GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ HAI 8/1/2007 LỄ GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA |
? "Giữa phép rửa Chúa Kitô lãnh nhận và phép rửa chúng ta lãnh nhận có một liên hệ sâu xa"
? “Chúng ta hãy bắt đầu một tân niên bằng việc nhìn lên Mẹ Maria”
? Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” nên tất cả mọi người đều bẩm sinh bình đẳng với nhau; Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” mà họ cần phải kiến tạo ‘Môi Sinh Hòa Bình”
"Giữa phép rửa Chúa Kitô lãnh nhận và phép rửa chúng ta lãnh nhận có một liên hệ sâu xa"
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật 7/1/2007 Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa
Anh Chị Em thân mến:
Hôm nay Giáo Hội cử hành Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, một lễ kết thúc mùa Giáng Sinh. Phụng vụ nêu lên cho chúng ta trình thuật về việc Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sống dược Đăng, theo trình thuật của Thánh Ký Luca (x 3:15-16, 21-22). Vị Thánh Ký này kể rằng, trong khi Chúa Giêsu đang nguyện cầu sau lúc lãnh nhận phép rửa trong số nhiều người cảm thấy được thu hút bởi việc giảng dạy của vị tiền hô, thì các tầng trời mở ra và Thánh Thần xuống trên Người qua hình của một con chim bồ câu. Vào lúc ấy có tiếng vang lên từ trời rằng: ‘Con là Con yêu dấu của Cha, Cha rất hài lòng về Con’ (Lk 3:22).
Tất cả các vị Thánh Ký đều thuật lại và nhấn mạnh đến phép rửa Chúa Giêsu lãnh nhận ở Sông Dược Đăng, mặc dù bằng cách thức khác nhau. Thật vậy, việc lãnh nhận phép rửa là một phần trong việc rao giảng của các tông đồ, vì nó tạo nên khởi điểm cho một chuỗi biến cố và ngôn từ được các vị tông đồ sử dụng trong việc làm chứng (x Acts 1:21-22, 10:37-41). Cộng đồng tông đồ đã coi nó là những gì rất quan trọng, chẳng những vì trong hoàn cảnh bấy giờ, lần đầu tiên nơi lịch sử, xẩy ra cuộc tỏ hiện mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi một cách rõ ràng và trọn vẹn, mà còn vì với biến cố mở màn cho thừa tác vụ công khai của Chúa Giêsu tiến vào những con đường ở Palestine.
Việc Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa ở Sông Dược Đăng là một thứ ngưỡng vọng về phép rửa bằng máu Người chịu trên thập tự giá, việc này cũng là một biểu hiệu cho tất cả hoạt động về bí tích nhờ đó Đấng Cứu Chuộc thiết lập ơn cứu độ cho nhân loại. Đó là lý do truyền thống giáo phụ đã đặc biệt chú trọng tới lễ này, một lễ cổ kính nhất sau Lễ Phục Sinh. Phụng vụ hôm nay xướng lên rằng: ‘Nơi phép rửa Chúa Kitô lãnh nhận, thế giới được thánh hóa, tội lỗi được thứ tha; chúng ta đã trở thành những tạo vật mới bởi nước và Thần Linh’ ("Antiphon to the Benedictus," Office of Lauds).
