GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ TƯ 21/2/2007 LỄ TRO |
? "Mùa Chay nhắc nhở chúng ta rằng đời sống Kitô Giáo là một cuộc chiến đấu không ngừng mà khí giới được sử dụng để chiến đấu đó là việc nguyện cầu, chay tịnh và thống hối".
? "Lịch sử Kitô Giáo đã phát triển một cách rất khác nếu không có việc đóng góp quảng đại của nhiều người nữ".
? THÁNH ÐỊA - DẤU CHỈ THẦN LINH: Vận Ðộng Hòa Bình Từ Lãnh Vực Chính Trị, Dân Sự và Tôn Giáo
"Mùa Chay nhắc nhở chúng ta rằng đời sống Kitô Giáo là một cuộc chiến đấu không ngừng mà khí giới được sử dụng để chiến đấu đó là việc nguyện cầu, chay tịnh và thống hối".
ĐTC BĐXVI - Bài Giảng Thứ Tư Lễ Tro 1/3/2006 tại Đền Thờ Santa Sabina ở Aventine Hill
Quí Hồng Y,
Quí Huynh trong Hàng Giáo Phẩm và hàng Linh Mục,
Anh Chị Em thân mến,
Cuộc diễn hành thống hối được chúng ta lợi dụng để bắt đầu việc cử hành hôm nay đã giúp chúng ta tiến vào một bầu khí chính yếu của Mùa Chay, đó là một cuộc hành trình hoán cải chung cũng như riêng và canh tân tâm hồn.
Theo truyền thống Rôma rất cổ xưa về các chặng – stationes Mùa Chay thì trong mùa này, tín hữu cùng với thành phần hành hương hằng ngày tập trung lại và dừng lại – station – ở một trong nhiều ‘nơi tưởng niệm’ của các vị Tử Đạo được Giáo Hội Rôma thiết lập.
Ở những Đền Thờ là nơi có các hài tích của các vị có cử hành Thánh Lễ, trước đó có cuộc diễn hành hát kinh cầu Các Thánh. Nhờ đó, tất cả những ai làm chứng cho Chúa Kitô bằng máu của mình đều được tưởng niệm, và như thế trở thành một yếu tố phấn khích cho mỗi người Kitô hữu trong việc phục hồi lòng gắn bó của họ với Phúc Âm.
Những nghi thức này vẫn còn giá trị của mình, cho dù thời gian có qua đi nhiều thế kỷ, vì chúng nhắc nhở tính cách quan trọng trong việc chúng ta chấp nhận những lời của Chúa Giêsu ở thời đại của chúng ta đây một cách dứt khoát, đó là ‘Nếu ai muốn theo Thày thì hãy bỏ bản thân mình đi, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thày’ (Lk 9:23).
Một nghi thức khác nữa, một cử chỉ chuyên biệt thích hợp với ngày đầu tiên của Mùa Chay, đó là việc bỏ tro. Ý nghĩa sâu xa nhất của cử chỉ bỏ tro này là gì?
Thật sự thì đây không phải là những gì thuần nghi thức, mà là một cái gì đó rất sâu xa chạm tới tâm hồn của chúng ta. Nó làm cho chúng ta hiểu được tính cách hợp thời của lời Tiên Tri Joel khuyên nhủ được vang vọng trong Bài Đọc Thứ Nhất, lời khuyên nhủ vẫn còn giá trị đáng kể của nó đối với chúng ta, đó là những cử chỉ bề ngoài bao giờ cũng cần phải được ăn khớp với tấm lòng chân thành và cử chỉ nhất trí.
Thật thế, vị tác giả được linh ứng này nghĩ rằng có ích lợi gì khi chúng ta xé áo mà lòng chúng ta vẫn còn cách xa Chúa chứ, tức là còn xa sự thiện hảo và công lý? Những gì thực sự đáng kể đó là việc trở về với Thiên Chúa bằng tấm lòng chân thành thống hối ăn năn để được Ngài xót thương (x Jl 2:12-18).
Một tấm lòng mới và một thần trí mới là những gì chúng ta xin qua Bài Thánh Vịnh thống hối tuyệt vời, bài thánh vịnh Thương Xót – Miserere, bài thánh vịnh xót thương chúng ta hôm nay xướng lên với lời đáp ca: ‘Ôi Chúa, xin xót thương vì chúng con đã phạm tội’ (Sách Lễ Chúa Nhật).
Người tín hữu đích thực, nhận biết mình là một tội nhân, với tất cả con người của mình – thần trí, tâm hồn và thân xác – mong được Thiên Chúa thứ tha, như mong được tân tạo là những gì có thể mang lại niềm vui và hy vọng cho mình (x Ps 51[50]:3,5,12,14).
Một khía cạnh khác của linh đạo Mùa Chay đó là những gì chúng ta có thể diễn tả như ‘chiến đấu tính’, một tính chất xuất hiện trong ‘Lời Nguyện’ hôm nay, lời nguyện đề cập tới cả ‘các thứ vũ khí’ thống hối và ‘trận chiến đấu’ chống lại sự dữ.
Hằng ngày, nhất là trong Mùa Chay, Kitô hữu cần phải đương đầu với một cuộc chiến đấu, như cuộc chiến đấu Chúa Kitô đã trải qua trong hoang địa xứ Giuđêa, nơi Người đã bị ma quỉ cám dỗ 40 ngày, và rồi trong Vườn Nhiệt, lúc Người chế ngự chước cám dỗ trầm trọng nhất để chấp nhận ý muốn của Cha cho đến tận cùng.
