mọi nền văn hóa. Tuy nhiên, những quyết định trọng yếu về mối liên hệ giữa đức tin và việc sử dụng lý trí con người là những gì thuộc về chính đức tin; chúng là những tiến triển hợp với bản chất của chính đức tin.
Giờ đây tôi đi đến phần kết luận của mình. Nỗ lực này, một nỗ lực được vẽ vời bằng những đường nét phóng đại, theo một thứ nhận định từ bên trong của lý trí tân tiến, không có liên quan gì tới việc quay ngược kim đồng hồ trở lại với thời gian trước Thời Minh Tri, cũng như trong việc loại trừ đi những minh thức của thời đại tân tiến hết. Những khía cạnh tích cực của tính cách tân tiến đều được công nhận một cách dễ dàng: ở chỗ, tất cả chúng ta đều cảm nhận đối với những tiềm năng tuyệt vời đang được mở ra cho nhân loại, cũng như đối với việc tiến bộ chúng ta có được nơi nhân loại. Ngoài ra, tinh thần của khoa học – như chính ngài Viện Trưởng đã nhắc tới – đó là ý muốn tỏ ra thuận phục chân lý, nhờ đó, nó thể hiện một thái độ vốn thuộc về những quyết định thiết yếu theo tinh thần Kitô Giáo. Ý hướng này ở đây không phải là một ý hướng của sự cắt xén hay của vấn đề tiêu cực kiểm định, mà là của việc nới rộng quan niệm của chúng ta về lý trí và về việc áp dụng của lý trí. Trong khi chúng ta hoan hưởng nơi những tiềm năng mới mở ra cho nhân loại thì chúng ta cũng thấy được những mối nguy hiểm xuất phát từ những tiềm năng này ,nên chúng ta vần phải tự hỏi làm sao chúng ta có thể thắng vượt được những thứ nguy hiểm ấy. Chúng ta sẽ thành công trong việc làm điều này chỉ khi nào lý trí và đức tin cùng nhau sánh bước một cách mới mẻ, chỉ khi nào chúng ta thắng vượt được cái hạn hữu tự áp đặt của lý trí đối với những gì là khả thực theo thử nghiệm, và chỉ khi nào chúng ta một lần nữa vạch ra được những vùng chân trời rộng lớn của lý trí. Theo chiều hướng này thì thần học mới đáng thuộc về đại học đường và mới đáng thực hiện cuộc đối thoại bao rộng với các khoa học, không phải chỉ như là một ngành về lịch sử và một ngành của các khoa học nhân văn, mà thực sự là thần học, là việc thẩm tra tính cách hợp lý của đức tin.
Chỉ như thế chúng ta mới có thể thực hiện một cuộc đối thoại với các nền văn hóa và tôn giáo là những gì hết sức cần thiết ngày nay. Nơi thế giới Tây phương, nhiều người chủ trương rằng chỉ có thứ lý trí có tính cách thực chứng và những hình thức của triết học theo thứ lý trí này mới có giá trị phổ quát. Tuy nhiên, các nền văn hóa về đạo giáo sâu xa của thế giới đều thấy việc loại trừ thần linh này khỏi tính cách phổ quát của lý trí là một thứ tấn công vào những niềm xác tín sâu xa nhất của những nền văn hóa ấy. Một thứ lý trí tỏ ra câm điếc trước thần linh và đẩy tôn giáo vào lãnh vực của các thứ hạ tầng văn hóa là một lý trí không thể nhập cuộc đối thoại với các nền văn hóa. Đồng thời, như tôi đã cố gắng chứng tỏ, lý trí khoa học tân tiến có yếu tố mang tính cách triết lý Plato sâu đậm chất chứa nơi mình một vấn đề hướng về những gì ở ngoài chính nó và ở ngoài cả những tiềm năng nơi phương pháp học của nó nữa. Lý trí khoa học tân tiến hoàn toàn dễ dàng chấp nhận cái cấu trúc hợp lý của chất thể, cũng như cái tương hợp giữa tinh thần của chúng ta với những cấu trúc hợp lý vốn có nơi thiên nhiên tạo vật là những gì phương pháp học của lý trí khoa học tân tiến cần phải dựa vào. Tuy nhiên, vấn đề tại sao sự việc này cần phải như thế là một vấn đề thực sự, và là một vấn đề cần phải được các ngành khoa học tự nhiên trả về cho các kiểu cách và lãnh vực suy tưởng khác – tức cho triết học và thần học. Đối với triết lý, và cho dù bằng đường lối khác nhau, đối với cả thần học, thì việc lắng nghe những cảm nghiệm và những minh thức cao cả nơi những truyền thống tôn giáo của loài người, cũng như những cảm nghiệm cùng minh thức