Giữa phép rửa Chúa Kitô lãnh nhận và phép rửa chúng ta lãnh nhận có một liên hệ sâu xa. Ở Sông Dược Đăng, các tầng trời mở ra (x Lk 3:21) có ý nói rằng Đấng Cứu Thế đã mở ra cho chúng ta con đường cứu độ, và chúng ta có thể theo con đường này chính nhờ ở cuộc tái sinh ‘bởi nước và Thần Linh’ (Jn 3:5) là những gì xẩy ra nơi phép rửa. Nơi phép rửa này, chúng ta được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa Kitô là Giáo Hội, chúng ta chết đi và sống lại với Người, c hung ta được mặc lấy Người, như Tông Đồ Phaolô nhấn mạnh đến một số lần (x 1Cor 12:13; Rm 6:3-5; Gal 3:27). Bởi thế trách nhiệm xuất phát từ phép rửa bao gồm việc ‘lắng nghe’ Chúa Giêsu, tức là tin tưởng vào Người và theo Người một cách dễ dạy khi làm theo ý của Người, ý muốn của Thiên Chúa. Nhờ đó, mỗi người chúng ta mới có thể khát vọng thánh thiện, một mục tiêu, như Công Đồng Chung Vaticanô II nhắc nhở, làm nên ơn gọi của tất cả mọi người đã lãnh nhận phép rửa. Chớ gì chúng ta được Mẹ Maria trợ giúp, người mẹ của Người Con yêu dấu của Thiên Chúa, để luôn trung thành với phép rửa của chúng ta.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 7/1/2007
“Chúng ta hãy bắt đầu một tân niên bằng việc nhìn lên Mẹ Maria”
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI – Bài Giảng Đầu Năm, Lễ Mẹ Thiên Chúa và Ngày Hòa Bình Thế Giới Thứ Hai 1/1/2007
Anh Chị Em thân mến,
Như trong một bức vi thạch ghép, phụng vụ hôm nay chiêm ngưỡng những b iến cố và những trường hợp cứu độ khác nhau, thế nhưng đặc biệt chú trọng tới Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Tám ngày sau cuộc hạ sinh của Chúa Giêsu, chúng ta tưởng niệm đến Người Mẹ này, Theotokos, vị đã hạ sinh Con Trẻ muôn đời là Vua Trời đất (xem Ca Nhập Lễ; Sedulius).
Phụng vụ hôm nay suy niệm về Lời đã làm người và lập lại rằng Người đã được hạ sinh bởi một Vị Trinh Nữ. Phụng vụ hôm nay được phản ảnh nơi việc cắt bì của Chúa Giêsu như một thứ nghi thức gia nhập cộng đồng, và chiêm ngưỡng Thiên Chúa, Đấng qua Mẹ Maria, đã ban Người Con Duy Nhất của mình để dẫn dắt ‘dân mới’ ấy. Phụng vụ đã nhắc lại danh xưng được đặt cho Đấng Thiên Sai và nghe thấy danh xưng này được vang lên một cách dịu dàng bởi Mẹ của Người. Danh xưng ấy gợi lên sự bình an cho thế giới, một thứ bình an của Chúa Kitô, và điều gợi lên này được thực hiện qua Mẹ Maria là Môi Giới và là Cộng Tác Viên của Chúa Kitô (cf. "Lumen Gentium," nn. 60-61).
Chúng ta bắt đầu một tân niên dương lịch là một khoảng thời gian thêm nữa được Đấng Quan Phòng thần linh cống hiến cho chúng ta liên quan tới ơn cứu độ do Chúa Kitô khai mở. Thế nhưng không phải là Lời hằng hữu đã đi vào thời gian thực sự là qua Mẹ Maria hay sao? Ở Bài Đọc Thứ Hai chúng ta vừa nghe, Thánh Tông Đồ Phaolô đã nhắc lại điều này khi nói rằng Chúa Giêsu được hạ sinh ‘bởi một người nữ’ (Gal 4:4).
Ở phụng vụ hôm nay, nổi bật là hình ảnh Mẹ Maria, Người Mẹ thực của Chúa Giêsu, Vị Thiên Chúa làm người. Bởi vậy mà Lễ Trọng hôm nay không phải là để cử hành một ý tưởng trừu tượng mà là một mầu nhiệm và một biến cố lịch sử, đó là Chúa Giêsu Kitô, một Ngôi Vị thần linh, được hạsinh bởi Trinh Nữ Maria, vị là Mẹ của Người theo đúng nghĩa nhất.
Ngoài vai trò làm mẹ, hôm nay nữa cũng đề cao tới đức trinh nguyên của Mẹ Maria. Đây là hai đặc ân bao giờ cũng được loan báo chung với nhau, bất khả phân ly, vì chúng bổ khuyến và định phẩm cho nhau. Mẹ Maria là Mẹ nhưng lại là một Người Mẹ Đồng Trinh; Mẹ Maria là một Trinh Nữ, nhưng là một Trinh Nữ Thân Mẫu. Nếu gạt đi một trong hai khía cạnh này thì mầu nhiệm Mẹ Maria như được các Phúc Âm cho chúng ta thấy về Mẹ không thể nào được hiểu một cách chính xác.
