GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
CHÚA NHẬT 1/4/2007 TUẦN THÁNH |
? “Như Thày đã yêu thương các con thế nào các con cũng phải yêu thương nhau như thế” (Jn 13:34)
? VẤN ĐÁP VỚI GIỚI TRẺ TRƯỚC NGÀY GIỚI TRẺ THẾ GIỚI 9/4/2006
? Viếng lại những chặng đường thánh giá cuối cùng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Tháng 3/2005: Ngày 1/4
“Như Thày đã yêu thương các con thế nào các con cũng phải yêu thương nhau như thế” (Jn 13:34)
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI – Sứ Điệp Cho Ngaỳ Giới Trẻ Thế Giới XXII, Chúa Nhật Lễ Lá Ngày 1/4/2007
Các bạn trẻ thân mến,
Nhân dịp Ngày Giới Trẻ Thế Giới XXII sẽ được cử hành ở các giáo phận vào Chúa Nhật Lễ Lá, tôi muốn đề ra cho các bạn suy tư về những lời của Chúa Giêsu là ‘Như Thày đã yêu thương các con thế nào các con cũng phải yêu thương nhau như thế’ (Jn 13:34).
Có thể yêu thương được hay chăng?
Hết mọi người đều cảm thấy khát vọng yêu thương và mong muốn được thương yêu. Tuy nhiên, yêu thương lại là vấn đề khó khăn biết mấy, vì đã từng xẩy ra biết bao nhiêu là lầm lỗi và thảm bại trong vấn đề yêu thương! Có những người thậm chí còn tỏ ra ngờ vực cả đến vấn đề yêu thương là những gì khả dĩ nữa. Thế nhưng, nếu những thứ ảo tưởng về cảm xúc hay tình trạng thiếu thốn về cảm tình là những gì có thể khiến cho chúng ta nghĩ rằng yêu thương là một thứ mơ tưởng hão huyền bất khả thực, vậy thì phải chăng chúng ta cần phải lui bước đi thôi? Không! Yêu thương là những gì khả dĩ, bởi thế mà mục đích cho sứ điệp của tôi đây là để giúp làm tái bừng lên nơi mỗi một người trong các bạn – thành phần là tương lai và là hy vọng của nhân loại – niềm tin tưởng vào một thứ yêu thương chân thực, trung thành và mạnh mẽ; một thứ yêu thương làm phát sinh ra an bình và niềm vui; một thứ yêu thương liên kết con người lại với nhau và giúp cho họ tỏ ra sẵn sàng tôn trọng lẫn nhau. Vậy chúng ta hãy cùng nhau thực hiện một cuộc hành trình được chia ra làm ba giai đoạn, để chúng ta bắt đầu một ‘cuộc khám phá’ về yêu thương.
Thiên Chúa là nguồn mạch của yêu thương
Đoạn hành trình thứ nhất liên quan tới nguồn mạch của tình yêu thương chân thực. Chỉ có một nguồn mạch duy nhất, đó là Thiên Chúa. Thánh Gioan đã làm sáng tỏ điều này khi tuyên xưng rằng ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Jn 4:8,16). Ngài không những nói rằng Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta, mà còn nói rằng chính hữu thể của Thiên Chúa là tình yêu nữa. Ở đây chúng ta đối diện với một mạc khải rạng ngời nhất về nguồn mạch của tình yêu, của mầu nhiệm về Chúa Ba Ngôi, đó là, nơi Thiên Chúa, duy nhất và ba ngôi, có một trao đổi yêu thương vĩnh hằng giữa ngôi Cha và ngôi Con, mà tình yêu này không phải là một năng lực hay là một cảm tình, song là một ngôi vị; đó là Thánh Thần.
Thập Giá của Chúa Kitô mạc khải tất cả tình yêu của Thiên Chúa
Vị Thiên Chúa Tình Yêu được mạc khải cho chúng ta như thế nào? Giờ đây chúng ta tiến tới đoạn hành trình thứ hai của chúng ta. Mặc dù những dấu hiệu về tình yêu thần linh vốn được hiển hiện nơi việc tạo thành, nhưng tất cả mạc khải về mầu nhiệm sâu xa của Thiên Chúa được tỏ cho chúng ta thấy nơi việc Nhập Thể là lúc Thiên Chúa đích thân làm người. Nơi Chúa Kitô, Thiên Chúa thật và là Người thật, chúng ta biết được tất cả những gì cao cả vĩ đại của tình yêu. Thật vậy, như tôi đã viết trong Thông Điệp Thiên Chúa là tình yêu – Deus catitas est, ‘cái mới mẻ thực sự của Tân Ước không phải là ở những tư tưởng mới cho bằng ở hình ảnh về chính Chúa Kitô, Đấng hiện thực hóa những quan niệm ấy – tức làm cho chúng trở thành một thứ hiện thực chưa từng có’ (khoản 12). Việc biểu lộ tình yêu thần linh này được thể hiện một cách trọn vẹn và trọn hảo ở nơi Thập Giá, như chúng ta đã nghe thấy Thánh Phaolô nói rằng: ‘Thiên Chúa đã chứng tỏ tình yêu thương của Ngài đối với chúng ta ở chỗ khi chúng ta còn là những tội nhân thì Chúa Kitô đã chết cho chúng ta’ (Rm 5:8). Bởi thế, mỗi một người trong chúng ta có thể thực sự nói rằng: ‘Chúa Kitô đã yêu thương tôi và đã hiến mình vì tôi’ (x Eph 5:2). Được máu của Người cứu chuộc, không có một cuộc sống con người nào là vô ích hay có một giá trị tầm thường, vì mỗi một người trong chúng ta đều được Người yêu thương một cách cá biệt, bằng một tình yêu thiết tha và trung thành, bằng một tình yêu vô giới hạn. Thập Giá – đối với thế gian là một cái gì ngu xuẩn, đối với nhiều tín hữu là một cái gì xấu xa ô nhục – thực sự là ‘sự khôn ngoan của Thiên Chúa’ đối với những ai có thể cảm nhận được từ tận chính thâm cung hữu thể của mình, ‘vì cái khờ dại của Thiên Chúa còn uyên thâm hơn cả sự khôn ngoan của con người, và cái yếu hèn của Thiên Chúa còn mãnh liệt hơn cả sức mạnh của con người’ (1Cor 1:25). Hơn thế nữa, Tượng Chịu Nạn, một tượng chịu nạn mà sau cuộc Phục Sinh sẽ vĩnh viễn mang những vết tích cuộc khổ nạn của Người, còn phơi bày cả ‘những thứ méo mó’ và láo khoét về Thiên Chúa, những gì có tính cách bạo lực, báo thù và diệt trừ. Chúa Kitô là Con Chiên của Thiên Chúa, là Đấng gánh tội trần gian và nhổ tận gốc rễ niềm thù hận cho khỏi tâm can của nhân loại. Tình yêu thực sự là ‘cuộc cách mạn g’ do Người thực hiện vậy.
Yêu Thương tha nhân như Chúa Kitô thương yêu chúng ta
Giờ đây chúng ta tiến đến đoạn hành trình thứ ba trong cuộc suy niệm của chúng ta. Chúa Kitô kêu lên trên Thập Giá rằng: ‘Tôi khát’ (Jn 19:28). Lời ấy cho chúng ta thấy được cơn khát khao thương yêu hừng cháy và muốn được mỗi một người trong chúng ta yêu thương. Chỉ bao giờ chúng ta nhận thấy được chiều sâu và cường độ của một mầu nhiệm như thế chúng ta mới có thể thực hiện nhu cầu thúc bách mến yêu Người như Người đã thương yêu chúng ta. Lời này cũng bao gồm cả một cuộc dấn thân được tình yêu mến Người trợ giúp, thậm chí đến hiến mạng sống mình, nếu cần, vì anh chị em của chúng ta. Thiên Chúa đã phán trong Cựu Ước rằng: ‘Các người phải yêu thương tha nhân như bản thân mình’ (Lev 19:18), thế nhưng cái mới mẻ được Chúa Kitô mang đến ở đây đó là việc yêu thương như Người thương yêu chúng ta, tức là yêu thương hết mọi người không phân biệt ai, thậm chí cả thành phần thù địch với mình, ‘cho đến tận tuyệt’ (x Jn 13:1).