của riêng đức tin Kitô Giáo, là một nguồn kiến thức, và việc coi thường việc lắng nghe này sẽ là một thứ hạn chế bất khả chấp cho việc lắng nghe và đáp ứng của chúng ta. Ở đây tôi nhớ tới điều triết gia Socrates nói với Phaedo. Trong hững cuộc đàm đạo đầu tiên của mình, có nhiều ý nghĩ sai lầm về triết lý đã được nêu lên, nên Socrates đã nói: “Thật là dễ hiểu khi có người cảm thấy khó chịu trước tất cả những thứ khái niệm sai lầm mà đối với cuộc đời còn lại của mình họ tỏ ra kinh thường và chế nhạo tất cả những gì nói về hữu thể – thế nhưng vì vậy mà họ lại bị hụt hẫng đi cái sự thật về việc hiện hữu và phải chịu mất mát lớn lao”. Tây phương đã lâu bị nguy hiểm bởi thái độ không ưa thích đối với những vấn nạn được tiềm tàng nơi tính chất hợp lý của mình, và vì thế chỉ có thể phải chịu đựng cái tai hại cả thể. Can đảm dấn thân cho tính cách bao rộng của lý trí và không chối bỏ tính cách cao cả của nó – đó là chương trình từ đó một khoa thần học được bắt nguồn từ niềm tin theo Thánh Kinh mới có thể tham gia vào những cuộc tranh luận của thời đại chúng ta. “Việc không tác hành hợp lý, không hành động với logos, là điều trái với bản tính của Thiên Chúa”, hoàng đế Manuel II đã nói như thế, theo kiến thức Kitô Giáo của ông về Thiên Chúa, để đáp lại đối thoại viên người Ba Tư của ông. Chính vì để tiến đến với cái logos cao cả này, đến với cái rộng lớn của lý trí ấy, mà chúng ta kêu gọi đồng bạn của chúng ta hãy thực hiện cuộc đối thoại về các nền văn hóa. Công việc cao cả của đại học đường đó là liên lỉ tái nhận thức lý trí vậy.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh,
BVL, chuyển dịch theo tín liệu
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2006/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20060912_university-regensburg_en.html
Tuyên giữ Đức Tin Kitô Giáo trong thế giới tân tiến
Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Tông Du Đức Quốc 9-14/9/2006 – Bài giảng Thánh Lễ ngày Thứ Ba 12 tại Islinger Feld, Regensburg
Chúng ta qui tụ lại đây để cử hành đức tin. Thế nhưng vấn đề liền hiện lên là: Chúng ta thực sự tin tưởng những gì? Việc có đức tin nghĩa là gì? Đức tin vẫn còn là những gì khả dĩ đối với thế giới tân tiến này hay chăng?... Giáo Hội đã cống hiến cho chúng ta một cuốn ‘Tổng Luận Thần Học’ tí hon, trong đó bào tỏ hết mọi sự thiết yếu. Nó được gọi là Kinh Tin Kính Các Vị Tông Đồ, thường được chia thành 12 điều, tương đương với 12 Tông Đồ. Nó nói về Thiên Chúa, Đấng Hóa Công và là nguồn mạch của tất cả mọi thực tại, của Chúa Kitô và công cuộc cứu độ của Người, và nó lên đến tuyệt đỉnh nơi sự sống lại của kẻ chết và sự sống trường sinh. Nơi cấu trúc căn bản của mình, Kinh Tin Kính này được bao gồm có ba phần chính, và như chúng ta thấy từ lịch sử của nó, nó chỉ là những gì nới rộng của công thức Rửa Tội được Chúa trao phó cho các môn đệ của Người qua mọi thế hệ khi Người bảo họ rằng: ‘Các con hãy đi tuyển mộ môn đồ khắp các quốc gia, rửa tôị cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần’ (Mk 28:19).
Một khi chúng ta ý thức được điều này thì hai điều trở thành sáng tỏ. Trước hết, đức tin là những gì đơn sơ giản dị. Chúng ta tin vào Thiên Chúa – vào vị Thiên Chúa là Nguyên Thủy và là Cùng Đích của sự sống con người. Chúng ta tin tưởng vào một Vị Thiên Chúa đã thực hiện mối liên hệ với chúng ta là con người, Đấng là nguồn gốc và là tương lai của chúng ta. Bởi thế, đức tin là niềm hy vọng luôn mãi, bất khả phân ly: niềm tin tưởng rằng chúng ta có một tương lai và sẽ không chết là hết. Và đức tin là yêu thương, vì tình yêu của Thiên Chúa là những gì ‘lây nhiễm’. Đó là điều thứ nhất, ở chỗ, chúng ta chỉ tin tưởng vào Thiên Chúa, và niềm tin này bao gồm niềm hy vọng và tình yêu thương.