Là Mẹ của Chúa Kitô, Mẹ Maria cũng là Mẹ của Giáo Hội, một tước hiệu đã được vị Tiền Nhiểm khả kính của tôi là Đầy Tớ Chúa Phaolô VI công bố ngày 21/11/2964 tại Công Đồng Chung Vaticanô II. Sau hết, Mẹ Maria là Người Mẹ Thiêng Liêng của toàn thể nhân loại, vì Chúa Giêsu trên câp thập giá đã đổ máu ra cho tất cả chúng ta và từ Cây Thập Giá này Người đã ký thác tất cả chúng ta cho việc chăm sóc từ mẫu của Mẹ.
Bởi thế, chúng ta hãy bắt đầu tân niên này bằng việc nhìn lên Mẹ Maria là vị chúng ta đã lãnh nhận từ bàn tay của Thiên Chúa như là một ‘khả năng’ quí hóa để làm cho sinh hoa kết trái, một cơ hội thuận lợi để góp phần vào việc làm cho Vương Quốc của Thiên Chúa trị đến.
Trong bầu khí nguyện cầu và tri ân Thiên Chúa về tặng ân này của một tân niên, tôi hân hoan trân trọng nghĩ tới chư Tôn Vị Lãnh Sự thuộc Phái Đoàn Ngoại Giao làm việc với Tòa Thánh muốn tham dự vào việc long trọng Cử Hành hôm nay.
Tôi thân ái chào ĐHY Tarcisio Bertone, vị Quốc Vụ Khanh của tôi. Tôi chào ĐHY Renato Raffaele Martino cùng các phần tử thuộc Hội Đồng Tòa Thánh Về Công Lý Và Hòa Bình và tôi muốn bày tỏ cùng họ lòng biết ơn sâu xa của tôi đối với viếc họ hằng ngày dấn thân cổ võ cho những thứ giá trị rất quan thiết cho đời sống xã hội.
Về Ngày Thế Giới Hòa Bình hôm nay đây, theo thường lệ, tôi đã gửi Sứ Điệp đến các Vị Thủ Tướng và Lãnh Đạo Chư Quốc, cũng như đến tất cả mọi con người nam nữ thiện tâm. Đề tài của sứ điệo này cho năm nay là Con Người – Trọng Tâm của Hòa Bình.
Tôi hết sức tin tưởng rằng ‘việc tôn trọng con người là những gì cổ võ hòa bình, và trong việc xây dựng hòa bình thì cần phải đặt nền tảng cho một nền nhân bản nguyên vẹn chân thực’ (Message for World Peace Day, 1 January 2007, n. 1).
Việc dấn thân này đặc biệt là trách vụ của hết mọi Kitô hữu, thành phần được kêu gọi ‘dấn thân không ngừng cho việc đi làm hòa bình và hăng say bênh vực phẩm giá của con người cùng với các quyền lợi bất khả chuyển nhượng của họ’ (cùng nguồn, 6). Chính vì họ được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tương tự như Ngài (x Gen 1:27), mà hết mọi cá nhân bất phân biệt chủng tộc, văn hóa hay tôn giáo, là một con người được mặc cùng một phẩm vị Thiên Chúa ban. Đó là lý do họ cần phải được tôn trọng, không thể nại bất cứ lý do nào để độc đoán sử dụng họ như là một thứ đồ vật.
Lại càng cần phải cùng nhau hoạt động cho hòa bình khi có những thứ đe dọa hòa bình vẫn tiếp tục xẩy ra một cách bất hạnh, có những trường hợp bất công và bạo lực liên tục diễn ra ở các miền đất khác nhau trên thế giới, và có các cuộc xung đột võ trang tiếp tục xẩy ra lại thường bị đa số công luận coi nhe, cũng như có cơ nguy khủng bố đang bao phủ cảnh thanh thản của các dân nước. Như tôi đã nhắc nhở trong sứ điệp hòa bình thì đây vừa là ‘tặng ân vừa là tác vụ’ (đoạn 3): một tặng ân cần cầu xin để có và là một tác vụ cần phải được thi hành một cách can đảm không thôi.