Những chứng nhân cho tình yêu của Chúa Kitô
Các bạn trẻ thân mến, tôi muốn kéo dài một chút nữa về ba lãnh vực của đời sống thường nhật là cuộc sống các bạn được đặc biệt kêu gọi để minh chứng tình yêu thương của Thiên Chúa. Lãnh vực thứ nhất là Giáo Hội, gia đình thiêng liêng của chúng ta, một gia đình được làm nên bởi tất cả mọi thành phần môn đệ của Chúa Kitô. Ý thức được lời Người dạy: ‘Nếu các con mến thương nhau thì mọi người nhờ đó nhận biết các con là môn đệ của Thày’ (Jn 13:35), các bạn cần phải tỏ ra nhiệt tình và bác ái trong việc làm khởi sắc các hoạt động của giáo xứ, của cộng đồng, của các phong trào trong giáo hội và của các nhóm giới trẻ các bạn thuộc về. Hãy đặc biệt quan tâm tới phúc hạnh của người khác, trung thành với những quyết tâm của mình. Đừng ngần ngại trong việc vui vẻ kiềm chế một vài những thứ vui chơi của các bạn; hãy hoan hỉ chấp nhận những hy sinh cần thiết; hãy chứng thực tình yêu mến của các bạn đối với Chúa Giêsu bằng việc loan truyền Phúc Âm của Người, nhất là nơi giới trẻ thuộc lứa tuổi của các bạn.
Sửa soạn cho tương lai
Lãnh vực thứ hai, lãnh vực các bạn được kêu gọi để thể hiện tình yêu của các bạn và lớn lên trong yêu thương, đó là việc các bạn sửa soạn cho tương lai đang đợi chờ các bạn. Nếu các bạn quyết tâm thành hôn thì Thiên Chúa đã có một dự án yêu thương cho tương lai của các bạn trong đời sống vợ chồng và đời sống gia đình. Bởi thế, các bạn cần phải khám phá ra dự án ấy qua việc trợ giúp của Giáo Hội, đừng mang một thứ thành kiến chung là Kitô Giáo có những giới răn và những cấm đoán làm cản trở niềm vui yêu thương, và gây trở ngại cho việc trọn vẹn hoan hưởng thứ hạnh phúc được người nam và người nữ tìm kiếm khi họ yêu thương nhau. Tình yêu của người nam và người nữ, từ khi mở màn cho đời sống gia đình nhân loại, cũng như cho đời sống lứa đôi hợp bởi một người nam và một người nữ, được bắt nguồn từ dự án nguyên thủy của Thiên Chúa (x Gen 2:18-25). Việc làm sao để biết yêu thương nhau như vợ chồng là một cuộc hành trình tuyệt vời, song nó cũng đòi phải có một ‘thời gian học hỏi’ cần thiết. Giai đoạn đính hôn, một giai đoạn rất cần thiết để thành vợ chồng, là một thời gian mong đợi và sửa soạn cần phải sống thanh sạch trong cử chỉ và lời nói. Nó giúp cho các bạn có thể chín chắn trong yêu thương, trong mối quan tâm và chú trọng đến nhau; nó giúp cho các bạn thực hành việc tự chế và phát triển việc tôn trọng nhau. Đó là những đặc tính của tình yêu chân thực không đặt nặng việc tìm kiếm những thỏa mãn riêng tư hay phúc hạnh của mình. Khi cùng nhau cầu nguyện, các bạn hãy xin Chúa canh chừng và gia tăng tình yêu của các bạn cũng như thanh tẩy nó cho khỏi tất cả mọi thứ vị kỷ. Đừng ngần ngại trong việc quảng đại đáp lại tiếng Chúa gọi, vì hôn nhân Kitô Giáo thực sự và hoàn toàn là một ơn gọi trong Giáo Hội. Cũng thế, những con người trẻ nam nữ thân mến, các bạn hãy sẵn sàng thưa ‘vâng’ nếu Thiên Chúa cần gọi các bạn theo đuổi thiên chức linh mục thừa tác hay sống đời tận hiến tu trì. Gương mẫu của các bạn sẽ là một tấm gương phấn khích cho nhiều bạn bè của các bạn là những người đang tìm kiếm hạnh phúc chân thật.
Mỗi ngày lớn lên trong yêu thương
Lãnh vực dấn thân thứ ba của tình yêu đó là lãnh vực của đời sống thường nhật với đầy những mối liên hệ. Tôi đặc biệt nói tới gia đình, học hành, hoạt động và giải trí. Các bạn trẻ thân mến, các bạn hãy vun trồng các tài năng của các bạn, chẳng những để chiếm được một thế đứng trong xã hội, mà còn giúp cho người khác ‘phát triển’ nữa. Các bạn hãy phát triển các năng lực của mình, không phải để ‘ganh đua’ hơn và ‘thu hoạch’ hơn, mà là để trở thành ‘những chứng nhân của đức bác ái’. Ngoài việc huấn luyện về nghề nghiệp chuyên môn, các bạn cũng hãy nỗ lực có được một thứ kiến thưc về đạo giúp cho các bạn thi hành sứ vụ của các bạn một cách hữu trách. Tôi đặc biệt mời các bạn hãy cẩn thận học hỏi giáo huấn về xã hội của Giáo Hội, nhờ đó những nguyên tắc của giáo huấn này tác động và hướng dẫn hành động của các bạn trong thế giới này. Chớ gì Chúa Thánh Thần làm cho các bạn trở nên sáng tạo trong đức ái, kiên trì trong những quyết tâm của các bạn, và can đảm theo đuổi những sáng kiến của các bạn, nhờ đó các bạn có thể góp phần vào việc xây dựng ‘nền văn minh yêu thương’. Chân trời yêu thương thực sự là vô hạn; nó là tất cả thế giới này vậy!
‘Dám yêu thương’ theo gương của các thánh nhân
Các bạn trẻ thân mến, tôi muốn mời gọi các bạn hãy ‘dám yêu thương’. Các bạn đừng mong muốn bất cứ một cái gì khác cho đời sống của các bạn mà không phải là một thứ tình yêu mạnh mẽ và tuyệt vời, có thể làm cho cả đời sống của các bạn trở thành một cuộc hân hoan trao tặng bản thân mình cho Thiên Chúa cũng như cho anh chị em của các bạn, theo gương của Đấng đã muôn đời chiến thắng hận thù và chết chóc bằng tình yêu thương (x Rev 5:13). Tình yêu là năng lực duy nhất có thể biến đổi tâm can của con người cũng như của toàn thể nhân loại, bằng việc làm cho sinh hoa kết trái các mối liên hệ giữa con người nam nữ, giữa giầu nghèo, giữa các nền văn hóa và văn minh. Chúng ta thấy được điều này nơi đời sống của các thánh nhân. Họ là những người bạn đích thực của Thiên Chúa, thành phần chuyển đạt và phản ảnh chính tình yêu đệ nhất này. Các bạn hãy cố gắng hiểu biết các vị hơn nữa, hãy tin tưởng vào lời chuyển cầu của các vị, và hãy nỗ lực sống như các vị đã sống. Tôi chỉ cần đề cập tới Mẹ Têrêsa. Để đáp lại tức khắc tiếng kêu của Chúa Giêsu, ‘Tôi khát’, một tiếng kêu đã sâu xa tác động mẹ, mẹ bắt đầu thực hiện việc tiếp nhận những người hấp hối trên các đường phố ở Calcutta Ấn Độ. Từ đó trở đi, ước vọng duy nhất của đời sống Mẹ đó là làm giãn cơn khát yêu thương của Chúa Giêsu, không phải bằng lời nói mà bằng hành động cụ thể, bằng việc nhận ra dung nhan biến dạng của Người đang khao khát yêu thương trên các khuôn mặt của những người nghèo nhất trong các người nghèo. Chân Phước Têrêsa làm cho các giáo huấn của Chúa Kitô trở thành những gì là thực tế: ‘Khi con làm điều ấy cho một trong kẻ hèn mọn nhất trong những người thuộc phần tử gia đình của Ta đây là con làm cho Ta vậy’ (Mt 25:40). Sứ điệp của vị chứng nhân khiêm hạ này của tình yêu thần linh đã lan tràn khắp nơi trên thế giới.
Cái bí mật của tình yêu thương
Các bạn thân mến, mỗi một người trong chúng ta đã được ban cho khả năng để đạt tới cùng một mức độ yêu thương ấy, thế nhưng chỉ khi nào chúng ta biết chạy đến với sự nâng đỡ bất khả thiếu của Ân Sủng thần linh mà thôi. Chỉ có ơn trợ giúp của Chúa mới giúp cho chúng ta có thể không lùi bước khi phải đối đầu với những gì là khủng khiếp nơi công việc cần phải thực hiện. Nó làm cho chúng ta trở nên can đảm để hoàn thành những gì con người không ngờ nổi. Đặc biệt Thánh Thể là một đại học đường dạy yêu thương. Khi chúng ta thường xuyên sốt sắng tham dự Thánh Lễ, khi chúng ta bỏ một giờ khắc có thể nào đó để chầu Chúa Giêsu hiện diện trong Thánh Thể, chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được chiều dài, chiều rộng, chiều cao và chiều sâu của tình yêu Người vượt trên tất cả mọi hiểu biết (x Eph 3:17-18). Nhờ việc chia sẻ Bánh Thánh Thể với anh chị em của mình trong cộng đồng Giáo Hội, chúng ta cảm thấy được thôi thúc, như Đức Mẹ đối với bà Isave, trong việc ‘vội vã’ biến tình yêu của Chúa Kitô thành việc quảng đại phục vụ đối với anh chị em của chúng ta.
Hướng tới cuộc hội ngộ ở Sydney
Vấn đề này được sáng tỏ nơi lời khuyến dụ của tông đồ Gioan: ‘Hỡi các con nhỏ, chúng ta hãy yêu thương, không phải bằng ngôn từ hay lời nói, mà trong chân lý và hành động. Có thế chúng ta mới nhận biết rằng chúng ta sống bởi sự thật’ (1Jn 3:18-19). Giới trẻ thân mến, trong tinh thần này, tôi mời gọi các bạn hãy cảm nghiệm Ngày Giới Trẻ Thế Giới tới đây với các vị giám mục của các bạn nơi giáo phận riêng của mình. Việc làm này sẽ là giai đoạn quan trọng trên con đường tiến đến cuộc gặp gỡ ở Sydney là cuộc gặp gỡ với chủ đề ‘Các con sẽ lãnh nhận quyền lực khi Thánh Thần xuống trên các con; và các con sẽ là những chứng nhân của Thày’ (Acts 1:8). Chớ gì Mẹ Maria, Mẹ Chúa Kitô và Mẹ Giáo Hội, giúp anh chị em vang lên khắp mọi nơi tiếng kêu làm biến đổi thế giới, tiếng kêu ‘Thiên Chúa là tình yêu!’ Tôi nguyện cầu cùng với tất cả anh chị em và gửi đến anh chị em phép lành chân thành của tôi.
Tại Vatican ngày 27/1/2007
Giáo Hoàng Biển Đức XVI
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh
VẤN ĐÁP VỚI GIỚI TRẺ TRƯỚC NGÀY GIỚI TRẺ THẾ GIỚI 9/4/2006
Năm câu vấn đáp giữa giới trẻ và Giáo Hoàng Biển Đức XVI ngày Thứ Năm 6/4/2006 tại Quảng Trường Thánh Phêrô dịp sửa soạn cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới XXI 9/4 ở Giáo Phận Địa Phương
Theo chiều hướng đi sâu vào lòng người bằng việc đối thoại với moị thành phần dân Chúa, chẳng hạn vào ngày 15/10/2005 ở Quảng Trường Thánh Phêrô với 7 em trong thành phần thiếu nhi rước lễ lần đầu trong năm đó, hay với 5 vị linh mục thuộc hàng giáo sĩ Giáo Phận Rôma ngày 2/3/2006 tại Sảnh Đường Phúc Đức, Giáo Hoàng Biển Đức XVI, một thần học gia kiêm giáo sư thần học lâu năm, đã tiếp tục chiều hướng này với giới trẻ vào ngày Thứ Năm 6/4/2006 tại Quảng Trường Thánh Phêrô nhân dịp sửa soạn cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới XXI (Chúa Nhật Lễ Lá 9/4) ở Giáo Phận Địa Phương. Sau đây là 5 câu vấn đáp giữa ngài và giới trẻ.
Vấn 1: Tâu Đức Thánh Cha, tên con là Simone và con thuộc Giáo Xứ Thánh Bathômêô. Con năm nay 21 tuổi và đang học ngành kỹ sư hóa học ở Đại Học La Sapienza Rôma.
Trước hết, con xin cám ơn Đức Thánh Cha về việc Đức Thánh Cha nói với chúng con sứ điệp cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới XXI về đề tài lời Chúa sáng soi đường đi nước bước của nhân loại qua cuộc đời.
Trước những lo âu và bất định về tương lai, thậm chí chỉ nguyên việc con đang phải vật lộn với nhịp sống hằng ngày, con cũng cảm thấy nhu cầu cần phải được nuôi dưỡng bởi lời Chúa và cần phải nhận biết Chúa Kitô hơn, nhờ đó mới có thể tìm thấy những giải đáp cho những vấn nạn của con.
Con thường tự hỏi Chúa Giêsu sẽ làm gì ở vào trường hợp của con, thế nhưng con vẫn không thể nào hiểu được những gì Thánh Kinh muốn nói với con. Ngoài ra, con biết rằng các cuốn sách Thánh Kinh được viết bởi thành phần khác nhau thuộc các thời đại khác nhau, dù sao cũng rất cách xa con. Vậy thì làm sao con có thể hiểu được rằng những gì con đọc tuy nhiên cũng là lời Chúa, lời đặt vấn đề với cuộc sống của con? Con xim cám ơn Đức Thánh Cha.
Đáp:
Để bắt đầu, cha sẽ trả lời bằng việc nhấn mạnh đến điểm thứ nhất: Trước hết cần
phải nói rằng người ta không được đọc Thánh Kinh như đọc bất cứ một loại sách
lịch sử nào, chẳng hạn như của Homer, Ovid hay Horace; thật sự cần phải đọc
Thánh Kinh như lời Chúa, tức là tiến tới việc đàm thoại với Chúa.
Người ta cần phải bắt đầu bằng việc cầu nguyện và nói cùng Chúa rằng: “Xin hãy mở cửa cho con”. Và những gì được Thánh Âu Quốc Tinh thường nói trong các bài giảng của ngài: “Con gõ cửa lời để cuối cùng tìm thấy những gì Chúa muốn nói với con”, đối với tôi, dường như là một vấn đề rất quan trọng. Người ta không được đọc Thánh Kinh một cách học thức, mà bằng việc nguyện cầu, thân thưa cùng Chúa rằng: “Xin hãy giúp con hiểu được lời Chúa, hiểu được những gì Chúa muốn nói với con ở đoạn này”.
Điểm thứ hai đó là: Thánh Kinh là những gì dẫn con người đến chỗ hiệp thông với gia đình của Thiên Chúa. Bởi thế, người ta không được đọc Sách Thánh một mình. Dĩ nhiên là bao giờ cũng cần phải đọc Thánh Kinh một cách riêng tư, bằng cuộc đối thoại riêng tư với Chúa; thế nhưng đồng thời cũng cần phải đọc Thánh Kinh theo nhóm là nơi chúng ta có thể tiến triển nhờ sự giúp đỡ của các vị đại sư phụ về “việc đọc sách thánh – lectio divina”.
Chẳng hạn chúng ta có nhiều cuốn sách hay của Đức Hồng Y Martini, một bậc sư phụ thực sự của “việc đọc sách thánh”, vị giúp chúng ta tiến vào sự sống của Thánh Kinh. Tuy nhiên, ai là người hoàn toàn thông thuộc tất cả mọi trạng huống lịch sử, tất cả mọi yếu tố đặc biệt trong quá khứ thì cũng luôn cởi mở để chứng tỏ rằng những lời có vể thuộc về quá khứ cũng là những lời của hiện tại.
Những vị sư phụ này giúp chúng ta hiểu hơn cũng như học cách để làm sao giải thích Thánh Kinh một cách thích đáng. Ngoài ra, nói chung cũng thích hợp thực hiện việc đọc Thánh Kinh với bạn bè là thành phần cùng tiến bước với tôi, thành phần đang cùng với tôi kiếm cách để có thể sống với Chúa Kitô, để tìm thấy một sự sống tuyệt vời do lời Chúa mang lại cho chúng ta.
Điểm thứ ba đó là: Nếu cần phải đọc Thánh Kinh với sự hỗ trợ của các bậc thày và cùng với bạn bè, thành phần cùng tiến bước, thì cũng đặc biệt cần phải đọc Thánh Kinh trong đại cộng đồng dân Chúa lữ hành, tức là trong Giáo Hội.
Thánh Kinh có hai chủ thể. Trước hết và trên hết là chủ thể thần linh đó chính là Thiên Chúa, Đấng phán dạy. Tuy nhiên, Thiên Chúa muốn con người tham dự vào lời của Ngài. Trong khi những người Hồi Giáo tin rằng Sách Kinh Koran được Thiên Chúa linh ứng bằng lời nói, thì chúng ta lại tin rằng, Thánh Kinh – như các thần học gia nói – có tính chất “synergy”, tức là tính chất hợp tác giữa Thiên Chúa và con người.
Thiên Chúa muốn con người tham dự vào lời của Ngài mà chủ thể thứ hai là con người – chủ thể thứ nhất như tôi đã nói là Thiên Chúa. Có những cá vị trước tác, thế nhưng vẫn có sự liên tục về một chủ thể thường hằng – đó là dân Chúa là thành phần tiếp tục cuộc hành trình bằng lời Chúa và bằng việc đàm đạo với Chúa. Nhờ việc lắng nghe Chúa, người ta biết lắng nghe lời Chúa để rồi cũng biết dẫn giải lời Chúa.
Như thế, lời Chúa trở thành hiện tại, vì những ngôi vị cá thể qua đi nhưng chủ thể sống động là dân Chúa vẫn luôn sống còn và là một chủ thể trải qua các thiên kỷ: Lời Chúa bao giờ cũng sống trong cùng một chủ thể sống động.
Điều này cũng cho thấy được nhiều cấu trúc của Thánh Kinh, nhất là của việc được gọi là đọc lại Thánh Kinh. Một cuốn sách cổ thời được đọc lại nơi một cuốn sách khác, chẳng hạn viết 100 năm sau đó, và những gì đã không thể nào hiểu được vào thời điểm xa xưa ấy, cho dù chúng đã được chất chứa nơi cuốn sách trước đó, đã hiểu được một cách sâu xa.
Và chính việc đọc lại, đọc lại sau các thời đại, mà một lần nữa, thấu hiểu được những khía cạnh khác, những chiều kích khác của lời Chúa. Bởi vậy mà Thánh Kinh đã tiến triển, nơi việc mãi mãi đọc lại và viết lại theo chiều hướng liên tục sâu xa, theo một tiến trình liên tục của các thời điểm đợi trông.
Cuối cùng, với việc Chúa Kitô xuất hiện và cảm nghiệm của các vị tông đồ, lời Chúa trở thành vĩnh viễn. Do đó, không còn viết lại Thánh Kinh hơn được nữa, nhưng vẫn cần đến việc chúng ta tiếp tục hiểu biết sâu xa hơn. Chúa Kitô đã phán: “Thánh Thần sẽ dẫn chúng con vào những tầng sâu thẳm mà giờ đây các con không thể nào dò thấu”.
Như thế, mối hiệp thông của Giáo Hội là chủ thể sống động của Thánh Kinh. Tuy nhiên, cả ở đây nữa, chủ thể chính vẫn là chính Chúa, Đấng tiếp tục phán dạy qua Thánh Kinh là cuốn sách chúng ta đang có trong tay.
Tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải học biết thực hiện ba điều sau đây: đó là việc đọc Thánh Kinh một cách đàm thoại tư riêng với Chúa; đọc Thánh Kinh theo sự hướng dẫn của các bậc thày có kinh nghiệm về đức tin, thành phần thấu đáo Thánh Kinh, và đọc Thánh Kinh với đại gia đình Giáo Hội là nơi phụng vụ không thôi hiện hữu hóa những biến cố và là nơi Chúa nói với chúng ta hôm nay đây.
Nhờ đó chúng ta mới từ từ tiến sâu hơn nữa vào Thánh Kinh là nơi Thiên Chúa thực sự nói với chúng ta hôm nay đây.
Vấn 2:
Tâu Đức Thánh Cha, tên con là Anna. Con 19 tuổi, con đang theo học văn chương,
và con thuộc về Giáo Xứ Thánh Maria Camêlô.
Một trong những vấn đề chúng con thường phải đối diện đó là làm sao để giải quyết các vấn đề về cảm xúc. Chúng con thường thấy yêu thương là cái gì khó khăn. Phải, nó là vấn đề khó khăn: Bởi vì nó dễ bị lẫn lộn yêu thương với vị kỷ, nhất là ngày nay khi mà hầu hết truyền thông đại chúng áp đặt trên chúng ta một thứ nhãn quan duy cá nhân và tục hóa về dục tính, một nhãn quan nhìn mọi sự đều hợp pháp và mọi sự đều được phép làm, nhân danh tự do và lương tâm cá nhân con người.
Gia đình được xây dựng trên hôn nhân giờ đây dường như là một cái gì đó do Giáo Hội sáng chế ra, chưa nói đến những liên hệ tiền hôn là những gì bị cấm đoán mà đối với nhiều người trong tín hữu chúng con khó có thể hiểu được hay bị lỗi thời rồi vậy.
Nhận thức rõ là rất nhiều người trong chúng con đang cố gắng sống cuộc sống tình cảm một cách hữu trách, Đức Thánh Cha có thể nào giải thích cho chúng con những gì Lời Chúa đã nói với chúng ta về vấn đề này chăng? Con xin cám ơn Đức Thánh Cha.
Đáp:
Đây là một câu hỏi bao rộng, chắc chắn không thể trả lời cho nó trong vòng mất
phút đồng hồ, thế nhưng tôi sẽ cố gắng nói mấy lời.
Chính bản thân của Anna đã cống hiến cho chúng ta một số những câu hỏi. Cô nói rằng ngày nay yêu thương thường được hiểu sai vì nó được trình bày cho thấy như là một cảm nghiệm vị kỷ, trong khi đó nó thực sự là một bỏ mình, nhờ đó trở thành một việc khám phá thấy bản thân mình.
Cô còn nói rằng thứ văn hóa hưởng thụ làm cho đời sống của chúng ta bị sai lạc bởi tương đối chủ nghĩa là những gì dường như ban cho chúng ta hết mọi sự thế nhưng thật ra lại làm cho chúng ta hoàn toàn bị cạn kiệt.
Bởi vậy chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa về vấn đề này. Anna có lý để muốn biết những gì lời Chúa phán dạy. Đối với tôi thật là tuyệt vời khi nhận thấy rằng ngay ở những trang đầu tiên của Thánh Kinh, sau trình thuật về việc con người được tạo dựng nên, chúng ta thấy ngay được ý nghĩa của yêu thương và của hôn nhân.
Tác giả sách thánh nói với chúng ta rằng: “Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mình mà gắn bó với vợ mình, và họ sẽ trở nên một xác thịt”, một đời sống (x Gen 2:24-25). Chúng ta được mở màn cho thấy và được cống hiến cho thấy một lời báo trước về ý nghĩa của hôn nhân; và ý nghĩa này vẫn còn nguyên như thế ở trong Tân Ước.
Hôn nhân là việc yêu thương theo người khác, nhờ đó trở nên một cuộc sống duy nhất, một xác thịt suy nhất, nên là những gì bất khả phân ly; một đời sống mới được xuất phát từ mối hiệp thông yêu thương này, mối hiệp thông liên kết và bởi đó cũng tạo nên tương lai.
Các thần học gia thời trung cổ, khi cắt nghĩa việc khẳng định được thấy nơi những trang đầu tiên của Thánh Kinh ấy, đã nói rằng hôn nhân là bí tích đầu tiên trong 7 bí tích đã được Thiên Chúa thiết lập vào lúc tạo thành, trong vườn địa đường, khi lịch sử mở màn và trước cả lịch sử của nhân loại nữa.
Nó là một bí tích của Đấng Tạo Thành vũ trụ; bởi thế, nó được ghi khắc nơi chính hữu thể con người, thành phần hướng chiều về cuộc hành trình này, một cuộc hành trình mà người nam bỏ cha mẹ để nên một với một người nữ hầu trở thành một xác thịt duy nhất, nhờ đó cả hai sống một cuộc sống duy nhất.
Do đó bí tích hôn nhân không phải là một sáng kiến của Giáo Hội; nó thực sự là những gì “được đồng sáng tạo nên” với con người, như là một thứ hoa trái của năng lực yêu thương, một năng lực làm cho con người nam nữ tìm thấy chính bản thân mình, nhờ đó làm cho họ thấy cả được Đấng Hóa Công là Vị đã kêu gọi họ yêu thương.
Thật sự là con người đã sa ngã và bị đuổi ra khỏi vườn địa đường, hay nói cách khác, nói một cách tân tiến hơn, thật sự là tất cả mọi nền văn hóa đều bị ô nhiễm bởi tội lỗi, bởi những lỗi lầm của loài người trong lịch sử, và thật sự là dự án nguyên thủy được ghi khắc nơi bản tính của chúng ta vì thế đã bị mờ ám đi. Đúng thế, chúng ta thấy nơi các nền văn hóa của con người cái mờ ám này bao phủ dự án nguyên thủy của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, nếu đồng thời chúng ta nhìn vào các nền văn hóa, nhìn vào toàn bộ lịch sử văn hóa của nhân loại, chúng ta nhận thấy rằng con người chưa bao giờ hoàn toàn quên được dự án ấy, một dự án hiện diện thẳm sâu nơi hữu thể của họ. Ở một nghĩa nào đó, họ luôn biết rằng các hình thức khác của mối liên hệ nam nữ không thực sự xứng hợp với dự án nguyên thủy giành cho hữu thể của họ.
Do đó mà nơi các nền văn hóa, nhất là các nền văn hóa lớn, chúng ta thấy đi thấy lại là chúng hướng về thực tại này, đó là thực tại một vợ một chồng, thực tại người nam làm chồng ấy và người nữ làm vợ ấy trở nên một xác thịt.
Đó là cách thức làm thế nào để một tân thế hệ có thể phát triển một cách trung thực, làm thế nào để một truyền thống văn hóa có thể bền vững, liên tục cải tiến chính mình và đạt được tình trạng thực sự tiến bộ.
Chúa Kitô, Đấng đã nói về điều này bằng các ngôn từ của những vị tiên tri trong dân Yến Duyên, khi nói về việc Moisen là người đã cho phép ly dị, đã phán rằng Moisen cho phép các người ly dị “vì sự cứng lòng của các người”. Sau nguyên tội, cõi lòng trở nên “cứng cỏi”, thế nhưng đó không phải là những gì Đấng Hóa Công đã dự tính, và các vị tiên tri đã nhấn mạnh càng lúc càng sáng tỏ hơn đến dự án nguyên thủy này.
Để canh tân lại con người, Chúa Kitô – khi ám chỉ tới những tiếng nói của các vị tiên tri luôn hướng dẫn Yến Duyên hướng tới chỗ sáng tỏ về tình trạng đơn hôn – đã cùng với tiên tri Êzêkiên nhìn nhận rằng, để sống ơn gọi ấy, chúng ta cần phải có một con tim mới; thay cho con tim bằng đá – như tiên tri Êzêkiên nói – chúng ta cần một con tim bằng thịt, một con tim thực sự loài người.
Và Chúa Kitô đã “cấy” trái tim mới này nơi chúng ta khi chúng ta tin tưởng lãnh nhận phép rửa. Đây không phải là một thứ cấy ghép về thể lý, song chúng ta có thể sử dụng việc so sánh này. Sau cuộc cấy ghép, sinh vật ấy cần phải được trị liệu, cần phải có những thứ thuốc men thiết yếu để có thể sống với con tim mới này, nhờ đó nó trở nên “con tim riêng của con người” chứ không phải là “con tim của người khác”.
Điều này cũng đặc biệt xẩy ra nơi “việc cấy ghép thiêng liêng” khi Chúa Kitô cấy nơi chúng ta một con tim mới, một con tim hướng về Đấng Hóa Công, cởi mở trước ơn gọi của Thiên Chúa. Để có thể sống với con tim mới mẻ này cần phải được trị liệu đầy đủ; người ta cần phải sử dụng những loại thuốc men thích hợp để nó có thể trở nên thực sự là “con tim của chúng ta”.
Bởi thế, nhờ việc sống hiệp thông với Chúa Kitô, với Giáo Hội của Người, con tim mới ấy thực sự trở thành “con tim riêng của chúng ta” và làm cho hôn nhân trở thành khả dĩ. Tình yêu thương độc chiếm giữa một con người nam và một con người nữ này, đời sống như vợ chồng của họ theo dự án của Đấng Hóa Công, trở thành khả thể, cho dù bầu khí của thế giới chúng ta đây làm cho nó trở thành khó khăn tới độ dường như bất khả.
Chúa Kitô ban cho chúng ta một con tim mới và chúng ta cần phải sống với con tim mới này, bằng cách sử dụng những trị liệu thích hợp để bảo đảm rằng nó thực sự là “của riêng chúng ta”. Có thế chúng ta mới có thể sống với tất cả những gì Đấng Hóa Công ban cho chúng ta và nhờ đó mới tạo nên được một đời sống hạnh phúc đích thực.
Quả thực chúng ta cũng có thể thấy được nó trên thế giới này, bất kể có nhiều kiểu sống khác: Có rất nhiều gia đình Kitgô hữu sống trung thành và hân hoan cuộc đời và tình yêu được Đấng Hóa Công chỉ định cho chúng ta, nhờ đó mà một tân nhân loại đang được phát triển.
Sau hết, tôi muốn nói thêm là tất cả chúng ta đều biết rằng để đạt tới đích điểm ở một môn thể thao hay nơi ngành nghề nào của mình, thì cần phải có kỷ cương và hy sinh; thế nhưng, nhờ đạt tới đích điểm ước mong, mà hoàn toàn được công thành danh toại.
Chính sự sống cũng như thế. Nói cách khác, việc trở thành con người nam nữ theo ý muốn của Chúa Giêsu là việc đòi phải hy sinh, thế nhưng những hy sinh ấy hoàn toàn không phải là những gì tiêu cực; trái lại, chúng là một thứ trợ giúp để sống như một con người có quả tim mới, sống một con người thực sự và sống một cuộc đời hạnh phúc.
Vì thứ văn hóa hưởng thụ hiện hữu là để ngăn cản chúng ta sống theo dự án của Đấng Hóa Công mà chúng ta cần phải tỏ ra can trường trong việc tạo nên những hải đảo, những ốc đảo, rồi những vươn dài trải rộng mảnh đất văn hóa Công Giáo là thứ văn hóa sống trọn dự án của Đấng Hóa Công.
Vấn 3: Tâu Đức Thánh Cha, con tên là Inelida. Con 17 tuổi, là một phụ tá của trưởng Hướng Đạo ở giáo xứ Thánh Grêgôriô Barberigo, và con đang theo học trường nghệ thuật đệ nhị cấp Mario Mafai năm cuối cùng.
Trong sứ điệp gửi cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới XXI Đức Thánh Cha đã nói rằng: “Cần phải cấp tốc có được một thế hệ tông đồ mới sống sâu xa chặt chẽ vào Lời Chúa Kitô” [L'Osservatore Romano English edition, March 1, 2006, p. 3]. Đây là những lời mãnh liệt và gắt gao đến nỗi chúng hầu như làm cho chúng con hoảng sợ.
Dĩ nhiên là chúng con muốn trở thành những tân tông đồ, thế nhưng Đức Thánh Cha có thể giải thích cho chúng con biết chi tiết hơn nữa những gì Đức Thánh Cha nghĩ rằng là những thách đố cả thể nhất cần phải đương đầu trong thời đại của chúng ta đây, và Đức Thánh Cha nghĩ thành phần tân tông đồ này cần phải là thành phần như thế nào? Nói cách khác, Chúa Kitô mong muốn gì nơi chúng con?
Đáp: Tất cả chúng ta đều tự hỏi mình rằng Chúa Kitô mong muốn gì nơi chúng ta. Đối với tôi, thách đố lớn của thời đại chúng ta đây – những gì các vị giám mục viếng thăm Tòa Thánh ngũ niên nói với tôi, những vị ở Phi Châu chẳng hạn – đó là tình trạng tục hóa: tức là một lối sống và hiện hữu trên thế gian này như ‘si Deus non daretur’, tức như thể Thiên Chúa không hiện hữu.
Người ta muốn biến Thiên Chúa trở thành những gì thuộc về lãnh vực riêng tư, thuộc về lãnh vực tình cảm, như thể Ngài không phải là một thự ctại khách quan. Nhớ đó, mọi người đều hoạch định cuộc sống cho riêng mình. Thế nhưng, nhãn quan này, hiện lên như là những gì có tính cách khoa học, chỉ chấp nhận những gì có thể chứng minh được mới có giá trị mà thôi.
Trước một Vị Thiên Chúa không thuận lợi cho cuộc trực tiếp thí nghiệm, thì nhãn quan này đi đến chỗ cũng làm tổn hại tới cả xã hội nữa. Thật vậy, hậu quả đó là mỗi người thực hiện dự án riêng của mình để rồi cuối cùng cảm thấy mình tương phản với người khác. Như chúng ta đã có thể thấy được, thì đây là một tình trạng hoàn toàn không thể nào tồn tại nổi.
Chúng ta cần phải làm cho Thiên Chúa tái hiện diện nơi xã hội của chúng ta. Đối với tôi thì điều này như là yếu tố thiết yếu đệ nhất: đó là Thiên Chúa cần phải tái hiện diện trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta không được sống như thể chúng ta là thành phần biệt lập có quyền sáng tạo nên những gì là tự do và sự sống. Chúng ta cần phải nhìn nhận rằng chúng ta là loài tạo vật, ý thức rằng có một Vị Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng nên chúng ta và việc sống theo ý muốn của Ngài không phải là lệ thuộc mà là một tặng ân yêu thương làm cho chúng ta tồn tại.
Bởi thế, vấn đề thứ nhất đó là nhận biết Thiên Chúa, là biết Ngài mỗi ngày một hơn, ý thức rằng Thiên Chúa ở trong đời sống của tôi, và Thiên Chúa có chỗ của Ngài ở đó.
Vấn đề thứ hai đó là – nếu chúng ta nhìn nhận rằng có một Vị Thiên Chúa, tự do của chúng ta là một tự do chung đụng với người khác và do đó cần phải có một giới hạn chung để xây dựng một thực tại chung – thì vấn đề thứ hai tôi đang nói tới ở đây cho thấy vấn đề Vị Thiên Chúa nào đây? Thật thế, có rất nhiều hình ảnh sai lầm về Thiên Chúa, một vị Thiên Chúa bạo động chẳng hạn v.v.
Do đó, vấn đề thứ hai đó là vấn đề nhìn nhận Vị Thiên Chúa là Đấng đã tỏ dung nhan của Ngài cho chúng ta thấy nơi Đức Giêsu, Vị đã chịu khổ vì chúng ta, Vị đã yêu thương chúng ta cho tới chết, nhờ dó đã khống chế bạo lực. Trước hết cần phải làm cho Vị Thiên Chúa sống động này hiện diện trong đời sống “riêng” của chúng ta, Vị Thiên Chúa này không phải là một kẻ xa lạ, là một Thiên Chúa hư cấu, một Vị Thiên Chúa được nghĩ ra, mà là một Vị Thiên Chúa tự tỏ mình ra, Đấng đã tỏ hữu thể và dung nhan của mình ra.
Chỉ có thế, đời sống của chúng ta mới trở nên nhân bản thực sự, trở nên nhân bản đích thực; nhờ đó xã hội mới có được một qui chuẩn cho một nền nhân bản chân thực.
Cả ở đây nữa, như tôi đã nói trong câu giải đáp đầu tiên, thật sự chúng ta không thể một mình xây dựng cuộc đời chính đáng và chính trực này mà không cần phải thực hiện cuộc hành trình với nhóm bạn tốt lành chính trực, thành phần bạn hữu cùng chúng ta cảm nghiệm rằng Thiên Chúa là Đấng hiện hữu và việctiến bước với Ngài thật là tuyệt vời; cùng với việc tiến bước với đại cộng đồng Giáo Hội là cộng đồng qua các thế kỷ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng đang nói với chúng ta, là Đấng đang tác động và là Đấng hỗ trợ chúng ta.
Bởi thế tôi muốn nói rằng việc gặp gỡ Thiên Chúa, gặp gỡ Vị Thiên Chúa tỏ mình nơi Đức Giêsu Kitô, việc tiến bước với đại gia đình của Ngài, với những người anh chị em của chúng ta thuộc về gia đình của Thiên Chúa, đối với tôi, là những gì thiết yếu cho thành phần tân tông đồ được tôi nói tới vậy.
Vấn 4: Tâu Đức Thánh Cha, con tên là Vittorio, con thuộc Giáo Xứ Thánh Gioan Bosco ở Cinecittà. Con 20 tuổi và đang theo học ngành giáo dục ở Đại Học Tor Vergata.