Điều thứ hai cũng được sáng tỏ nữa, ở chỗ, Kinh Tin Kính không phải là tổng hợp những lời công bố; nó không phải là một thứ lý thuyết. Nó gắn liền với biến cố Phép Rửa – một cuộc hội ngộ chân thực giữa Thiên Chúa và loài người. Nơi mầu nhiệm của Phép Rửa, Thiên Chúa đã cúi mình xuống để gặp gỡ chúng ta; Ngài đến gần với chúng ta, nhờ đó mang chúng ta đến gần với nhau hơn. Phép rửa có nghĩa là Chúa Giêsu Kitô chấp nhận chúng ta như là anh chị em của Người, đón nhận chúng ta như những người con cái vào gia đình của Thiên Chúa. Như thế Người làm cho chúng ta trở thành một đại gia đình trong mối hiệp nhất phổ quát của Giáo Hội. Thật vậy, những ai tin tưởng thì không cảm thấy bị lẻ loi cô độc. Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta. Chúng ta hãy tiến lên nghênh đón Ngài để nhờ đó chúng ta gặp nhau! Cho đến mức độ có thể, chúng ta hãy bảo đảm rằng không một ai trong thành phần làm con cái Thiên Chúa lại cảm thấy lẻ loi cộ độc!
Chúng tôi tin tưởng vào Thiên Chúa. Đó là một quyết định hệ trọng về phía chúng ta. Thế nhưng, vấn đề cần phải được đặt ra là: phải chăng ngày nay niềm tin này vẫn còn là những gì khả dĩ? Nó có hợp lý hay chăng? Từ Thời Minh Tri trở đi thì khoa học, ít là một phần nào đó, đã thực hiện việc tìm cách giải thích về một thế giới không cần đến Thiên Chúa nữa. Và nếu điều này là thế thì Ngài cũng trở thành không còn thiết yếu trong đời sống của chúng ta nữa. Thế nhưng bất cứ khi nào nỗ lực này dường như sắp sửa thành công – thì vấn đề không thể nào không sáng tỏ là có một cái gì đó thiếu mất nơi phương trình này! Khi Thiên Chúa bị khấu trừ thì một điều gì đó không được cộng thêm cho con người, cho thế giới, cho toàn thể vũ trụ. Bởi vậy mà chúng ta đứng trước hai hai chọn. Đâu là chọn lựa thứ nhất? Lý Trí Sáng tạo, Thần Linh Sáng Tạo là Đấng làm nên hết mọi sự và làm cho chúng phát triển, hay Cái Vô Tri, cái dù thiếu nghĩa lý lại có thể một cách nào đó làm phát sinh ra vũ trụ lớp lang theo toán học, cùng với con người và lý trí của họ. Tuy nhiên, cái vô tri bấy giờ chẳng là gì khác ngoài một thứ thành quả tình cờ của việc tiến hóa, nên cuối cùng cũng chỉ tương đương với vô nghĩa. Là Kitô hữu, chúng ta nói: ‘Tôi tin kính Thiên Chúa là Cha, Đấng Tạo Thành trời đất’ – Tôi tin kính Thần Linh Sáng Tạo. Chúng ta tin rằng khởi sự của tất cả mọi sự là Lời hằng hữu, có Lý Trí chứ không phải Vô Tri. Với niềm tin này, chúng ta không có lý do nào để ẩn nấp, không sợ bị đi đến ngõ cụt đường cùng. Chúng ta hân hoan là chúng ta có thể nhận biết Thiên Chúa! Và chúng ta cố gắng giúp cho những người khác thấy được cái hợp lý của niềm tin, như Thánh Phêrô trong Thư Thứ Nhất của mình đã thiết tha minh nhiên kêu gọi Kitô hữu thời của ngài thực hiện, và cùng với họ, cả chúng ta nữa (x 1Pt 3:15)!