Nó là một cuộc chiến đấu thiêng liêng chống lại tội lỗi và cuối cùng là chống lại Satan. Nó là một cuộc chiến đấu bao gồm toàn thể con người và đòi phải chuyên tâm và liên lỉ tỉnh thức.
Thánh Âu Quốc Tinh đã nhận định là những ai muốn tiến bước trong tình yêu mến Thiên Chúa và trong tình thương của Ngài không thể nào mãn nguyện với việc dứt bỏ mình khỏi các trọng tội và tử tội, mà còn ‘phải thực hiện sự thật nữa, ở chỗ cũng nhận ra cả những tội lỗi được cho là ít trầm trọng…, và tiến đến với ánh sáng bằng việc thực hiện các hành động xứng đáng. Cho dù là những tội lỗi ít trầm trọng, song nếu coi thường chúng, chúng cũng nẩy sinh và sán xuất ra sự chết’ (In Io. evang. 12, 13, 35).
Mùa Chay bởi thế nhắc nhở chúng ta rằng đời sống Kitô Giáo là một cuộc chiến đấu không ngừng mà khí giới được sử dụng để chiến đấu đó là việc nguyện cầu, chay tịnh và thống hối. Việc chiến đấu chống lại sự dữ, chống lại hết mọi hình thức vị kỷ và thù ghét, và việc chết đi cho chính mình để sống trong Thiên Chúa là cuộc hành trình khổ chế mà hết mọi người môn đệ của Chúa Giêsu được kêu gọi thực hiện bằng lòng khiêm tốn và nhẫn nại, với lòng quảng đại và kiên trì.
Việc đơn sơ dễ dạy theo Vị Sư Phụ thần linh này làm cho Kitô hữu trở thành những chứng nhân và tông đồ của bình an. Chúng ta có thể nói rằng thái độ nội tại này cũng giúp chúng ta làm sáng tỏ hơn nữa những gì Kitô hữu cần phải đáp ứng trước tình trạng bạo động đang đe dọa hòa bình trên thế giới này.
Việc đáp ứng này chắc chắn không phải là việc trả đũa, hay việc hận thù hoặc thậm chí việc chiến đấu theo chủ nghĩa duy linh sai lạc. Việc đáp ứng của những ai theo Chúa Kitô, trái lại, là việc theo đường lối được chấp nhận bởi Đấng, khi đương đầu với các sự dữ trong thời đại của mình cũng như trong tất cả mọi thời đại, đó là cương quyết ôm lấy Thánh Giá, đi theo con đường dài hơn nhưng lại là con đường hiệu nghiệm hơn của yêu thương.
(Biệt chú của người dịch bản Việt ngữ đây là phải chăng Đức Thánh Cha có ý nói tới trường hợp đặc biệt ở Nigeria tháng trước liên quan tới vụ Kitô hữu ở miền nam nước này đã phản ứng bạo động phạm đến anh chị em Hồi giáo ở miền bắc vào ngày Thứ Ba 26/2/2006, bằng việc sát hại và hủy hoại giống như họ đã gây ra cho anh chị em đồng đạo của mình ở miền bắc nước này?)
Theo bước chân của Người và liên kết với Người, chúng ta tất cả cần phải nỗ lực chống lại sự dữ bằng sự lành, chống lại lầm lạc bằng chân lý và chống lại hận thù bằng yêu thương.
Trong Thông Điệp Thiên Chúa Là Tình Yêu, tôi đã muốn trình bày tình yêu này như bí quyết của việc chúng ta hoán cải cả về phương diện cá nhân cũng như giáo hội. Đề cập tới những lời Thánh Phaolô ngỏ cùng Giáo Đoàn Corinto là ‘tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta’ (2Cor 5:14), tôi đã nhấn mạnh là ‘cái ý thức là trong Chúa Kitô Thiên Chúa đã ban mình cho chúng ta cho đến chết phải là những gì tác động chúng ta không còn sống cho chính mình nữa mà là cho Ngài và với Ngài cho người khác’ (số 33).
Hơn nữa, như Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm hôm nay, tình yêu cần phải thể hiện bằng những tác động cụ thể cho tha nhân của chúng ta, nhất là cho thành phần nghèo khổ và thiếu thốn, luôn tùy thuộc giá trị của các ‘việc lành’ vào lòng thành của mối liên hệ với ‘Cha ở trên trời’ của chúng ta, Đấng ‘thấy trong thầm kín’ và ‘sẽ tưởng thưởng’ cho tất cả những ai thực hiện những hành động tốt lành một cách khiêm nhu và vô tư (x Mt 6:1,4,6,18).
Việc biểu lộ yêu thương là một trong những yếu tố thiết yếu nơi đời sống Kitô hữu là thành phần được Chúa Giêsu kêu gọi hãy trở nên ánh sáng thế gian, để rồi, nhờ thấy ‘các việc lành của họ’, người ta tôn vinh Thiên Chúa (x Mt 5:16).
Lời khuyến dụ này đặc biệt thích hợp với chúng ta vào lúc bắt đầu Mùa Chay, nhờ đó chúng ta có thể càng hiểu hơn nữa là ‘đối với Giáo Hội, đức ái không phải là một loại hoạt động an sinh phúc lợi… mà là những gì thuộc về bản chất của Giáo Hội, một thể hiện bất khả thiếu của chính việc Giáo Hội hiện hữu’ (Thông Điệp Thiên Chúa Là Tình Yêu, đoạn 25).