Trong sứ điệp của Đức Thánh Cha cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới XXI, một lần nữa, Đức Thánh Cha mời gọi chúng con đừng sợ đáp lại Chúa một cách quảng đại, nhất là khi Người gợi ý muốn chúng con theo Người sống đời tận hiến hay linh mục. Đức Thánh Cha nói với chúng con rằng nếu chúng con không sợ hãi, nếu chúng con tin tưởng nơi Người, thì chúng con sẽ không bị lừa đảo.
Con tin rằng nhiều người trong chúng con, ở nơi đây hay trong số những ai đang ở nhà theo dõi chúng ta buổi tối hôm nay trên truyền hình, đang nghĩ về việc theo Chúa Giêsu sống đời đặc biệt tận hiến, thế nhưng không phải lúc nào cũng dễ dàng hiểu được đó có phải là con đường ngay chính hay chăng.
Đức Thánh Cha có thể nói cho chúng con biết chính Đức Thánh Cha đã tiến đến chỗ hiểu được ơn gọi của Đức Thánh Cha hay chăng? Đức Thánh Cha có thể ban cho chúng con lời khuyên dụ để chúng con có thể thực sự hiểu được rằng Chúa Kitô đang gọi chúng con theo Người để sống đời tận hiến hay linh mục hay chăng? Con xin cám ơn Đức Thánh Cha.
Đáp:
Đối với trường hợp của tôi, tôi đã lớn lên ở một thế giới rất khác với thế giới
ngày nay, nhưng cuối cùng thì tình trạng lại giống như nhau.
Một mặt thì tình trạng “Kitô Giáo” vẫn còn đó, vẫn còn được đến nhà thờ như thường và chấp nhận đức tin theo như Thiên Chúa mạc khải, và cố gắng sống theo mạc khải của Ngài; đàng khác lại có chế độ Nazi lớn tiếng tuyên bố rằng: “Ở tân Đức quốc này không còn vấn đề linh mục, không còn vấn đề sống đời tận hiến, chúng ta không cần đến những thành phần ấy; hãy tìm kiếm một nghề nghiệp khác”.
Tuy nhiên, chính vì nghe thấy những tiếng “la lối” ấy, đối diện với cảnh tàn ác của chế độ ấy với một gương mặt phi nhân, mà tôi đã nhận ra rằng lại càng cần phải có các vị linh mục.
Cái tương phản ấy, việc chứng kiến thấy thứ văn hóa phản nhân bản ấy, đã củng cố niềm xác tín của tôi là Chúa Kitô, Phúc Âm và đức tin mới chỉ cho thấy con đường ngay chính, và chúng ta buộc phải dấn thân bảo đảm để còn đường này được tồn tại. Trong trường hợp như thế, ơn gọi làm linh mục tăng tiến nơi tôi, hầu như là tự nhiên, không hề xẩy ra một biến cố hoán cải thảm thiết nào.
Còn hai điều khác cũng đã giúp tôi trong cuộc hành trình này, ở chỗ, là một đứa con trai, được cha mẹ và linh mục coi xứ giúp đỡ, tôi đã khám phá ra vẻ đẹp của phụng vụ, và tôi tiến đến chỗ yêu chuộng phụng vụ mỗi ngày một hơn, vì tôi cảm thấy rằng vẻ đẹp thần linh tỏ hiện nơi phụng vụ và trời cao mở ra trước mắt chúng ta.
Yếu tố thứ hai là việc khám phá ra vẻ đẹp của kiến thức, của việc hiểu biết Thiên Chúa và Thánh Kinh, nhờ đó mới có thể tiến vào cuộc phiêu lưu cả thể của việc đối thoại với Thiên Chúa đó là thần học. Bởi vậy, thật là niềm vui khi tiến vào công cuộc thần học cả ngàn năm này, tham dự vào việc cử hành phụng vụ này là việc trong đó Thiên Chúa ở với chúng ta và cử hành với chúng ta.
Dĩ nhiên, cũng không phải là không có vấn đề. Tôi đã tự hỏi rằng tôi thực sự có thể sống độc thân suốt đời của mình được chăng. Là một con người được đào luyện về lý thuyết chứ không phải thực hành, tôi cũng biết rằng việc yêu chuộng thần học vẫn chưa đủ để trở thành một vị linh mục tốt lành, song còn cần phải luôn trở nên thuận lợi cho giới trẻ, cho người già, cho bệnh nhân và cho người nghèo, tức nhu cầu cần phải trở thành giản dị với thành phần đơn thành.
Thần học là những gì đẹp đẽ thật, nhưng tính chất đơn thành nơi ngôn từ và đời sống Kitô hữu là những gì bất khả châm chước. Bởi vậy mà tôi đã tự hỏi mình rằng: Liệu tôi có thể sống tất cả những điều ấy hay chăng, chứ không chỉ sống một chiều, thuần túy là một thần học gia v.v.?
Tuy nhiên, Chúa Kitô đã giúp tôi và thành phần bạn hữu, trong đó đặc biệt có các vị linh mục và thày dạy tốt lành đã giúp đỡ tôi.
Trở về với câu hỏi, tôi nghĩ cần phải chú ý tới những cử chỉ của Chúa nơi cuộc hành trình của chúng ta. Người nói với chúng ta qua các biến cố, qua con người, qua các cuộc gặp gỡ: Cần phải chú ý tới tất cả những điều ấy.
Thế rồi, vấn đề thứ hai đó là cần phải tiến vào cuộc thân tình thật sự với Chúa Giêsu bằng mối liên hệ riêng tư với Người, chứ không phải chỉ biết Chúa Giêsu là ai từ kẻ khác hay từ các thứ sách vở, mà là sống mối liên hệ riêng tư sâu xa hơn với Chúa Giêsu, để có thể bắt đầu hiệu được những gì Người đang muốn ngỏ ý với chúng ta.
Sau đó là việc nhận thức về những gì tôi là, về những khả năng của tôi, ở chỗ, một mặt thì can đảm, mặt khác thì khiêm tốn, tin tưởng và cởi mở, cùng với cả sự giúp đỡ của bạn bè, của thẩm quyền Giáo Hội cũng như của các vị linh mục, của các gia đình: Chúa muốn gì nơi tôi đây?
Dĩ nhiên, đó luôn là một cuộc đại mạo hiểm, thế nhưng cuộc sống chỉ thành công nếu chúng ta can đảm mạo hiểm, tin tưởng rằng Chúa Kitô sẽ không bao giờ để tôi một mình, Chúa Kitô sẽ đi với tôi và giúp đỡ tôi.
Vấn 5: Tâu Đức Thánh Cha, con là Giovanni, con 17 tuổi, con đang theo học ở trường trung học đệ nhị cấp về kỹ thuật và khoa học Giovanni Giorgi Rôma, và con thuộc về Giáo Xứ Thánh Maria Mẹ Tình Thương.
Con xin Đức Thánh Cha giúp chúng con hiểu hơn về cách thức mạc khải thánh kinh và lý thuyết khoa học có thể đồng qui lại trong việc tìm kiếm chân lý.
Chúng con thường được hướng dẫn để cho rằng kiến thức và đức tin là kẻ thù của nhau; kiến thức và kỹ thuật là điều giống nhau; chính nhờ luận lý toán học mà mọi sự được khám phá ra; thế giới này là kết quả của một sự ngẫu nhiên, và nếu toán học không khám phá ra được định lý về Thiên Chúa là vì Thiên Chúa không hiện hữu thế thôi.
Tóm lại, nhất là khi chúng con đang học hỏi đây, không phải bao giờ cũng dễ dàng truy tầm mọi sự trở về với dự án thần linh vốn có nơi thiên nhiên và lịch sử của loài người. Bởi thế mà có những lúc đức tin bị chao đảo hay biến thành một tác động thuần tình cảm vậy thôi.