Chúng tôi tin tưởng vào Thiên Chúa. Đây là những gì được các phần chính trong Kinh Tin Kính khẳng định, nhất là ở phần thứ đầu. Thế nhưng giờ đây một câu hỏi khác được đặt ra, đó là tin tưởng vào vị Thiên Chúa nào đây? Chắc chắn là chúng ta tin tưởng vào vị Thiên Chúa là Thần Linh Sáng Tạo, là Lý Trí sáng tạo, là nguồn mạch của tất cả mọi sự hiện hữu, bao gồm cả chính chúng ta. Phần thứ hai của Kinh Tin Kính nói với chúng ta hơn nữa. Lý Trí sáng tạo này thì Thiện Hảo, Lý Trí ấy là Tình Yêu. Lý Trí ấy có một dung nhan. Thiên Chúa không để chúng ta mò mẫm trong tăm tối. Ngài đã tỏ mình cho chúng ta như là một con người. Từ sự cao cả của mình, Ngài đã tự trở nên bé mọn. ‘Ai thấy Thày là thấy Cha’, Chúa Giêsu nói (Jn 14:9). Thiên Chúa đã khoác một bộ mặt nhân loại. Ngài đã yêu thương chúng ta cho đến độ để cho mình bị đóng đinh trên cây Thập Giá vì chúng ta, để mang những nỗi khổ đau của nhân loại đến với chính cõi lòng của Thiên Chúa. Ngày nay, thời điểm chúng ta thấy được những bệnh lý cùng với các chứng bệnh đe dọa tới sự sống liên hệ đến tôn giáo và lý trí, và những cách thức hình ảnh Thiên Chúa có thể bị hủy hoại bởi hận thù và cuồng tín, thì cần phải nói rõ rằng vị Thiên Chúa này là Đấng chúng ta tin tưởng, và tin tưởng loan báo rằng vị Thiên Chúa này có một bộ mặt con người. Chỉ có niềm tin này mới có thể giải phóng chúng ta khỏi cảm thấy sợ hãi Thiên Chúa – một thứ hãi sợ tận cùng là nguồn gốc của chủ nghĩa vô thần tân tiến. Chỉ có vị Thiên Chúa này mới cứu chúng ta khỏi cảm thấy sợ hãi thế giới cũng như khỏi mối lo âu trước tình trạng trống rỗng của cuộc đời. Chỉ khi nào nhìn lên Chúa Giêsu Kitô thì niềm hân hoan của chúng ta trong Thiên Chúa mới nên trọn và trở thành niềm vui cứu độ. Trong cuộc long trọng cử hành Thánh Thể này, chúng ta hãy nhìn lên Chúa bị treo trước chúng ta trên Thập Giá và hãy xin Người hãy ban cho chúng ta niềm vui tràn trề, một niềm vui được Người hứa hẹn với thành phần môn đệ của Người vào giờ khắc biệt ly (x Jn 16:24)!
Phần thứ hai của Kinh Tin Kính kết thúc bằng việc nói đến vấn đề chung thẩm và phần thứ ba nói đến việc kẻ chết sống lại. Phán quyết – phải chăng chữ này không khiến chúng ta cảm thấy sợ hãi? Mặt khác, không phải hết mọi người đều muốn thấy công lý dần dần cần phải được trả về cho tất cả những ai bị lên án bất công, cho tất cả những ai chịu khổ đau trên đời này, những ai chết đi sau một cuộc đời đầy đớn đau hay sao? Không phải là tất cả chúng ta đều muốn những gì là bất chính bạo tàn và khổ đau chúng ta thấy được nơi lịch sử loài người cuối cùng bị chấm dứt hay sao, nhờ đó, cuối cùng, mọi người sẽ tìm được hạnh phúc, và hết mọi sự mới cho thấy có ý nghĩa hay sao? Cuộc chiến thắng ấy của công lý, việc liên kết với nhiều thứ phân mảnh của lịch sử dường như là vô nghĩa này, và việc cống hiến cho chúng vị trí của chúng trong một bức tranh lớn lao hơn có chân lý và yêu thương làm chủ, đó là những gì được hiểu theo quan niệm về việc phán xét chung. Đức tin không có mục đích làm phát sinh ra sợ hãi; trái lại, nó có mục đích kêu gọi chúng ta chấp nhận trách nhiệm. Chúng ta không muốn làm cho cuộc đời của mình bị hoang phí, muốn mạo dụng nó, hay muốn chỉ sống cuộc đời ấy cho bản thân mình. Trước tình trạng bất chính, chúng ta không được dửng dưng lạnh lùng, để đi đến chỗ trở nên thành phần hợp tác âm thầm hay thành phần hoàn toàn đồng lõa. Chúng ta cần nhận ra sứ vụ của chúng ta trong lịch sử và hãy cố gắng để thi hành nó. Điều cần thiết đó là đừng sợ mà là trách nhiệm – trách nhiệm và quan tâm đến phần rỗi của mình cũng như phần rỗi của toàn thể thế giới. Mọi người đều cần thực hiện việc góp phần của mình cho mục đích ấy. Thế nhưng, khi trách nhiệm và quan tâm có khuynh hướng phát sinh sợ hãi, thì chúng ta cần phải nhớ những lời của Thánh Gioan là: ‘Hỡi các con nhỏ, tôi viết điều này để giữ cho anh em khỏi sa ngã phạm tội. Thế nhưng nếu ai sa ngã phạm tội thì chúng ta đã có một biện hộ gia trước Chúa Cha là Chúa Giêsu Kitô là người công chính’ (1Jn 2:1). ‘Cho dù lòng chúng ta có trách móc chúng ta thế nào chăng nữa thì Thiên Chúa còn lớn hơn cả lòng chúng ta và Ngài bei61t hết tất cả mọi sự’ (ibid 3:20).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu