GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ SÁU 20/4/2007 MÙA PHỤC SINH - TUẦN 2 |
? Với Hồng Y Đoàn: "Tôi chỉ muốn phụng sự một mình Người khi tôi hoàn toàn dấn thân phục vụ Giáo Hội của Người"
? Với Mật Nghị Hồng Y bầu Giáo Hoàng: “Chúng ta hãy sống thừa tác vụ của chúng ta như tặng ân Chúa Kitô ban cho con người!”
? Về Vị Tiền Nhiệm: “Hỡi Đức Thánh Cha, xin hãy ban phép lành cho chúng tôi từ cửa sổ phòng của ngài”
TÂN GIÁO HOÀNG BIỂN ĐỨC XVI TÂM TƯỞNG THUỞ BAN ĐẦU
Với Hồng Y Đoàn: "Tôi chỉ muốn phụng sự một mình Người khi tôi hoàn toàn dấn thân phục vụ Giáo Hội của Người"
Sứ Điệp đầu tiên của Giáo
Hoàng Biển Đức XVI gửi Hồng Y Đoàn
Sau đây là nguyên văn sứ điệp đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Bênedict XVI bằng
tiếng Latinh ngỏ cùng Hồng Y Đoàn vào cuối Thánh Lễ Thứ Tư 20/4/2005 tại Nguyện
Đường Sistine. Đầu đề của bản tin được VIS (Vatican Information Service) phổ
biến sứ điệp này là “Đức Benedict XVI, Vị Giáo Hoàng của Chúa Kitô, của Hiệp
Thông và của Đoàn Tính”.
“Nguyện chúc tràn đầy ân sủng và bình an tràn cho tất cả quí huynh! Vào những
giờ khắc này đây, tâm hồjn tôi cảm thấy có hai cảm giác xung khắc nhau. Một đàng
là cảm giác của một thứ rối loạn về cái bất toàn và phàm nhân của mình đối với
trách nhiệm được ký thác cho tôi hôm qua với vai trò Thừa Kế Thánh Phêrô ở Hội
Thánh Rôma để trông coi Giáo Hội Hoàn Vũ này. Đàng khác, tôi lại cảm thấy trong
tôi một niềm tri ân sâu xa đối với Thiên Chúa là Đấng, như phụng vụ khiến chúng
ta xướng lên, không bỏ rơi đàn chiên của Ngài, nhưng đưa đàn chiên này qua giòng
thời gian, theo sự hướng dẫn của những ai được Ngài chọn làm thành phần thay mặt
Con Ngài và làm các vị mục tử.
“Quí Huynh thân mến, việc nhận thức sâu xa về tặng ân của tình thương Chúa đã
chiếm đoạt tâm hồn tôi bất chấp tất cả mọi sự. Tôi coi đây là ân huệ mà vị tiền
nhiệm đáng kính của tôi là Đức Gioan Phaolô II đã chiếm được cho tôi. Tôi dường
như có thể cảm thấy là bàn tay mạnh mẻ của ngài đang xoắn chặt lấy tay tôi; tôi
dường như thấy được ánh mắt tươi vui và nghe được tiếng của ngài ngỏ cùng tôi
nhất là vào lúc này rằng: ‘Đừng sợ!’
“Cái chết của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và những ngày sau đó, đối với Giáo
Hội cũng như toàn thế giới là một thời điểm đặc biệt ân sủng. Nỗi đớn đau cả thể
về cái chết của ngài cùng cái trống không lưu lại nơi tất cả chúng ta đã được
tôi luyện bởi tác động của Chúa Kitô Phục Sinh, một tác động, trong những ngày
dài này, được tỏ hiện nơi một triều sóng tin tưởng, yêu thương và đoàn kết
thiêng liêng, những gì đã lên đến tuyệt đỉnh vào lễ an táng trọng thể của ngài.
“Chúng ta có thể nói rằng, lễ an táng của Đức Gioan Phaolô II thực sự là một cảm
nghiệm phi thường về những gì tỏ ra cho thấy một cách nào đó quyền năng của
Thiên Chúa là Đấng, qua Giáo Hội của Ngài, muốn hình thành một đại gia đình bao
gồm tất cả mọi dân tộc, bằng quyền lực liên kết của Sự Thật và Yêu Thương. Trong
giờ lâm chung, giống như Sư Phụ và Chúa của mình, Đức Gioan Phaolô II đã tôn
vinh giáo triều lâu dài và thành công của mình, bằng việc củng cố dân Kitô giáo
trong đức tin, qui tụ họ lại bên ngài và làm cho cả nhân loại cảm thấy liên kết
với nhau hơn.
“Làm sao người ta không cảm thấy được vững mạnh trước chứng từ ấy? Làm sao người
ta không cảm thấy phấn khởi bắt nguồn từ biến cố ân sủng này?
“Thật là ngỡ ngàng đối với những gì tôi dự tưởng, Đấng Quan Phòng Thần Linh, qua
ý muốn của các Nghị Phụ Hồng Y khả kính, đã gọi tôi tiếp tục vị đại Giáo Hoàng
này. Vào những giờ khắc này, tôi vẫn đang nghĩ đến những gì đã xẩy ra ở vùng
Cesarea Phillippi hai ngàn năm về trước: Tôi dường như nghe thấy những lời của
Thánh Phêrô rằng: ‘Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống’, và lời long
trọng khẳng định của Chúa Kitô rằng: ‘Con là Phêrô, và trên đá này Thày sẽ dựng
xây Giáo Hội của Thày…. Thày sẽ trao cho con chìa khóa nước trời’.
“Thày là Đức Kitô! Con là Phêrô! Tôi dường như đang sống lại chính cái cảnh Phúc
Âm ấy; Tôi, vị Thừa Kế Thánh Phêrô, xin rung cảm lập lại những lời thiết tha của
tay đánh cá Galilê và tôi cảm thấu nghe lại lời hứa tái bảo đảm của Vị Thày thần
linh này. Nếu gánh nặng của trách nhiệm giờ đây đè lên đôi vai yếu hèn của tôi
là một gánh nặng khổng lồ thì quyền năng thần linh mà tôi tin tưởng chắc chắn sẽ
là những gì khôn lường vô hạn: ‘Con là Phêrô và trên đá này Thày sẽ xây dựng
Giáo Hội của Thày’. Khi chọn tôi làm Giám Mục Rôma, Chúa Kitô đã muốn tôi làm
đại diện cho Người, Người muốn tôi là ‘đá’ cho mọi người tin tưởng nương tựa.
Tôi xin Người biến cái nghèo hèn của tôi thành sức mạnh cho tôi, để tôi có thể
trở thành một mục tử can trường và trung thành chăn dắt đàn chiên của Người,
luôn dễ dạy với những tác động của Thần Linh Người.
“Tôi xin lãnh nhận thừa tác vụ đặc biệt này, thừa tác vụ ‘kế thừa Thánh Phêrô’
để phục vụ Giáo Hội Hoàn Vũ, khiêm tốn phó mình vào bàn tay Quan Phòng của Thiên
Chúa. Và tôi xin lập lại lòng gắn bó trọn vẹn và chân tình của tôi với Chúa Kitô:
‘In Te, Domine, speravi; non confundar in aeternum!’
“Cùng chư huynh Hồng Y, với lòng biết ơn về niềm tin tưởng quí huynh đối với tôi,
tôi xin quí huynh hãy nâng đỡ tôi bằng lời nguyện cầu cũng như bằng việc hợp tác
một cách liên lỉ, chủ động và khôn ngoan. Tôi cũng xin anh em của tôi trong hàng
giáo phẩm hãy gần gũi với tôi bằng lời cầu nguyện và an ủi để tôi thực sự là
‘Servus servorum Dei’ (Tôi tớ của mọi tôi tớ Chúa). Như Thánh Phêrô và các vị
Tông Đồ khác, theo ý muốn của Chúa Kitô, là một tông đồ đoàn, cũng thế, Vị Thừa
Kế Thánh Phêrô và các V ị Giám Mục thừa kế các Tông Đồ – những gì đã được Công
Đồng Chung Vaticanô II hết sức nhấn mạnh – cần phải chặt chẽ liên kết với nhau.
Mối hiệp thông đoàn tính này, cho dù có khác nhau về vai trò và phận vụ giữa Vị
Giáo Hoàng Tối Cao và các vị giám mục, là mối hiệp thông phục vụ Giáo Hội và
hiệp nhất đức tin, mối hiệp thông chi phối một cách đáng kể đến mức hữu hiệu của
hoạt động truyền bá phúc âm hóa trong thế giới hiện đại. Con đường đã được các
vị tiền nhiệm của tôi tiến bước, tôi cũng muốn đi theo nữa, chỉ vì để loan
truyền cho thế giới biết sự hiện diện sống động của Chúa Kitô.
“Đặc biệt trước mặt của tôi là chứng từ của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ngài để
lại cho chúng ta một Giáo Hội cường tráng hơn, tư do hơn và trẻ trung hơn. Một
Giáo Hội mà, theo giáo huấn và gương mẫu của ngài, bình tâm nhìn lại quá khứ và
không sợ hướng đến tương lai. Qua Đại Năm Thánh 2000, Giáo Hội đã được dẫn vào
ngàn năm mới, nắm trong tay Phúc Âm, Phúc Âm được áp dụng cho thế giới qua việc
đọc lại một cách tường tận Công Đồng Chung Vaticanô II. Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II có lý để nhấn mạnh rằng Công Đồng này như là một ‘la bàn’ được sử dụng
để chúng ta lèo lái trên đại dương bao la của ngàn năm thứ ba. Trong di chúc thư
thiêng liêng của mình, ngài còn nhận định là: ‘Tôi tin rằng, cho đến một thời
gian rất dài, các thế hệ mới sẽ kín múc lấy từ kho tàng được công đồng của thế
kỷ 20 ấy để cống hiến cho chúng ta’.
“Cả tôi nữa, để bắt đầu việc phục vụ xứng hợp với Vị Thừa Kế Thánh Phêrô, cũng
muốn mạnh mẽ xác định ý muốn cương quyết của tôi trong việc theo đuổi cuộc dấn
thân thực hiện Công Đồng Chung Vaticanô II, theo các vị tiền nhiệm của tôi và
trung thành tiếp nối truyền thống hai ngàn năm của Giáo Hội. Năm nay chính là
năm kỷ niệm 40 năm bế mạc công đồng này (8/12/1965). Qua giòng thời gian, các
văn kiện của công đồng đã không mất đi tính cách hợp thời của mình; giáo huấn
của các văn kiện ấy vẫn cho thấy đặc biệt thích hợp với các nhu cầu cấp bách mới
của Giáo Hội cũng như với xã hội đang được toàn cầu hóa hiện nay.
“Giáo triều của tôi, một cách hết sức ý nghĩa, được mở màn vào lúc Giáo Hội đang
sống một năm đặc biệt giành cho Thánh Thể. Làm sao tôi lại không thấy được cái
trùng hợp được quan phòng này một yếu tố cần phải đánh dấu thừa tác vụ tôi đã
được kêu gọi thi hành đây? Thánh Thể, tâm điểm của đời sống Kitô hữu và là nguồn
mạch của sứ vụ truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội, chắc chắn bao giờ cũng phải
là tâm điểm và là nguồn mạch cho sứ vụ thừa kế Thánh Phêrô đã được trao phó cho
tôi.
“Thánh Thể làm cho Chúa Kitô Phục Sinh liên lỉ hiện diện, một Chúa Kitô là Đấng
tiếp tục hiến Mình cho chúng ta, kêu gọi chúng ta hãy tham dự vào bàn tiệc Mình
Máu của Người. Từ mối hiệp thông trọn vẹn này với Người mới xuất phát ra hết mọi
yếu tố khác của đời sống Giáo Hội, trước hết là mối hiệp thông giữa tín hữu,
việc dấn thân loan truyền và làm chứng cho Phúc Âm, nhiệt tình bác ái đối với
tất cả mọi người, nhất là với thành phần nghèo khổ và hèn mọn nhất.
“Bởi thế, trong năm nay, Lễ Trọng Kính Mình Thánh Chúa Kitô cần phải được cử
hành một cách hết sức đặc biệt. Thánh Thể sẽ là trọng tâm của Ngày Giới Trẻ Thế
Giới ở Cologne vào Tháng Tám, và của Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới thường lệ vào
Tháng Mười, một thượng nghị sẽ bàn đến đề tài ‘Thánh Thể là Nguồn Mạch và là
Tuyệt Đỉnh của Đời Sống và Sứ Vụ của Giáo Hội’. Tôi xin hết mọi người hãy gia
tăng vào những tháng tới đây lòng yêu mến và việc sùng kính đối với Chúa Giêsu
Thánh Thể và thể hiện một cách can đảm tỏ tường sự hiện diện thực sự của Chúa
Kitô, trước hết, qua những việc cử hành một cách long trọng và đúng đắn.
“Tôi đặc biệt xin các vị linh mục thực hiện điều ấy, những vị giờ đây tôi đang
hết lòng quí mến nghĩ đến vào lúc này đây. Thừa tác vụ linh mục được phát sinh
từ Nhà Tiệc Ly, cùng với Thánh Thể, như vị tiền nhiệm đáng kính Gioan Phaolô II
của tôi đã nhiều lần nhấn mạnh đến. ‘Đời sống linh mục cần phải đặc biệt có một
‘dạng thức Thánh Thể’, ngài đã viết như thế trong Bức Thư cuối cùng của ngài cho
Ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Việc sốt sắng cử hành hằng ngày Thánh Lễ, tâm điểm của
đời sống và sứ vụ của hết mọi vị linh mục, là những gì góp phần vào việc đạt
được mục đích ấy.
“Được nuôi dưỡng và bảo trì bởi Thánh Thể, người Công giáo chắc chắn cảm thấy
được thôi thúc hướng đến mối hiệp nhất như Chúa Kitô mong muốn ở Nhà Tiệc Ly. Vị
Thừa Kế Thánh Phêrô biết rằng mình cần phải đặc biệt nhận lấy ước muốn tối hậu
này của Vị Thày Thần Linh. Nhiệm vụ kiên cường anh em của mình thật sự đã được
trao phó cho ngài.
“Bởi vậy, bằng tất cả ý thức và vào lúc mở đầu cho thừa tác vụ của mình ở Giáo
Hội Rôma là nơi Thánh Phêrô đã tắm máu, vị Thừa Kế này lãnh nhận, như là quyết
tâm chính yếu của mình, quyết tâm không ngừng hoạt động hướng đến việc tái thiết
mối hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình của tất cả mọi thành phần môn đệ của Chúa
Kitô. Đó là tham vọng của ngài, đó là nhiệm vụ bó buộc của ngài. Ngài biết rằng,
để làm điều này, những bày tỏ về cảm tình thiện cảm mà thôi chưa đủ. Cần phải có
những cử chỉ cụ thể để thấm nhập các tâm hồn và đánh động lương tâm, phấn khích
mọi người tiến đến chỗ hoán cải nội tâm là điều căn bản cho tất cả mọi thứ tiến
bộ trên con đường đại kết.
“Những cuộc đối thoại về thần học là những gì cần phải có. Cũng không thể châm
chước bỏ qua việc khảo sát kỹ lưỡng những nguyên do lịch sử đã gây ra những việc
quyết định trong quá khứ. Thế nhưng, khẩn thiết hơn thế nữa là việc ‘thanh tẩy
ký ức’, một việc đã thường được Đức Gioan Phaolô gợi lên, và là một việc duy
nhất có thể sửa soạn cho các tâm hồn đón nhận tất cả sự thật của Chúa Kitô.
Chính vì trước nhan Người là Vị Thẩm Phán tối cao của tất cả mọi sinh vật, mà
mỗi một người trong chúng ta cần phải trả lẽ, với ý thức là một ngày kia chúng
ta cần phải cắt nghĩa cho Người về những gì chúng ta đã làm và những gì chúng ta
không làm cho thiện ích cao cả là mối hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình nơi tất cả
thành phần môn đệ của Người.
“Vị Thừa Kế Thánh Phêrô đây tự cảm thấy chính mình liên quan đến vấn đề này và
sẵn sàng làm tất cả những gì trong khả năng của mình để cổ võ lợi ích chính yếu
cho việc đại kết. Theo những vị tiền nhiệm của mình, ngài nhất định quyết tâm
nâng đỡ bất cứ sáng kiến nào có vẻ thích hợp với việc đẩy mạnh việc giao tiếp và
thỏa hiệp với những vị đại diện thuộc các Giáo Hội khác và các cộng đồng giáo
hội khác. Thật thế, nhân cơ hội này đây, ngài xin gửi đến họ lời chàop thân ái
nhất của ngài trong Chúa Kitô, Vị Chúa duy nhất của tất cả mọi người.
“Vào lúc này đây, ký ức của tôi nhớ lại cảm nghiệm không thể nào quên được tất
cả chúng ta đã trải qua với cái chết và lễ an táng cho Đức Gioan Phaolô II tiếc
thương. Quanh thi thể của ngài, nằm trên mặt đất trống, các vị lãnh đạo chư quốc
đã qui tụ lại, cùng với dân chúng thuộc tất cả mọi giai cấp xã hội, nhất là giới
trẻ, để tỏ lòng mãi mãi gắn bó quí mến và ca ngợi ngài. Toàn thể thế giới đã tin
tưởng nhìn vào ngài. Đối với nhiều người thì việc tham dự đông đảo này, một cuộc
tham dự được các phương tiện truyền thông phóng đại đến cả những nơi xa xôi của
hành tinh này, như thể là việc nhân loại văn minh tân tiến, một nhân loại bị
hoang mang sợ hãi và bất ổn, đang tự hỏi mình về tương lai, muốn đồng thanh yêu
cầu vị Giáo Hoàng này giúp đỡ.
“Giáo Hội ngày nay cần phải làm sống lại nơi bản thân mình một thứ nhận thức về
công việc trình bày cho thế giới một lần nữa bằng tiếng nói của Đấng đã phán:
‘Tôi là ánh sáng thế gian; ai theo Tôi sẽ không bước đi trong tăm tối, song sẽ
được ánh sáng sự sống’. Trong việc đảm nhận thừa tác vụ của mình, vị tân Giáo
Hoàng này biết rằng công việc của ngài là làm cho ánh sáng của Chúa Kitô chiếu
tỏa trước con người nam nữ ngày nay, không phải là ánh sáng của ngài mà là của
Chúa Kitô.
“Ý thức như thế, bản thân tôi xin ngỏ cùng mọi người, kể cả những ai theo các
tôn giáo khác hay những ai chỉ muốn tìm kiếm một câu giải đáp cho những câu hỏi
căn bản về đời sống mà chưa tìm ra. Tôi xin chân thành cảm mến ngỏ cùng hết mọi
người, xin hứa cùng họ rằng Giáo Hội muốn tiếp tục phát triển một cuộc đối thoại
cởi mở chân tình với họ, trong việc tìm cầu sự thiện hảo đích thực của nhân loại
và của xã hội.
“Tôi kêu cầu Thiên Chúa ban hiệp nhất và bình an cho gia đình nhân loại và xin
tuyên bố việc tất cả mọi người Công giáo sẵn lòng cộng tác thực hiện việc phát
triển xã hội thực sự, một phát triển tôn trọng phẩm vị của tất cả mọi người.
“Tôi sẽ làm hết sức mình và dấn thân theo đuổi việc đối thoại đầy hứa hẹn được
những vị tiền nhiệm của tôi khởi sự với những nền văn minh khác nhau, vì nếu có
hiểu biết nhau mới tạo điều kiện cho một tương lai tốt đẹp hơn cho hết mọi người.
“Tôi đặc biệt nghĩ đến giới trẻ. Tôi xin gửi đến họ, thành phần đối thoại đặc
biệt của Đức Gioan Phaolô II, niềm gắn bó mến thương, hy vọng là, nếu Chúa muốn,
được gặp gỡ họ ở Cologne vào dịp Ngày Giới Trẻ Thế Giới tới đây. Hỡi giới trẻ
thân mến, tôi sẽ tiếp tục bảo trì việc đối thoại với anh chị em, lắng nghe những
mong đợi của anh chị em để cố gắng giúp anh chị em gặp được Chúa Kitô hằng sống
muôn đời trẻ trung một cách sâu xa hơn.
“’Mane nobiscum, Domine!’ Xin Chúa ở với chúng con! Lời kêu mời này, một lời kêu
mời làm nên chủ đề chính của Tông Thư cho Năm Thánh Thể của Đức Gioan Phaolô II,
đó là lời cầu nguyện đột phát từ lòng của tôi khi tôi bắt đầu thừa tác vụ được
Chúa Kitô kêu gọi tôi thực hiện. Như Thánh Phêrô, tôi cũng lập lại với Người lời
hứa trung thành trọn vẹn của tôi. Tôi chỉ muốn phụng sự một mình Người khi tôi
hoàn toàn dấn thân phục vụ Giáo Hội của Người.
“Để hỗ trợ cho lời hứa này của mình, tôi kêu xin Mẹ Maria Rất Thánh, Đấng tôi
xin trao phó hiện tại và tương lai của bản thân tôi và của Giáo Hội trong tay Mẹ,
chuyển cầu cho tôi. Chớ gì Hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô cùng toàn thế các
thánh cũng chuyển cầu cho tôi.
“Với lòng cảm mến ấy, tôi ban cho quí huynh hồng y đáng kính, cũng như cho những
ai tham dự vào lễ nghi này, và tất cả những ai theo dõi chúng ta qua truyền hình
và truyền thanh, phép lành đặc biệt và thân ái”.
Đaminh Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL, dịch từ điện thư của VIS ngày 20/4
? Với Mật Nghị Hồng Y bầu Giáo Hoàng:
“Chúng ta hãy sống thừa tác vụ của chúng ta như tặng ân Chúa Kitô ban cho con người!”Bài
Giảng Thánh Lễ Khai Mạc Mật Nghị Hồng Y Bầu Tân Giáo Hoàng
Theo chương trình đã được phác họa, sáng nay, tại Đền Thờ Thánh Phêrô, ĐHY
trưởng hồng y đoàn là Joseph Ratzinger đã dâng Thánh Lễ khai mạc cho mật Nghị
Hồng Y bầu tân Giáo Hoàng, với sự đồng tế của tất cả mọi hồng y tuyển bầu, và sự
tham dự của các vị hồng y quá tuổi tuyển bầu, các vị giám mục, linh mục, tu sĩ
nam nữ và giáo dân. Trong bài giảng của mình, vị hồng y chủ tế, trước hết, đã
dẫn giải bài đọc thứ nhất liên quan đến lời Chúa Giêsu nói qua miệng tiên tri
Isaia là Người được sai đi “loan báo năm hồng ân của Chúa và ngày báo oán của
Thiên Chúa chúng ta”.
Isaiah 61:1-3a. 6a. 8b-9
Ephesians 4:11-16
John 15:9-17
”Vào giờ khắc nặng trọng trách đây, chúng ta hãy đặc biệt lằng nghe những gì
Chúa muốn nói với chúng ta qua những lời lẽ của Người. Tôi chỉ xin chọn mỗi đoạn
của ba bài đọc liên quan trực tiếp tới chúng ta vào một thời điểm như thế này.
“Bài đọc thứ nhất cho chúng ta thấy hình ảnh được tiên báo về nhân vật Thiên Sai,
một hình ảnh đạt được trọn vẹn ý nghĩa của nó vào chính lúc Chúa Giêsu đọc đoạn
văn này ở hội đường Nazarét, khi Người nói rằng: ‘Hôm nay quí vị đã nghe thấy
đọan kinh thánh này đã được ứng nghiệm’ (Lk 4:21). Ở tâm điểm của bài sách tiên
tri này, chúng ta thấy có một câu mà thoáng nhìn như mâu thuẫn. Khi nói về mình,
Đấng Thiên Sai nói rằng Người được sai đến để ‘loan báo năm hồng ân của Chúa,
vào ngày báo oán của Thiên Chúa chúng ta’ (Is 61:2).
“Chúng ta hân hoan nghe thấy nói đến việc loan truyền năm tình thương: Tình
thương Chúa đặt giới hạn cho sự dữ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói với
chúng ta như thế. Tự bản thân mình Chúa Giêsu Kitô là tình thương Chúa: Thấy
Chúa Kitô nghĩa là thấy được tình thương của Thiên Chúa. Lệnh truyền của Chúa
Kitô đã trở nên sứ vụ của chúng ta qua việc xức dầu tư tế; chúng ta được kêu gọi
để loan báo, chẳng những bằng lời nói mà còn bằng đời sống cũng như bằng những
hoa trái hiệu nghiệm của các Bí Tích, ‘năm hồng ân của Chúa’
“Thế nhưng, tiên tri Isaia muốn nói gì khi ngài loan báo về ‘ngày báo oán của
Thiên Chúa chúng ta?’ Khi đọc bản văn tiên tri này ở Nazarét, Chúa Giêsu không
nói đến những lời ấy; Người đã kết thúc bằng việc công bố năm hồng ân. Phải
chăng đó là lý do xẩy ra việc xúc phạm sau bài giảng của Người? Chúng ta không
ai biết. Dầu sao Chúa Giêsu cũng cống hiến việc dẫn giải chính thức về những lời
ấy bằng cái chết của Người trên thập tự giá. ‘Chính Người đã mang lấy tội lỗi
của chúng ta nơi thân thể của Người bị treo trên cây’, Thánh Phêrô đã nói như
thế (1Pt 2:24). Và Thánh Phaolô viết cho tín hữu Galata rằng: ‘Chúa Kitô đã cứu
chuộc chúng ta khỏi cái tai họa của lề luật, khi trở nên một thứ đồ bị nguyền
rủa vì chúng ta – vì có lời chép: Khốn thay cho kẻ bị treo lên cây’, để, nơi
Chúa Giêsu Kitô, nhờ đó các thứ phúc lành của Abraham được đổ xuống cho các dân
ngoại, nhờ đó chúng ta được lãnh nhận lời hứa Thần Linh nơi đức tin’ (Gal 3:13).