Tình yêu thương chân thực được thể hiện nơi những hành động không loại trừ một ai, theo gương của người Samaritanô Nhân Lành, người có một tấm lòng rộng mở đã rat ay cứu trợ một kẻ xa lạ trong cơn khốn khó ‘tình cờ’ gặp trên đường đi (x Lk 10:31).
Quí Hồng Y, Quí Huynh khả kính trong hàng Giáo Phẩm và trong hàng Linh Mục, quí tu sĩ nam nữ và giáo dân, tôi ân cần ưu ái gửi lời chào đến tất cả mọi người, chớ gì chúng ta tiến vào bầu khí tiêu biểu của giai đoạn phụng vụ này bằng những cảm thức ấy, khi để cho Lời Chúa sáng soi và dẫn dắt chúng ta.
Trong Mùa Chay, chúng ta thường nghe vang vọng lời mời gọi hãy hoán cải và tin vào Phúc Âm, và chúng ta sẽ được liên lỉ thôi thúc hãy mở tâm linh của chúng tar a cho quyền năng của ân sủng thần linh. Chúng ta hãy yêu chuộng những giáo huấn dồi dào được Giáo Hội cống hiến cho chúng ta trong những tuần lễ này.
Được phấn chấn bởi việc mạnh mẽ dấn thân nguyện cầu, nhất quyết cố gắng hơn nữa trong việc thống hối, chay tịnh và yêu thương chuyên chú tới anh chị em của chúng ta, chúng ta hãy khởi hành tiến về Lễ Phục Sinh với sự đồng hành của Trinh Nữ Maria, Mẹ Giáo Hội và là mẫu gương của hết mọi người môn đệ đích thực của Chúa Kitô.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2006/documents/hf_ben-xvi_hom_20060301_ash-wednesday_en.html
? "Lịch sử Kitô Giáo đã phát triển một cách rất khác nếu không có việc đóng góp quảng đại của nhiều người nữ".
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 14/2/2007 - Bài Giáo Lý 31 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền
Anh Chị Em thân mến:
Hôm nay chúng ta tiến tới chỗ kết thúc cuộc hành trình về các chứng nhân thời Kitô Giáo sơ khai, những vị được đề cập tới trong các bản văn của Tân Ước. Và chúng ta lợi dụng giai đoạn chót trong cuộc hành trình đầu tiên này để lưu ý tới nhiều nhân vật nữ giới đã đóng một vai trò hiệu nghiệm và cao quí trong việc truyền bá Phúc Âm.
Không được quên lãng chứng từ của họ, đúng như những gì được chính Chúa Giêsu nói về người nữ xức dầu đầu của Người trước cuộc khổ nạn của Người ít lâu: ‘Thật vậy, Thày cho các con hay, bất cứ nơi nào trên khắp thế giới Phúc Âm này được rao giảng thì những gì chị làm đều được nhắc đến chị’ (Mt 26:13; Mk 14:9).
Chúa Kitô muốn có thành phần chứng nhân cho Phúc Âm này, những nhân vật đã góp phần của mình để nhờ đó đức tin vào Người được tăng trưởng, được nhìn nhận và việc tưởng nhớ đến họ tiếp tục tồn tại trong Giáo Hội. Theo lịch sử, chúng ta có thể phần biệt vai trò của nữ giới thuởi Kitô Giáo sơ khai, trong cuộc đời sống trần thế của Chúa Giêsu và trong những cuộc thăng trầm của thế hệ Kitô hữu tiên khởi.
Dĩ nhiên, như chúng ta biết, Chúa Giêsu đã chọn 13 nam nhân trong thành phần môn đệ của Người để làm tổ phụ của dân tân Yến Duyên “là để ở với Người, và để được sai đi rao giảng” (Mk 3:14-15). Sự kiện này là những gì hiển nhiên, thế nhưng, ngoài 12 Vị là các trụ cột của Giáo Hội ấy, các vị tổ phụ của thành phần tân Dân Chúa, còn có nhiều người nữ cũng được chọn và được kể vào số thành phần môn đệ.
Tôi chỉ có thể đề cập vắn gọn tới những người quyết theo con đường của chính Chúa Giêsu, bắt đầu là nữ tiên tri Anna (x Lk 2:36-38), rồi tới người phụ nữ Samaritanô (x Jn 4:1-39), người đàn bà Syrophoenicia (x Mk 7:24-30), người đàn bà bị bệnh loạn huyết (x Mt 9:20-22) và người phụ nữ tội lỗi được thứ tha (x Lk 7:36-50).
Chẳng lẽ tôi lại không lưu ý tới những vai chính trong một số những dụ ngôn có sức tác động của Ngườim chẳng hạn như người đàn bà làm bánh (Mt 13:33), người đàn bà đánh mất đồng bạc cắc (Lk 15:8-10), hay người đàn bà góa gây bực bội cho quan tòa (Lk 18:1-18).
Có tính cách quan trọng hơn cho việc bàn luận của chúng ta đây là những người phụ nữ đã đóng một vai trò liên quan tới sứ vụ của Chúa Giêsu. Trước hết, chúng ta tự nhiên nghĩ tới Trinh Nữ Maria, vị lấy đức tin và nỗ lực từ mẫu của mình hợo tác một cách đặc biệt vào việc cứu chuộc, cho tới độ bà Isave đã gọi Mẹ là “có phúc hơn mọi người nữ” (Lk 1:42), rồi thêm rằng: “Phúc cho em là người tin tưởng” (Lk 1:45).
Trở nên một người môn đệ của Chúa Kitô, Mẹ Maria đã bộc lộ ở tiệc cưới Cana niềm tin tưởng hoàn toàn của Mẹ nơi Người (x Jn 2:5), và đã theo Người cho tới chân thập tự giá, nơi Mẹ đã lãnh nhận sứ vụ từ mẫu của Mẹ từ Người đối với tất cả mọi môn đệ của Người qua mọi thời đại, được Thánh Gioan làm đại diện (x Jn 19:25-27).
Ngoài ra, còn có một vài người nữ là thành phần qua những cách thức khác nhau gắn liền với hình ảnh của Chúa Giêsu bằng những trách vụ. Những người phụ nữ theo Chúa Giêsu để phục vụ Người bằng tài sản của họ là một thí dụ nổi bật ở đây. Thánh Luca cho chúng ta thấy một số tên tuổi là Maria Mai Đệ Liên, Joanna, Susanna “và nhiều người khác” (x Lk 8:2-3). Sau đó, các Phúc Âm nói cho chúng ta biết rằng các phụ nữ, không giống như 12 vị, đã không bỏ Chúa Giêsu vào giờ khổ nạn của Người (x Mt 27:56-61; Mk 15:40).
Nổi bật nhất trong những người phụ nữ này là Mai Đệ Liên, người chẳng những hiện diện ở Cuộc Khổ Nạn mà còn trở thành nhân chứng đầu tiên và người loan báo tin mừng đầu tiên của Đấng Phục Sinh (x Jn 20:1,11-18). Thật vậy, Thánh Tôma Aquinas đã gán cho Maria Mai Đệ Liên lời diễn tả độc đáo là “tông đồ của các tông đồ” (“apostolorum apostola”), giành một bài diẫn giải tuyệt vời về cô: “Như người nữ đã thốt lên cho người nam tiên khởi những lời chết chóc thế nào thì cũng có một người nữ đầu tiên loan báo cho các vị tông đồ những lời sự sống như thế” ("Super Ioannem," CAI publishers, Paragraph 2519).
Còn nữa, trong phạm vi của Giáo Hội sơ khai, việc hiện diện của nữ giới cũng không phải là những gì thứ yếu. Đó là trường hợp của 4 người con gái “phó tế” Philiphê, không được nhắc đến tên tuổi, những người cư ngụ ở Caesarea, tất cả 4 người, như Thánh Luca cho biết, đều được “ơn nói tiên tri”, tức là khả năng công khai nói theo tác động của Thánh Linh (x Acts 21:9). Cái vắn vỏi của tín liệt không cho phép chúng ta có những suy đoán một cách chính xác hơn.
Chúng ta có nhiều văn liệu của Thánh Phaolô về phẩm vị và vai trò trong giáo hội của nữ giới. Ngài bắt đầu bằng nguyên tắc nền tảng là nguyên tắc cho rằng đối với “thành phần lãnh nhận phép rửa “không còn Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; vì tất cả anh chị em đều là một trong Chúa Giêsu Kitô” (Gal 3:28), tức là tất cả đều liên kết trong cùng một bản tính, cho dù mỗi người có những phận vụ đặc biệt (x 1Cor 12:27-30).
Vị Tông Đồ công nhận như một điều bình thường là nữ giới có thể “nói tiên tri” trong cộng đồng Kitô hữu (1Cor 11:5), tức là họ công khai nói theo tác động của Thánh Linh, miễn là để xây dựng cộng đồng và bằng một cách xứng đáng. Bởi thế, lời huấn dụ nổi tiếng “nữ giới cần phải giữ thinh lặng trong giáo hội” cần phải được tương đối hóa (1Cor 14:34).
Vấn đề được tranh luận nhiều này về mối liên hệ giữa câu thứ nhất – nữ giới có thể nói tiên tri trong giáo hội – và câu kia – họ không được nói gì – tức là mối liên hệ giữa hai ý nghĩa có vẻ tương khắc này, c hung ta hãy để cho các nhà chú giải thánh kinh.
Nó không phải là điều cần phải được bàn luận ở đây. Thứ Tư vừa rồi, chúng ta đã gặp gỡ Prisca, hay Priscilla, vợ của Aquila, người ở trong hai trường hợp được đề cập bất ngờ trước chồng của mình (x Acts 18:18; Rm 16:13): Cả hai trường hợp này đượcThánh Phaolô minh nhiên diễn tả như là “sun-ergous” hay cộng sự viên của ngài (Rm 16:3).
Còn có những n hận định khác không được bỏ qua. Chẳng hạn, cần phải nói rằng Bức Thư ngắn gửi cho Philemon được Thánh Phaolô nói tới một người phụ nữ gọi là “Apphia” (x Phil 2). Những bản dịch Latinh và Syria từ bản Hy Lạp thêm vào tên “Apphia” lời diễn tả “soror carissima” (ibid), và cần phải nói rằng trong cộng đồng người Côlôsê, họ đã đóng một vai trò quan trọng. Dù sao đi nữa thì chị là người nữ duy nhất được Thánh Phaolô nói tới trong số thành phần nhận được một trong các bức thư của ngài.
Trong các đoạn khác, Vị Tông Đồ này đề cập tới một bà Phoebe nào đó được ngài gọi là “diakinos” của giáo hội Cenchreae, một thành phố cảng ở phía đông Corintô (x Rm 16:1-2). Mặc dù bấy giờ danh hiệu này vẫn không có một giá trị thừa tác vụ đặc biệt nào có tính cách phẩm trật, nó cũng diễn tả được việc hành sử trách nhiệm về phần người đàn bà thuận lợi cho cộng đồng Kitô Giáo này.
Thánh Phaolô yêu cầu hãy thân ái đón tiếp bà và “giúp bà bất cứ những gì bà cần”, rồi thêm rằng: “Vì bà đã là ân nhân cho nhiều người và cho cả tôi nữa”. Trong cùng một bối cảnh của bức thư ấy, Vị Tông Đồ này, đã nhắc nhở một cách tế nhị các tên tuổi khác của những người phụ nữ, như một Maria nào đó, rồi Tryphaena, Tryphosa và Persis, “yêu dấu”, cũng như Julia là những người được ngài công khai viết rằng họ “đã làm việc khó nhọc vì anh chị em” hay “đã làm việc vất vả trong Chúa” (Rm 16:6,12a, 12b,15), như thế ngài đã nhấn mạnh đến v iệc dấn thân mạnh mẽ của họ cho giáo hội.
Ngoài ra, có hai người nữ được gọi là Euodia và Syntyche, là những người nổi nang trong giáo hội ở Philiphê (Phil 4:2): Lời Thánh Phaolô kêu gọi hãy đồng lòng với nhau cho thấy rằng hai người nữ này đã thi hành một phận vụ quan trọng ở cộng đồng ấy.
Tóm lại, lịch sử Kitô Giáo đã phát triển một cách rất khác nếu không có việc đóng góp quảng đại của nhiều người nữ. Vì lý do ấy, như vị tiền nhiệm đáng kính và yêu dấu của tôi là Đức Gioan Phaolô II, đã viết trong tông thư “ Mulieris Dignitatem”: “Bởi thế, Giáo Hội xin tạ ơn mỗi một và hết mọi người phụ nữ… Giáo Hội tạ ơn về tất cả những biểu dương của ‘tinh hoa’ nữ giới đã diễn tiến trong giòng lịch sử, giữa tất cả các dân tộc và quốc gia; Giáo Hội tạ ơn về tất cả mọi đặc sủng Thánh Linh phân phát cho nữ giới trong lịch sử Dân Chúa, về tất cả những chiến thắng Giáo Hội có được nhờ đức tin, đức cậy và đức mến của họ: Giáo Hội tạ ơn về tất cả mọi hoa trái từ sự thánh thiện của nữ giới” (số 31).
Như chúng ta thấy, lời ca ngợi này gửi đến nữ giới trong giòng lịch sử của Giáo Hội và được bày tỏ nhân danh toàn thể cộng đồng giáo hội. Chúng ta cũng liên kết mình với lời cảm nhận tri ân này, dâng lời tạ ơn Chúa vì Người là Đấng dẫn dắt Giáo Hội của Người, từ đời nọ đến đời kia, bằng việc sử dụng một cách đặc biệt những con người nam nữ, thành phần có thể làm cho đức tin và pháp rửa của mình sinh hoa kết trái cho thiện ích của toàn thể Thân Mình giáo hội cho Thiên Chúa được hiển vinh hơn.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 14/2/2007
THÁNH ÐỊA - DẤU CHỈ THẦN LINH: Vận Ðộng Hòa Bình Từ Lãnh Vực Chính Trị, Dân Sự và Tôn Giáo
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, viết và dịch theo tin tức liên tục của CNN và Zenit, cách riêng tài liệu The Land of Conflict của CNN
(Tiếp 17 Thứ Bảy 1.- Quá Trình Tranh Chấp; 18 Chúa Nhật 2.- Quá Trình Tranh Chấp
: Biến Cố Biên Niên; 19 Thứ Hai 3.- Vận Động Hòa Bình Từ Chính Giáo Hoàng Rôma; 20 Thứ Ba 4.- Vận Động Hòa Bình Từ Tòa Thánh V atican Ở Liên Hiệp Quốc)7/11/2003 - Vận Động Chính Trị
|
Trong khi đó, ngược lại, ở Ai Cập, sau
4 ngày bàn luận ở một nơi bí mật ở miền nam Cairo, được kết thúc hôm Chúa Nhật
7/11/2003, bên Palestine vẫn không đi đến một giải pháp tốt đẹp nào trong việc
giải quyết hòa bình với phe Do Thái. Những ngày bàn luận này nhắm mục đích triệu
tập tất cả các đảng phái Palestine lại, nhất là hai đảng Hamas và Thánh Chiến
Hồi giáo, những đảng vẫn công khai nhận trách nhiệm về các cuộc khủng bố tấn
công những người Do Thái, để tuyên bố chấm dứt các cuộc tấn công như vậy.
Hai đảng chính này tỏ ý là họ sẵn sàng chấm dứt các cuộc tấn công như thế, thế
nhưng chỉ khi nào Do Thái ngưng những gì được họ gọi là những cuộc ám sát những
chiến đấu quân, chấm đứt các cuộc đột kích vào lãnh thổ Palestine và thả các tù
nhân ra. Họ không chịu chấp nhận một thứ ngừng chiến mà không có những điều kiện
này, và họ cũng không chịu trao quyền cho Thủ Tướng Ahmed Qorei thay họ thương
thảo với phe Do Thái. Họ còn nhất định giữ khoảng cách với “lộ trình hòa bình”
của Khối Tứ Tượng (Nga, Mỹ, Liên Hiệp Quốc và Khối Hiệp Nhất Âu Châu).
Đại biểu của đảng Fatah của Tổng Thống Yasser Arafat cho biết những cuộc bàn
luận này “giống như thúc vào thân một con ngựa đã chết… Chúng tôi đã bàn luận
trong vòng 3 ngày mà vẫn chẳng thể nào quyết định được gì cả”. Đại diện đảng
Hamas là Mohamed Nazzal cho biết là Hamas, Islamic Jihad và 3 đảng Palestine
khác đều đồng ý rằng, trong tháng 6 vừa rồi, họ đã đồng ý với việc ngưng chiến
toàn diện nhưng bên Do Thái đã loại trừ nó bằng việc tiếp tục “tấn công dân
chúng Palestine”. Ông này còn nói Hamas “sẽ tiếp tục cuộc chiến đấu võ trang”
dưới hình thức “chống cự toàn diện”.
Các vị đại biểu đã thức tới 3 giờ sáng địa phương để nẩy ra những chi tiết cho
vào bản thảo văn kiện. Có lúc họ đã đồng ý rằng thôi tấn công dân chúng Do Thái
ở miền đất Do Thái, nhưng vẫn tấn công những dân cư Do Thái hay quân đội Do Thái
ở những miền thuộc Palestine như Đông Giêrusalem, Gaza và Tây Ngạn. Các đại biểu
Ai Cập thúc các đảng phái Palestine tiến đến một thỏa định để Cairô trình lên
cho Liên Hiệp Quốc. Thế nhưng những người đại diện đảng Hamas nói rằng chỉ có
một đường lối duy nhất để giải phóng các lãnh thổ của Palestine khỏi việc kiểm
soát của Do Thái đó là bằng một hình thức chống cự nào đó. Đảng Fatah của Arafat
muốn có một cuộc đình chiến toàn diện với Do Thái với điều kiện là Do Thái thôi
những cuộc đột kích và bắt đầu áp dụng lộ trình hòa bình.
1/12/2003 - Vận Động Dân Sự
|
Hôm Thứ Hai 1/12/2003, một nhóm người thuộc cả bên Do Thái lẫn Palestine, mỗi nhóm có 30 đại diện, đã họp lại ở Geneva Thụy Sĩ với 400 người của cả đôi bên tham dự để khai trương một dự án bất chính thức về hòa bình ở Thánh Địa. Trong lễ nghi khai mạc có nhiều bậc vị vọng, trong đó có cả cựu tổng thống Carter, dự án hòa bình này, một dự án đã được âm thầm bàn luận và họp hội hai năm trời, được chính thức công khai loan báo. Mỗi bên bày tỏ việc ủng hộ dự án này bằng việc thắp lên những ngọn nến. Bên Do Thái gồm có những chính trị gia chống lại chính phủ của Thủ Tướng Arial Sharon, còn bên Palestine bao gồm những vị bộ trưởng gần gũi với vị lãnh đạo khối Palestine Yasser Arafat. Hai vị tác giả của bản dự thảo này là nguyên Bộ Trưởng Công Lý Do Thái Yossi Beilin và nguyên Bộ Trưởng Thông Tin Palestine Yasser Abed Rabbo.
Bản dự án hòa bình không được hỗ trợ bởi cả hai chính phủ Do Thái và Palestine này kêu gọi hai phe xung khắc ở Trung Đông nhượng bộ nhau. Bản dự án kêu gọi bên Do Thái hoàn toàn rút khỏi Tây Ngạn, ngoại trừ 2% còn lại. Nó cũng kêu gọi phe Palestine chấm dứt những cuộc tấn công của các nhóm chiến đấu quân Palestine, và lấy Giêrusalem làm thủ đô của cả nước Do Thái lẫn quốc gia (dự trù) Palestine. Cả hai bên đều muốn chiếm thành này, một thành đã được phân chia kiểm soát giữa Do Thái và Ả Rập cho tới năm 1967, thời điểm thành bị quân đội Do Thái chiếm đóng trong Trận Chiến Sáu Ngày. Những người Palestine muốn phần bên đông làm thủ đô của họ, còn Do Thái nhấn mạnh là thành này sẽ vĩnh viễn bất phân chia và ở dưới quyền kiểm soát của Do Thái. Bản dự án hòa bình cũng đề cập đến một vấn đề được gọi là “quyền trở lại” cho những người Palestine và giòng dõi của những ai tị nạn đã phải rời bỏ hay bị bắt buộc rời Do Thái khi quốc gia Do Thái được thành lập vào năm 1948. Những người Palestine đòi quyền trở lại với những miền đất hiện nay thuộc về Do Thái.
Ở Thánh Địa, dân chúng Palestine cho những ai tham dự vào cuộc khai trương dự án hòa bình này là “những kẻ phản bội”. Riêng hai vị tác giả viết lên bản dự án hòa bình gợi ý này đã cho biết nhận định của họ như sau.
Ông Beilin: “Phải chấm dứt thời gian tranh cãi này”. và kêu gọi những nhà lãnh đạo Do Thái và Palestine “hãy lập tức trở lại thương thảo với nhau vô điều kiện”. Theo ông việc cả hai bên chấp nhận bản dự thảo bất chính thức này sẽ làm cho việc bắt đầu áp dụng lộ trình hòa bình Trung Đông được dễ dàng hơn: “Chúng tôi đang đặt bản dự án chung của chúng tôi lên bàn của những nhà có quyền quyết định như là một giải pháp có thể để chấm dứt cái vòng lẩn quẩn bạo loạn xấu xa này”.