Tâu Đức Thánh Cha, như tất cả mọi con người trẻ khác, con cũng khao khát sự thật: Thế nhưng làm sao con có thể hòa hợp kiến thức với đức tin đây?
Đáp: Đại khoa học gia Galileo đã nói rằng Thiên Chúa đã viết một cuốn sách về thiên nhiên qua hình thức ngôn ngữ của toán học. Ông tin tưởng rằng Thiên Chúa đã ban cho chúng ta hai cuốn sách, đó là cuốn Thánh Kinh và cuốn thiên nhiên. Và ngôn ngữ của thiên nhiên – theo ông tin tưởng – đó là toán học, bởi thế nó là ngôn ngữ của Thiên Chúa, ngôn ngữ của Đấng Hóa Công.
Giờ đây chúng ta hãy suy nghĩ về bản chất của toán học: Tự mình, nó là một hệ thống trừu tượng, một sáng tạo của tâm linh con người mà bởi thế theo tính cách tinh tuyền của mình nó không hiện hữu. Nó bao giờ cũng hầu như chính xác, nhưng nhờ đó mới là một hệ thống của lý trí, một sáng chế lớn lao khéo léo của tâm linh con người.
Điều lạ
lùng ở đây là cái sáng chế này của lý trí con người thực sự lại là chiếc chìa
khóa then chốt để hiểu biết thiên nhiên, một thiên nhiên thực sự được cấu trúc
theo đường lối toán học, và toán học của chúng ta, thứ toán học được trí khôn
nhân loại sáng chế ra, thực sự là dụng cụ để làm việc với thiên nhiên, trong
việc dùng nó để phục vụ chúng ta, trong việc sử dụng nó bằng kỹ thuật.
Đối với tôi hầu như không thể nào tin nổi là một sáng chế của trí khôn con người lại ăn khớp với cấu trúc của vũ trụ. Toán học, cái chúng ta sáng chế ra, thật sự cống hiến cho chúng ta cách thức để có thể tiến tới với thiên nhiên trong vũ trụ và làm cho chúng ta có thể sử dụng thiên nhiên vũ trụ.
Bởi thế mà cấu trúc về tri thức nơi chủ thể con người và cấu trúc khách quan nơi thực tại ăn khớp với nhau, ở chỗ, lý trí chủ quan và lý trí khách quan của thiên nhiên là những gì đồng nhất. Tôi nghĩ rằng cái ăn khớp này giữa những gì chúng ta nghĩ tới với cách thức thiên nhiên được nên trọn và tác hành là một đại bí ẩn và là một thứ thách đố lớn lao, vì chúng ta thấy rằng, cuối cùng, chỉ có một “lý trí” duy nhất liên kết cả hai chúng lại với nhau.
Lý trí của chúng ta không thể khám phá ra cái lý trí khác đó nếu không có một tiền lý trí đồng nhất cho cả hai.
Theo ý nghĩa ấy thì đối với tôi toán học – trong một khoa học như vậy Thiên Chúa không thể xuất hiện - thực sự cho chúng ta thấy cái cấu trúc khéo léo của vũ trụ. Mà cũng có cả các lý thuyết về những tình trạng hỗn độn nữa, nhưng chúng được giới hạn lại vì nếu những tình trạng hỗn độn làm chủ tình hình thì tất cả mọi thứ kỷ thuật sẽ trở thành bất khả. Chỉ vì toán học của chúng ta là những gì xác thực mà kỹ thuật mới xác thực.
Kiến thức của chúng ta, một kiến thức cuối cùng làm cho mình có thể giao tiếp với các năng lực của thiên nhiên, công nhận cái cấu trúc xác thực và tinh khéo của thể chất. Bởi vậy mà chúng ta thấy rằng có tính cách hữu lý theo chủ quan và tính cách hữu lý được khách quan hóa nơi thể chất ăn khớp với nhau.
Dĩ nhiên, hiện nay không ai có thể chứng minh – như được chứng minh bằng một thí nghiệm, theo những luật lệ về kỹ thuật – là cả hai tính chất này đều thực sự phát xuất từ một lý trí duy nhất, thế nhưng, đối với tôi thì mối hiệp nhất này của lý trí, đằng sau hai thứ lý trí ấy, thực sự xuất hiện ở trong thế giới của chúng ta đây. Và chúng ta càng dùng lý trí của mình để đi sâu vào thế giới này thì dự án của Đấng Hóa Công càng hiện lên một cách rõ ràng hơn.
Tóm lại, để tiến đến câu trả lời dứt khoát tôi muốn nói thế này: Thiên Chúa hiện hữu hay Ngài không hiện hữu. Chỉ có hai chọn lựa mà thôi. Hoặc người ta nhìn nhận cái ưu tiên của lý trí, của lý trí sáng tạo là nguyên thủy của tất cả mọi sự và là nguyên lý của tất cả mọi sự – cái ưu tiên của lý trí cũng là cái ưu tiên của tự do – hay người ta chủ trương cái ưu tiên của cái phi lý trí, vì hết mọi sự xẩy ra trên trái đất của chúng ta đây, cũng như trong đời sống của chúng ta, chỉ là ngẫu nhiên tình cờ, là những gì bên lề, là một thành quả phi lý trí – lý trí là sản phẩm của cái phi lý trí.
Cuối cùng người ta không thể nào “chứng minh” được dự án nào hết, thế nhưng cái chọn lựa cao cả của Kitô Giáo là một chọn lựa về tính chất hữu lý cũng như về cái ưu tiên của lý trí. Đối với tôi đó là một chọn lựa tuyệt hảo, một chọn lựa cho chúng ta thấy rằng đằng sau hết mlọi sự là một Lý Trí cao cả chúng ta chỉ có thể ký thác bản thân mình cho Lý Trí ấy mà thôi.
Tuy nhiên, vấn đề thực sự gây khó khăn cho đức tin ngày nay đối với tôi là sự dữ trên thế giới này: Chúng ta tự hỏi mình xem làm sao nó có thể xứng hợp với tính chất hữu lý của Đấng Hóa Công được chứ. Và ở nơi đây chúng ta thực sự cần đến Thiên Chúa, Đấng đã hóa thành nhục thể và tỏ cho chúng ta thấy rằng Người chẳng những có một trí khôn về toán học mà cái trí khôn nguyên thủy này cũng là tình yêu nữa. Nếu chúng ta nhìn vào những lựa chọn lớn lao này, thì cái chọn lựa này của Kitô Giáo ngày nay là một chọn lựa hữu lý nhất và nhân bản nhất.
Bởi thế, chúng ta có thể tin tưởng thực hiện một thứ triết lý, một nhãn quan về thế giới được dựa trên cái ưu tiên của lý trí, trên niềm tin tưởng rằng cái lý trí sáng tạo này là tình yêu và tình yêu ấy là Thiên Chúa vậy.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 23-24/4/2006
Viếng lại những chặng đường thánh giá cuối cùng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: Ngày 1/4/2005
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Thứ Sáu, ¼, vào lúc 6 giờ 30 chiều, vị giám đốc của văn phòng báo chí Tòa Thánh đã phổ biến tin tức cho phóng viên báo chí như sau:
“Bệnh trạng tổng quan và tim phổi của ĐTC càng tệ hơn trước.
“Tình trạng mỗi lúc một tệ hại hơn này xẩy ra nơi vấn đề áp huyết giảm và hơi thở yếu.
“Hình ảnh về bệnh lý cho thấy tim phổi và thận không còn làm việc hữu hiệu nữa. Những dấu hiệu về thể lý bị hư hại trông thấy.
“ĐTC thực sự tỏ ra việc ngài muốn phó mình cho những lời nguyện cầu liên lỉ của những ai hỗ trợ ngài”.