“Tình thương của Chúa Kitô không phải là một thứ ân sủng rẻ tiền; tình thương
của Người không phải là những gì cho rằng sự dữ là đồ vô vị. Chúa Giêsu mang lấy
tất cả gánh nặng của sự dữ, tất cả quyền lực hủy diệt của sự dữ, nơi thân thể
của Người và trong linh hồn của Người. Ngày báo oán và năm hồng ân của Chúa cùng
hiện thực nơi mầu nhiệm Vượt Qua, nơi Chúa Kitô là Đấng đã chết và sống lại. Đó
là việc báo oán của Thiên Chúa, ở chỗ, Chính Bản Thân Ngài, nơi con người của
Con Ngài, chịu khổ vì chúng ta. Chúng ta càng được tình thương của Chúa chạm tới,
chúng ta càng liên kết với khổ đau của Người, và chúng ta càng sẵn sàng làm trọn
nơi xác thịt của chúng ta ‘những gì còn thiếu nơi những khốn khổ của Chúa Kitô’
(Col 1:24).
“Chúng ta hãy sang bài đọc thứ hai là thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô.
Bài đóc này chính yếu có 3 vấn đề: trước hết là các thừa tác vụ và đặc sủng của
Giáo Hội như những tặng ân của Chúa phục sinh đã về trời; rồi tới việc trưởng
thành trong đức tin và trong nhận thức về Con Thiên Chúa như điều kiện và nội
dung cho mối hiệp nhất của thân thể Chúa Kitô; và sau hết, việc tham dự chung
vào việc tăng trưởng của Thân Thể Chúa Kitô, tức là việc biến đổi thế giới bằng
mối hiệp thông với Thiên Chúa.
“Chúng ta hãy suy niệm về hai điểm. Điểm thứ nhất đó là con đường dẫn đến, như
bản tiếng Ý dịch cách giản dị là ‘sự trưởng thành Chúa Kitô’. Cụ thể hơn, theo
bản Hy ngữ, chúng ta cần phải nói về ‘tầm mức viên trọn của Chúa Kitô’ là tầm
mức chúng ta được kêu gọi để thực sự trưởng thành trong đức tin. Chúng ta không
được là trẻ con trong đức tin, trong tình trang non dại. Mà sống đức tin trẻ con
nghĩa là gì? Thánh Phaolô trả lời rằng đó là ‘bị nghiêng ngả theo chiều gió chủ
nghĩa’ Thật là một lời diễn tả rất ư là hợp thời!
“Biết bao nhiêu là chiều gió chủ nghĩa chúng ta đã từng biết đến trong mấy thập
niên qua! Biết bao nhiêu là trào lưu ý hệ! Biết bao nhiêu là trường phái tư
tưởng! Con tầu tư tưởng nhỏ bé của nhiều Kitô hữu thường bị xô lấn bởi những cơn
sóng này, tung họ từ cực đoan này sang cực đoan kia: từ chủ nghĩa Marxít đến chủ
nghĩa tự do (liberalism), thậm chí đến chủ nghĩa duy tự do (libertarianism); từ
chủ nghĩa tập thể (collectivism) đến chủ nghĩa cá nhân cực đoan (radical
individualism); từ chủ nghĩa vô thần đến chủ nghĩa tôn giáo mập mờ bí hiểm
(vague religious mysticism); từ chủ nghĩa ngộ thức (agnosticism) đến chủ nghĩa
hòa đồng (syncretism) v.v.
“Ngày nào cũng có những thứ giáo phái mới, khiến cho những lời của Thánh Phaolô
nói trở thành sự thật về việc con người bị lừa đảo, về cái tinh quái làm cho con
người bị lầm lạc (x Eph 4:14). Có một đức tin minh tường, theo Kinh Tin Kính của
Giáo Hội, thường được gán cho là chủ nghĩa thủ cựu / bảo thủ (fundamentalism).
Một khi chủ nghĩa tương đối (relativism), nói cách khác, một khi để cho mình ‘bị
xô đẩy theo chiều gió chủ nghĩa’, thái độ duy nhất được cho là thích hợp với
thời đại tân tiến, thì đó là lúc chủ nghĩa tương đối độc đoán được hình thành,
một chủ nghĩa tương đối độc đoán cho rằng không có gì là tuyệt đối cả, và là một
chủ nghĩa chỉ biết căn cứ vào cái tôi cùng với những ước muốn của cái tôi mà
thôi.
“Chúng ta có một chuẩn mức khác, đó là Con Thiên Chúa, một con người thật sự.
Người là chuẩn mức của nhân bản chủ nghĩa đích thực. Một đức tin ‘trưởng thành’
là đức tin không chiều theo làn sóng thời trang cũng như những gì là tân hiện
đại nhất; một đức tin trưởng thành và chín chắn là một đức tin được cắm rễ sâu
xa trong mối thân tình với Chúa Kitô. Mối thân hữu này hướng chúng ta về tất cả
những gì là thiện hảo và cống hiến cho chúng ta chuẩn mức để nhận thức được đâu
là phải và đâu là trái, đâu là gian dối và đâu là chân thật.