Ông Rabbo nói thêm: “Hôm nay chúng tôi giang tay của chúng tôi ra trong hòa bình cho vấn đề hòa bình. Những người phê bình của chúng tôi nói rằng những viên chức chính phủ cần phải thực hiện những hiệp định này, chứ không phải là những đãi diện của xã hội dân sự. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý như thế. Nhưng chúng tôi phải làm gì nếu các viên chức chính phủ không gặp gỡ nhau, nếu các chính quyền không thương thảo với nhau đây? Chúng tôi không thể đợi chờ và trông nhìn khi thấy tương lai của hai quốc gia chúng tôi đang rơi sâu xuống vực tai ương. Đây là giải pháp đơn giản cho cuộc xung khắc này, và nó là giải pháp duy nhất. Tại sao lại phải đợi chờ? Tại sao lại gây thêm những hy sinh đẫm máu chỉ để đạt tới cùng một giải pháp chúng tôi có thể đạt tới hôm nay đây chứ?”
Cựu Tổng Thống Carter nói: “Bản thỏa hiệp này sẽ giải quyết được những vấn đề quan trọng nhất của cuộc xung khắc này, bao gồm cả việc phân định ranh giới, việc định cư người Do Thái, việc chiếm cứ quá nhiều đất đai của người Palestine, vấn đề tương lai của thành Giêrusalem cùng các nơi thánh ở đây, và vấn đề rắc rối liên quan đến thành phần tị nạn Palestine. Chúng ta không thể thấy được một nền tảng hòa bình nào hứa hẹn hơn nữa”.
Hội nghị này cũng đọc cả những bức thư khen ngợi của những viên chức Liên Hiệp Quốc, của Khối Hiệp Nhất Âu Châu và của nhiều quốc gia. Nhiều người Palestine và Do Thái lên tiếng nói ở Geneva, nhưng nhiều lơiụi phát biểu xoay quanh việc lên án Do Thái trong khi chỉ có tương đối ít lời nhắc đến việc khủng bố tấn công của người Palestine.
2/12/2003 - Vận Động Tôn Giáo
Ở Giêrusalem, cha David Jaeger, phát ngôn viên của Vai Trò Bảo Quản Viên Thánh Địa do Dòng Phanxicô đảm trách, trong cuộc phỏng vấn với cơ quan SIR của hàng giáo phẩm Ý hôm Thứ Ba 2/12, đã cho biết bản hiệp định này “là một gương mẫu và là một thách đố”.
Thật vậy, về thẩm quyền thì bản hiệp định này là một văn kiện riêng tư giữa những người công dân với nhau, được viết ra và phổ biến “để thách đố chính quyền hiện hành của mình, như thể nói rằng: ‘nếu chúng tôi có thể đạt đến hiệp định này thì quí vị cũng thế, nếu quí vị muốn’. Nó như lời ngấm trách rằng: ‘nếu quí vị không làm việc ấy cho tới nay, và nếu quí vị vẫn không muốn làm điều này, không phải là vì nó không thể làm mà vì quí vị không muốn làm mà thôi’ Tác giả của bản hiệp định này là những con người thận trọng, chẳng những về trí thức mà còn có cả kinh nghiệm làm việc trong chính quyền nữa. Thật ra không ai bảo rằng bản văn kiện này là hoàn hảo cả, nhưng nó bao gồm đầy đủ những chi tiết cho thấy nó là một bản hiệp định hòa bình khả thể”.
Theo chiều hướng thuận lợi này, tại Washington DC, hôm Thứ Ba 2/12/2003, các ĐHY William H. Keeler TGP Baltimore, Theodore E. McCarrick TGP Washington và ĐGM Wilton Gregory, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, cùng với 29 vị lãnh đạo thượng cấp của các tôn giáo khác như Do Thái Giáo, Kitô Giáo và Hồi Giáo đồng thanh tuyên bố thực hiện một nỗ lực hợp tác mới trong việc vận động công chúng ủng hộ vấn đề thúc đẩy vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ tích cực và dứt khoát hơn nơi vấn đề theo đuổi hòa bình ở Trung Đông đối với dân Do Thái, Palestines và các quốc gia Ả Rập. Họ tin rằng việc đình trệ nơi vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ sẽ làm tăng thêm cuộc xung đột, làm suy yếu cuộc chiến chống khủng bố, và đe dọa nền an ninh quốc gia ở miền đó và trên khắp thế giới.
15/1/2004 - Vận Động Tôn Giáo
Bản Tuyên Ngôn của Các Vị Giám Mục Âu Châu và Mỹ Châu gặp nhau ở Thánh Địa
1. Chúng tôi là những Giám Mục Công Giáo ở Âu Châu và toàn Mỹ Châu, đến đây để bày tỏ tình đoàn kết Công Giáo khắp thế giới với Giáo Hội ở Thánh Địa. Đây là lần thứ ba trong nhiều năm chúng tôi đã đến bằng tình hữu nghị với cả nhân dân Do Thái lẫn Palestine, với Kitô hữu, Do Thái lẫn Hồi giáo. Chúng tôi đã thấy bạo lực cả hai cộng đồng này phải trải qua, đó là cuộc tấn công những người Do Thái ở Gaza và cuộc trừng phạt chung các người công dân Palestine. Chúng tôi xin phân ưu về những cái chết xẩy ra trong thời gian chúng tôi ở đây, cũng như xin xác định việc chúng tôi phản đối tất cả mọi thứ đổ máu.