Trình thuật chúng ta vừa nghe phác tả cảnh tượng các mục đồng Bêlem, những người, sau khi nghe lời loan báo của Thiên Thần, đã đến hang đá để tôn thờ Con Trẻ (x Lk 2:16). Chẳng lẽ chúng ta không nhìn lại một lần nữa tình hình thể thảm đang hằn vết chính Mảnh Đất Chúa Giêsu sinh ra? Làm sao chúng ta lại không khẩn xin Thiên Chúa bằng những lời nguyện cầu liên lỉ cho ngày hòa bình chóng xẩy ra bao nhiêu có thể cả ở vùng đó nữa, một ngày mà cuộc xung đột hiện nay đã kéo dài quá lâu được giải quyết?
Nếu muốn chấp nhận một thỏa ước hòa bình thì cần phải căn cứ vào việc tôn trọng phẩm giá và các thứ quyền lợi của hết mọi người. Tôi muốn bày tỏ cùng những vị đại diện chư quố cđang hiện diện nơi đây niềm hy vọng là Cộng Đồng Quốc Tế sẽ tập trung lực lượng của mình để xây dựng một thế giới vì Danh Chúa, một thế giới mà hết mọi người đều biết tôn trọng nhân quyền. Để điều này có thể xẩy ra, người ta cần phải nhìn nhận rằng các quyền lợi ấy không phải chỉ được căn cứ vào những ý thỏa ước của con người mà ‘vào chính bản tính của con người cùng với phẩm giá bất khả chuyển nhượng của họ như là một con người được Thiên Chúa dựng nên’ (cùng nguồn, đoạn 13).
Thật thế, nếu những yếu tố cấu tạo nên phẩm vị của con người được lọt vào vòng tư duy khả hoán của con người thì thậm chí ngay cả những thứ quyền lợi của con người được long trọng công bố đi nữa cũng sẽ đi đến chỗ suy yếu và được giải thích lung tung. ‘Bởi thế, các cơ quan quốc tế không được lạc hướng khỏi nền tảng tự nhiên này nơi các thứ quyền lợi của con người. Điều này sẽ giúp cho họ có thể tránh đi được cái nguy cơ, bất hạnh thay vẫn hằng diễn ra, chiều theo một thứ dẫn giải thuần thực chứng về các thứ quyền lợi ấy’ (cùng nguồn).
‘Chúa chúc phúc cho các người và gìn giữ các người…. Xin Ngài ngước mặt nhìn đến các người và ban cho các người được bình an’ (Num 6:24,26). Đó là c ông thức Chúc Phúc chúng ta đã nghe thấy ở Bài Đọc Thứ Nhất, trích từ Sách dân Số. Danh Chúa được lập lại 3 lần. Điều này gợi lên cho người ta ý nghĩ về một thứ gia tăng và quyền năng của Phúc Lành được kết thúc bằng lời ‘bình an’.
Từ ngữ Thánh Kinh shalom, được chúng ta chuyêå dịch thầh ‘hòa bình’, là những gì bao hàm một thứ chất chồng những gì là tốt lành bao gồm cả ‘ơn cứu độ’ của Chúa Kitô, Đấng Thiên Sai được các Tiên Tri loan báo. Bởi thế, Kitô hữu chúng ta nhìn nhận Người như là Hoàng Tử Hòa Bình. Người đã trở thành một con người và đã giáng sinh trong một hang động ở Bêlem để mang bình an đến cho người thiện tâm, cho tất cả những ai đón nhận Người bằng niềm tin tưởng và lòng mến yêu.
Thế nên, bình an thực sự là tặng ân và là tác vụ của Lễ Giáng Sinh: một tặng ân cần phải được chấp nhận bằng tấm lòng khiêm cung dễ dậy và bằng một niềm tin tưởng liên lỉ nguyện cầu, một tác vụ trong việc làm cho hết mọi người thành tâm thiện chí trở thành một ‘đường lối hòa bình’.