“Chúng ta cần phải làm cho đức tin trưởng thành này chín mùi; chúng ta cần phải
dẫn đàn chiên của Chúa Kitô đến đức tin này. Và chính đức tin này, chỉ duy có
đức tin này mà thôi, mới là những gì kiến tạo hiệp nhất và được hiện thực nơi
đức ái. Thánh Phaolô đã cống hiến cho chúng ta một câu nói tuyệt vời, ngược lại
với tình trạng trôi nổi của những ai giống như trẻ con bị bập bềnh theo triều
sóng, đó là hãy sống sự thật bằng đức ái như là một mẫu thức cốt yếu cho việc
hiện hữu của Kitô giáo. Sự thật và đức ái đồng qui nơi Chúa Kitô. Chúng đến với
Chúa Kitô theo chuẩn mức nào, thì sự thật và đức ái cũng nên một với nhau trong
đời sống của chúng ta như vậy. Đức ái không có đức tin là một đức ái mù quáng;
chân lý không có đức ái sẽ chỉ là ‘phèng la inh ỏi’ (1Cor 13:1).
Giờ đây chúng ta sang bài Phúc Âm, một bài Phúc Âm phong phú song tôi chỉ xin
rút ra hai nhận định nhỏ thôi. Chúa Kitô đã noí với chúng ta những lời tuyệt vời
này là ‘Thày không còn gọi các con là tôi tớ nữa,… mà gọi các con là bạn hữu’ (Jn
15:5). Nhiều lần chúng ta chỉ cảm thấy rằng mình giống như những tên đầy tớ vô
dụng, mà thực sự là thế (x Lk 17:10). Mặc dù là thế, Chúa Kitô vẫn gọi chúng ta
là bạn hữu của Người; Người làm cho chúng ta thành bạn hữu của Người; Người ban
cho chúng ta tình bằng hữu của Người. Chúa Kitô đã xác định tình bằng hữu bằng
hai cách. Không có gì là bí mật giữa bạn bè với nhau: Chúa Kitô nói với chúng ta
hết những gì Người nghe từ Cha; Người hoàn toàn đặt niềm tin tưởng của Người nơi
chúng ta, và cùng với lòng tin tưởng ấy là kiến thức của Người. Người tỏ cho
chúng ta thấy dung nhan của Người, tấm lòng của Người. Người tỏ cho chúng ta
thấy niềm âu yếm của Người, tình yêu say mê cho đến điên cuồng tử giá.
“Người đặt tin tưởng nơi chúng ta; Người ban cho chúng ta quyền năng để cùng với
bản thân của Người phán rằng: ‘Này là mình Thày’, và ‘Thày tha tội cho con’.
Người trao phó thân thể của Người là Giáo Hội cho chúng ta. Người ký thác sự
thật của Người cho tâm trí yếu đuối và bàn tay yếu hèn của chúng ta, đó là mầu
nhiệm Thiên CHúa là Ch, và Con và Thánh Thần; mầu nhiệm của vị Thiên Chúa là
Đấng ‘đã quá yêu thương thế gian đến hiến ban Con duy nhất của mình’ (Jn 3:16).
Người đã làm cho chúng ta nên bạn hữu của Người. Chúng ta cần phải đáp lại như
thế nào đây?
“Yếu tố thứ hai được Chúa Giêsu sử dụng để định nghĩa tình bằng hữu đó là mối
hiệp thông của ý muốn. ‘Idem velle – idem nolle’ là câu định nghĩa của người
Rôma. ‘Các con là bạn hữu của Thày nếu các con làm theo những gì Thày truyền cho
các con’ (Jn 15:14). Tình bằng hữu với Chúa Kitô đồng nghĩa với những gì được
ước nguyện thứ ba trong Kinh Lạy Cha: ‘Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên
trời’.
“Vào giờ khắc ở Vườn Diệt-Si-Ma-Ni, Chúa Giêsu đã biến đổi ý muốn loài người
phản loạn của chúng ta thành một ý muốn tuân hợp và kết hợp với ý muốn thần linh.
Người đã chịu đựng tất cả cuộc thảm kịch về cái tự lập của chúng ta, và bằng
việc trao phó ý muốn của chúng ta vào bàn tay Thiên Chúa, Người đã làm cho chúng
ta được thực sự tự do: ‘Thế nhưng, không phải theo ý Con mà là ý Cha’ (Mt
26:39). Việc cứu chuộc của chúng ta đã được thực hiện nơi mối hiệp thông ý muốn
này: ở chỗ được trở thành bạn hữu của Chúa Giêsu, trở nên bạn hữu của Thiên Chúa.
Chúng ta càng yêu mến Chúa Giêsu, chúng ta càng biết Người, tự do đích thật của
chúng ta càng tăng trưởng, cùng với niềm vui được cứu chuộc. Xin tri ân cảm tạ
Chúa Giêsu về tình bằng hữu của Chúa!
“Một yếu tố khác của Phúc Âm tôi cũng muốn được đề cập tới đó là bài nói của
Chúa Giêsu về việc sinh hoa kết trái: ‘Thày đã chọn các con và chỉ định để các
con đi sinh hoa kết trái để hoa trái của các con được tồn tại’. Cái động lực
hiện hữu của Kitô giáo hiện lên ở nơi đây, cái động lực của thành phần tông đồ:
‘Thày đã sai các con đi’. Chúng ta cần phải cảm thấy được sinh động bởi cái day
dứt khôn nguôi; cái day dứt khôn nguôi muốn mang đến cho hết mọi người tặng ân
đức tin, tặng ân được làm bạn hữu với Chúa Kitô. Thật vậy, tình yêu, tức tình
bằng hữu với Thiên Chúa, đã được ban cho chúng ta là để nhờ đó tình yêu này,
tình bằng hữu này vươn tới người khác nữa.
“Chúng ta đã lãnh nhận đức tin là để trao tặng đức tin cho kẻ khác; chúng ta là
những vị linh mục phục vụ kẻ khác, và chúng ta cần phải sinh hoa kết trái vững
bền. Thế nhưng, làm sao có thể bền vững được đây? Tiền bạc không lâu bền. Nhà
cửa không bền lâu, cả sách vở nữa. Vào một lúc nào đó, không nhanh thì chậm, tất
cả đều sẽ biến mất. Chỉ có một điều duy nhất còn tồn tại đến muôn đời đó là linh
hồn của con người, một con người được Thiên Chúa dựng nên để sống vĩnh hằng.
“Hoa trái tồn tại đây, bởi thế, là những gì chúng ta đã gieo vào linh hồn con
người ta, đó là yêu thương và nhận thức; là cử chỉ có thể chạm tới tâm can; là
lời nói hướng linh hồn hướng về niềm vui của Chúa. Vậy chúng ta hãy đi và nguyện
cầu cùng Chúa để Ngài giúp cho chúng ta sinh hoa kết trái, một thứ hoa trái vững
bền. Chỉ có thế trái đất này mới có thể được biến đổi từ thung lũng châu lệ
thành vườn địa đường của Thiên Chúa.