Chúng tôi đã nghe thấy ước vọng mong muốn hòa bình, công lý và hòa giải giữa cả đôi bên Do Thái và Palestine. Chúng tôi cũng rất lấy làm tiếc xót nhận thấy cái thiếu hụt về ý chí chính trị, chẳng những nơi miền đất này mà còn nơi cả cộng đồng thế giới nữa trong việc hoạt động cho một cuộc ổn định êm đẹp. Bởi thế chúng tôi kêu gọi tất cả mọi vị lãnh đạo chính trị của chúng tôi hãy đáp ứng ước vọng hòa bình là những gì nhân dân ở Thánh Địa này sâu xa ấp ủ trong lòng.
2. “Chúng tôi lao nhọc và nỗ lực, vì chúng tôi đặt hết niềm hy vọng của mình nơi Vị Thiên Chúa hằng sống” (1Tim 4:10).
Chúng tôi đã chứng kiến thấy nhiều dấu hiệu hy vọng trong thời gian ngắn ngủi chúng tôi ở Thánh Địa. Trong số những dấu hiệu hy vọng này là lòng quảng đại đối với Giáo Hội hoàn vũ và những việc thể hiện tình đoàn kết của các Kitô hữu ở Do Thái cũng như ở các nơi khác trên thế giới. Tuy nhiên, hy vọng hơn hết là sức sống và việc dấn thân của chính Giáo Hội ở Thánh Địa, bao gồm cả các mối liên hệ huynh đệ giữa các vị lãnh đạo Kitô giáo.
Chúng tôi chúc mừng Hội Đồng Các Đấng Bản Quyền Công Giáo ở Thánh Địa, cùng với tất cả mọi Kitô hữu ở Thánh Địa hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo, về việc áp dụng một cách thành công Công Hội của mình, cũng như chúc mừng các tổ chức cứu trợ Công Giáo đã từng hoạt động rất vất vả để điều hợp những nỗ lực của mình và dồn nỗ lực của mình vào việc hỗ trợ tất cả mọi dân tộc ở Thánh Địa.
3. “Thánh Địa không cần đến những bức tường ngăn mà là những chiếc cầu nối!” theo lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ngày 16/11/2003.
Chúng tôi đã thấy hậu quả tàn hại của bức tường đang được xây dựng ngang qua đất đai và nhà cửa của các cộng đồng Palestine. Việc này dường như trở thành một thứ kiến tạo vĩnh viễn, phân chia các gia đình, cô lập hóa vườn ruộng của họ cũng như hoàn cảnh sinh sống của họ, và phân cách các tổ chức tôn giáo. Chúng tôi đã có một kinh nghiệm về cái chán nản và nhục nhã phải chịu đựng mỗi ngày của những người Palestine ở những trạm kiểm soát, ngăn chặn không cho họ trợ cấp cho gia đình họ, đi đến bệnh viện, đi làm việc, đi học hành và đi thăm họ hàng.
Chúng tôi phàn nàn về sự kiện là, mặc dù đã có những cải tiến rõ ràng, có một số linh mục, chủng sinh, nữ tu, nam tu và giáo dân bị từ chối hay bị làm khó dễ trong việc xin giấy thông hành và phép cư ngụ để học hỏi và hoạt động ở Do Thái cũng như ở những phần đất của người Palestine. Những điều này tạo nên những thứ ngăn trở thật sự đối với khả năng của Giáo Hội trong việc thực hiện sứ mệnh phục vụ dân chúng ở Thánh Địa. Sự kiện này thật là đáng tiếc vì Nước Do Thái và Tòa Thánh vừa đánh dấu 10 năm ký kết Hiệp Ước Căn Bản.
Chúng tôi cũng quan tâm đến những thông báo thành văn do thẩm quyền Do Thái trao cho những người hành hương đến Thánh Địa, gây khó dễ cho việc họ viếng thăm những miền thuộc quyền kiểm soát của Thẩm Quyền Palestine, bao gồm nhiều Nơi Thánh của Kitô giáo.
4. “’Lạy Thày, Thày hiện đang ở đâu?’ ‘Hãy đến mà xem!’” (Jn 1:38-39).
Chúng tôi đã thấy được niềm hy vọng nơi việc tăng số tuy nhỏ nhưng đáng kể của những người hành hương đến những Nơi Thánh. Chúng tôi hy vọng rằng cuộc hành trình của chúng tôi sẽ là một gương mẫu và là thứ khích lệ cho Kitô hữu đồng đạo của mình trong việc đến mà xem nơi Chúa Giêsu Kitô đã sống. Việc hành trình và là một kẻ lữ hành là dấu hiệu của hy vọng và của tình đoàn kết đối với Kitô hữu ở Thánh Địa, là một nhắc nhở về sự hiện diện của Giáo Hội sống động này, Giáo Hội Mẹ, và là một chứng từ hòa bình hòa giải ở miền đất quá khổ đau vì xung khắc.
Chúng tôi kêu gọi tất cả mọi tín đồ thân hữu hãy làm chứng cho chân lý của sứ điệp được ngỏ với Kitô hữu ở Thánh Địa trong những ngày này là “Anh chị em không lẻ loi một mình đâu!”