Chúng ta hãy xin Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa giúp chúng ta biết đón nhận Con của Mẹ, và bình an thực sự nơi Người. Chúng ta hãy xin Mẹ hãy giúp chúng ta có một cái nhìn thấu suốt để chúng ta có thể nhận ra trên khuôn mặt của hết mọi người Dung Nhan của Chúa Kitô, tâm điểm của hòa bình!
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu
của Tòa Thánh Vatican
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2007/documents/hf_ben-xvi_hom_20070101_world-day-peace_en.html
Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” nên tất cả mọi người đều bẩm sinh bình đẳng với nhau; Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” mà họ cần phải kiến tạo ‘Môi Sinh Hòa Bình”
Phân tích học hỏi Sứ Điệp Hòa Bình 1/1/2007 của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn c ầu của Tòa Thánh V atican
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/messages/peace/documents/hf_ben-xvi_mes_20061208_xl-world-day-peace_en.html
2) Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” nên tất cả mọi người đều bẩm sinh bình đẳng với nhau:
6. Nguồn gốc của nhiều thứ căng thẳng đe dọa tới hòa bình chắc chắn là những tình trạng thiếu quân bình một cách bất công vẫn còn thê thảm xẩy ra trên thế giới của chúng ta. Đàng khác, cái đặc biệt oái oăm trong số những thứ bất quân bình này đó là tình trạng bất quân bình trong việc có thể được hưởng dụng những sản vật thiết yếu như thực phẩm, nước nôi, cư trú, sức khỏe; ngoài ra, còn có những thứ bất quân bình liên lỉ giữa nam nhân và nữ giới trong việc hành sử các quyền lợi căn bản của con người nữa.
Một yếu tố nồng cốt cho việc xây dựng hòa bình đó là việc nhìn nhận cái quyền bình đẳng thiết yếu của con người xuất phát từ phẩm giá siêu việt chung của họ. Sự bình đẳng về phương diện này là sự thiện thuộc về tất cả mọi người, một sự thiện được ghi nhận nơi một ‘thứ văn phạm’ có thể suy diễn từ dự án thần linh của việc tạo dựng; nó là một sự thiện không thể bị coi thường hay khinh thường nếu không muốn gây ra những hậu quả trầm trọng nguy hại tới hòa bình. Tình trạng cực kỳ thiếu thốn đang hành hạ nhiều dân tộc, nhất là ở Phi Châu, nguyên nhân sâu xa đưa đến những phản ứng bạo động và vì thế gây tổn thương nặng nề cho hòa bình.
7. Tương tự như thế, việc không quan tâm đầy đủ đến tình trạng của nữ giới là những gì góp phần vào tình trạng bất ổn định nơi cơ cấu xã hội. Tôi nghĩ tới việc khai thác nữ giới, thành phần bị đối xử như là những đồ vật, cũng như tới nhiều cách thức thiếu tôn trọng đối với phẩm giá của họ; tôi cũng nghĩ tới – ở một bối cảnh khác – tâm thức kéo dài nơi một số văn hóa, nơi phụ nữ vẫn còn bị lụy thuộc một cách mạnh mẽ vào những quyết định độc đoán của nam giới, gây ra những hậu quả trầm trọng cho phẩm giá riêng tư của họ cũng như cho việc họ hành sử các quyền tự do căn bản của họ. Một nền hòa bình bảo đảm chắc chắn chỉ là ảo tưởng cho tới khi những hình thức kỳ thị này cũng được chế ngự nữa, vì chúng làm tổn thương đến phẩm vị riêng tư được Đấng Hóa Công ghi khắc nơi hết mọi người (Cf. Congregation for the Doctrine of the Faith, Letter to the Bishops of the Catholic Church on the collaboration of men and women in the Church and in the world [31 May 2004], 15-16).
3) Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” mà họ cần phải kiến tạo ‘Môi Sinh Hòa Bình”:
8. Trong bức Thông Điệp ‘Bách Niên’ của mình, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: ‘Thiên Chúa chẳng những ban trái đất cho con người, thành phần cần phải trân trọng sử dụng nó vì mục đích tốt đẹp nguyên thủy mà nó được ban cho họ, mà cả con người nữa cũng là tặng ân Thiên Chúa đã ban tặng cho con người nữa. Bởi thế họ cần phải tôn trọng cấu trúc tự nhiên và luân lý mà họ đã được ban cho (khoản 38)". Nhờ việc đáp ứng trách nhiệm được Hóa Công ủy thác cho mình ấy, con người nam nữ mới có thể hiệp nhau mang lại một thế giới hòa bình. Cùng với môi trường thiên nhiên, cũng có cả những gì được gọi là một thứ môi trường ‘con người’ nữa, một môi trường lại cần đến một thứ môi trường ‘xã hội’. Tất cả những điều này có nghĩa là nhân loại, nếu thực sự muốn hòa bình, cần phải gia tăng ý thức về những mối liên hệ giữa môi sinh tự nhiên, hay giữa việc tôn trọng thiên nhiên, và môi sinh con người. Kinh nghiệm cho thấy rằng việc bất kể không màng chi tới môi trường bao giờ cũng tác hại tới việc chung sống của con người, hay ngược lại. Càng trở nên hiển nhiên hơn nữa nơi cái liên hệ bất khả phân ly giữa tình trạng hòa bình với thiên nhiên và hòa bình nơi con người. Cả hai thứ hòa bình này bao hàm tình trạng hòa bình với Thiên Chúa. Bài thi nguyện của Thánh Phanxicô, được biết đến như là bài ‘Ca Vịnh Anh Mặt Trời’, là một thí dụ tuyệt vời và hằng hiện đại về thứ môi sinh đa diện của hòa bình này.
9. Cái liên hệ chặt chẽ giữa hai thứ môi sinh này có thể hiểu được ở nơi tình trạng bị trục trặc trầm trọng gia tăng về vấn đề cung cấp năng lượng. Trong những năm gần đây, các quốc gia mới đã hăng say nhập cuộc vào việc sản xuất về kỹ nghệ, bởi đó mới gia tăng nhu cầu năng lượng của họ. Điều này đã dẫn đến một cuộc chạy đua chưa từng thấy đối với các nguồn liệu sẵn có. Trong khi đó thì một số nơi trên trái đất này vẫn ở trong tình trạng tụt hậu, và việc phát triển thực sự bị ngăn cản, một phần vì vấn đề gia tăng giá cả về năng lượng. Những gì sẽ xẩy ra cho những dân tộc ấy đây? Tình trạng khan hiếm nơi những nguồn cung cấp năng lượng sẽ ảnh hưởng tới việc phát triển hay không phải triển của những dân tộc ấy ra sao? Cuộc chạy đua đối với các nguồn năng lượng này sẽ gây ra những thứ bất công và xung khắc như thế nào? Và đâu là phản ứng của những ai bị hất ra khỏi cuộïc chạy đua này? Những vấn nạn ấy cho thấy việc tôn trọng đối với thiên nhiên liên hệ chặt chẽ tới nhu cầu cần phải thiết lập, giữa cá nhân với nhau và giữa các quốc gia với nhau, các mối liên hệ chú trọng tới phẩm giá của con người cùng với khả năng đáp ứng thỏa đáng các nhu cầu chân thực của họ. Việc hủy hoại môi trường, việc sử dụng không thích đáng hay vị kỷ, và việc giành giật tích trữ các nguồn nhiên liệu của trái đất này là những gì gây ra các tình trạng bất bình, xung khắc và chiến tranh, chính vì chúng là thành quả của một quan niệm phi nhân nơi việc phát triển. Thật vậy, nếu vấn đề phát triển được thu hẹp vào chiều kích kinh tế kỹ thuật, không đếm xỉa gì tới chiều kính tôn giáo luân lý, nó sẽ không phải là một thứ phát triển trọn vẹn về nhân bản, mà là một thứ méo mó một chiều, sẽ tiến tới chỗ làm bùng nổ các thứ khả năng hủy hoại của con người.
(ngày mai: Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” mà họ không thể bị quan niệm một cách lệch lạc)