“Sau hết, chúng ta hãy trở lại với Thư gửi giáo đoàn Êphêsô một lần nữa. Bức thư
viết, theo những lời Thánh Vịnh 68, rằng Chúa Kitô, khi ‘Người lên trời… đã ban
các tặng ân cho con người’ (Eph 4:8). Ôi những tặng ân phân phối hiển vinh. Và
những tặng ân này là các vị tông đồ, tiên tri, các vị truyền bá phúc âm, các vị
mục tử và thày dạy. Thừa tác vụ của chúng ta là tặng ân của Chúa Kitô ban cho
con người để xây dựng thân thể của Người, xây dựng một tân thế giới. Chúng ta
hãy sống thừa tác vụ của chúng ta như tặng ân Chúa Kitô ban cho con người! Thế
nhưng, trong lúc này đây, chúng ta hãy thiết tha nguyện cầu cùng Chúa rằng, sau
đại tặng ân Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Ngài lại ban cho chúng ta một vị mục tử
theo ý định của tâm can Ngài, một vị mục tử dẫn chúng ta đến chỗ nhận biết Chúa
Kitô, đến với tình yêu của Người, đến với niềm vui chân thực.
“Amen”.
Đaminh Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL, dịch từ điện thư của VIS ngày 18/4 và Zenit ngày 19/4
Về Vị Tiền Nhiệm: “Hỡi Đức Thánh Cha, xin hãy ban phép lành cho chúng tôi từ cửa sổ phòng của ngài”
’Hãy theo Thày’. Chúa Phục Sinh đã nói những lời này với
Thánh Phêrô. Chúng là những lời cuối cùng Người nói với người môn đệ này, người
môn đệ được chọn để chăn dắt đàn chiên của Người. ‘Hãy theo Thày’ – lời nói gẫy
gọn này của Chúa Kitô có thể được coi như là chìa khóa để hiểu được sứ điệp được
chuyển đến cho chúng ta từ cuộc sống của Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thân
yêu của chúng ta. Hôm nay chúng ta an táng thi hài của ngài trong lòng đất như
một hạt giống bất tử – tâm can chúng ta tràn ngập buồn đau, song đồng thời cũng
đầy niềm hân hoan hy vọng và tri ân sâu xa.
Đó là những cảm tình đang tác động chúng ta, Anh Chị Em thân mến, những người
đang hiện diện ở Quảng Trường Thánh Phêrô này, ở các đường phố lân cận cũng như
ở các địa điểm khác trong thành Rôma, nơi mà cả một đám đông khổng lồ, trong
thinh lặng nguyện cầu, đã tụ họp lại với nhau mấy ngày vừa rồi. Tôi xin chân
thành chào tất cả anh chị em. Thay mặt Hồng Y Đoàn, tôi cũng muốn bày tỏ lòng
trọng kính của tôi với các vị Thủ Lãnh Quốc Gia, các Vị Đứng Đầu Chính Phủ và
các phái đoàn đại biểu thuộc các quốc gia khác nhau. Tôi xin chào các Vị Thẩm
Quyền và các vị đại diện chính thức của các Giáo Hội và các Cộng Đồng Kitô hữu
khác, cũng như những vị thẩm quyền của các tôn giáo khác. Tiếp theo, tôi xin
chào các vị Tổng Giám Mục, các vị Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và tín hữu đã
từ mọi châu lục đến đây; nhất là giới trẻ, thành phần Đức Gioan Phaolô II thích
gọi là tương lai và là niềm hy vọng của Giáo Hội. Ngoài ra, tôi xin chào tất cả
những ai trên khắp thế giới hiệp với chúng tôi qua truyền thanh và truyền hình
để long trọng cử hành lễ an táng của Đức Thánh Cha thân yêu của chúng tôi.
Hãy theo Thày! Là một sinh viên trẻ, Karol Wojtyla say sưa với văn chương, kịch nghệ và thi ca. Làm việc ở một xưởng hóa chất, bị vây bủa và đe dọa bởi việc khủng bố của Nazi, ngài đã nghe thấy tiếng gọi của Chúa: Hãy theo Thày! Trong hoàn cảnh ngoại thường ấy, ngài đã bắt đầu đọc các sách về triết lý và thần học, rồi nhập chủng viện chui do ĐHY Sapieha thiết lập. Sau chuộc chiến, ngài đã hoàn tất việc học hành của mình theo phân khoa thần học ở Đại Học Jagiellonian ở Krakow. Nhiều lần, trong thư gửi cho các linh mục hằng năm cũng như trong các tác phẩm tự truyện của mình, ngài đã nói cho chúng ta biết về thiên chức linh mục của ngài, một thiên chức ngài đã được thụ phong ngày 1 tháng 11 năm 1946. Trong các bản văn này, ngài đã cắt nghĩa thiên chức linh mục của mình đặc biệt liên quan tới 3 câu nói của Chúa: ‘Không phải các con đã chọn Thày, song Thày đã chọn các con. Và Thày đã sai các con đi để sinh hoa kết trái, những hoa trái lâu bền’ (Jn 15:16). Câu thứ hai là ‘Vị mục tử nhân lành bỏ sự sống mình cho chiên’ (Jn 10:11). Rồi câu: ‘Như Cha đã yêu thương Thày thế nào Thày cũng yêu thương các con như vậy; hãy ở lại trong tình yêu của Thày’ (Jn 15:9). Nơi 3 câu nói này chúng ta thấy được tâm can và linh hồn Đức Thánh Cha của chúng ta. Ngài đã thực sự đi khắp nơi, không ngừng nghỉ, để sinh hoa trái, một thứ hoa trái lâu bền. ‘Hãy chỗi dậy, Nào chúng ta lên Đường!’ là nhan đề của cuốn sách áp cuối của ngài. ‘Hãy đứng dậy, nào chúng ta lên Đường!’ – với những lời này, ngài đã thức tỉnh chúng ta khỏi một thứ đức tin lim dim, khỏi một giấc ngủ của thành phần môn đệ hôm qua và hôm nay. ‘Hãy đứng dậy, nào chúng ta lên đường!’ ngài tiếp tục nói với chúng ta cho đến cả hôm nay đây. Đức Thánh Cha là một vị linh mục cho tới cùng, vì ngài đã hiến dâng sự sống của mình cho Thiên Chúa vì đàn chiên của mình cũng như vì toàn thể nhân loại, bằng một cuộc tự hiến hằng ngày để phục vụ Giáo Hội, nhất là giữa những đớn đau của các tháng cuối đời. Nhờ đó, ngài được nên một với Chúa Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành đã yêu thương chiên của Người. Sau hết, ‘hãy ở lại trong tình yêu của Thày’: Vị Giáo Hoàng này đã cố gắng gặp gỡ hết mọi người, vị đã có khả năng tha thứ và cởi mở tâm hồn với tất cả mọi người, bằng những lời của Chúa ấy, nói với chúng ta hôm nay đây một lần nữa rằng, nhờ việc ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô chúng ta học được, nơi học đường của Chúa Kitô, nghệ thuật yêu thương chân thật.
Hãy theo Thày! Vào tháng 7 năm 1958, vị linh mục trẻ Karol Wajtyla đã bắt đầu
một giai đoạn mới trong cuộc hành trình của ngài với Chúa và bước theo vết chân
của Chúa. Karol đã đi đến hồ Masuri để nghỉ hè như thường lệ, cùng với một nhóm
giới trẻ yêu thích chèo thuyền. Thế nhưng, ngài đã mang theo bên mình một bức
thư mời ngài gặp vị Giáo Chủ Balan là ĐHY Wyszynski. Ngài có thể đoán được mục
đích của cuộc gặp gỡ này: đó là ngài được bổ nhiệm làm Giám Mục phụ tá ở Krakow.
Rời bỏ thế giới văn học, rời bỏ việc dấn thân thách đố với giới trẻ này, rời bỏ
nỗ lực về tri thức trong việc cố gắng hiểu biết và giải thích mầu nhiệm về tạo
vật là con người cũng như về việc truyền đạt cho thế giới ngày nay vấn đề dẫn
giải của Kitô giáo đối với con người của chúng ta – tất cả những điều ấy đối với
ngài, phải nói rằng, như mất đi chính bản thân ngài vậy, mất đi những gì đã trở
thành chính căn tính con người của vị linh mục trẻ này. Hãy theo Thày – Karol
Wojtyla đã chấp nhận việc bổ nhiệm ấy, vì ngài đã nghe thấy nơi tiếng Giáo Hội
mời gọi tiếng của Chúa Kitô. Và rồi ngài đã nhận thức những lời của Chúa chân
thực biết bao: ‘Những ai cố giữ sự sống mình sẽ mất nó, còn những ai mất sự sống
mình sẽ giữ được nó’ (Lk 17:33). Vị Giáo Hoàng của chúng ta – như tất cả chúng
ta đều biết điều này là – không bao giờ muốn giữ lấy sự sống của ngài, giữ lấy
nó cho bản thân của ngài; ngài muốn hoàn toàn trao tặng bản thân mình, cho đến
giây phút cuối cùng, vì Chúa Kitô và do đó cũng vì chúng ta nữa. Nhờ đó, ngài đã
cảm thấy được rằng hết những gì ngài đã hiến dâng vào bàn tay Chúa đã trở về với
ngài như thế nào một cách mới mẻ. Lòng ngài mộ mến ngôn từ, thi ca, văn chương,
đã trở nên một phần chính yếu của sứ vụ mục vụ của ngài và cống hiến cho việc
giảng dạy Phúc Âm tính cách sinh động mới, thôi thúc mới, thu hút mới, cho dù có
là một dấu hiệu phản khắc chăng nữa.
Hãy theo Thày! Vào tháng 10/1978, ĐHY Wojtyla, một lần nữa,
đã nghe thấy tiếng Chúa gọi. Một lần nữa, lại xẩy ra cuộc đối thoại với Thánh
Phêrô được trình thuật trong bài Phúc Âm Thánh Lễ hôm nay: ‘Simon, con Jonah,
con có yêu mến Thày hay chăng?’ Hãy chăn các chiên mẹ của Thày!’ Trước câu hỏi
Chúa hỏi ‘Karol, con có yêu mến Thày hay chăng?’, ĐTGM Krakow đã đáp lại tận đáy
lòng mình rằng: ‘Chúa biết hết mọi sự; Chúa biết rằng con yêu mến Chúa’. Tình
yêu Chúa Kitôđã động lực chính yếu nơi đời sống Đức Thánh Cha thân yêu của chúng
ta. Bất cứ ai đã từng thấy ngài cầu nguyện, những ai đã từng nghe ngài giảng,
đều biết được điều ấy. Nhờ việc ngài sống sâu xa thân mật với Chúa Kitô như thế,
ngài đã có thể mang vác một gánh nặng vượt trên khả năng thuần túy của phàm nhân:
gánh nặng làm mục tử của đàn chiên Chúa Kitô, của Giáo Hội hoàn vũ của mình. Đây
không phải là lúc nói về những gì đặc biệt của giáo triều phong phú này. Tôi chỉ
xin đọc hai đoạn phụng vụ hôm nay nói lên những yếu tố chính yếu nơi sứ điệp của
ngài. Trong bài đọc thứ nhất, Thánh Phêrô – và cùng với Thánh Phêrô cả vị Giáo
Hoàng này nữa – nói rằng ‘Tôi thực sự hiểu được rằng Thiên Chúa đã không tỏ ra
thiên vị, thế nhưng, nơi hết mọi dân nước, ai kính sợ Ngài và làm những gì chân
thực đều đáng được Ngài chấp nhận. Anh em biết rằng sứ điệp Ngài đã gửi đến cho
dân Do Thái, đó là việc rao giảng hòa bình của Chúa Giêsu Kitô – Người là Chúa
của tất cả mọi người’ (Acts 10:34-36). Và trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô –
và cùng với Thánh Phaolô, vị cố Giáo Hoàng của chúng ta, đã kêu gọi chúng ta khi
kêu lên rằng: ‘Anh chị em thân mến, những người tôi yêu thương và mong đợi, là
niềm vui và là vinh dự của tôi, anh chị em hãy đứng vững như thế trong Chúa, hỡi
những người tôi quí mến’ (Phil 4:1).
Hãy theo Thày! Kèm theo lệnh truyền chăm sóc cho đàn chiên của Người, Chúa Kitô
còn báo cho Phêrô rằng thánh nhân sẽ phải chịu một cái chết tử đạo. Bằng những
lời này, những lời kết thúc và tóm tắt cuộc đối thoại về lòng mến yêu cũng như
về lệnh truyền làm chủ chiên hoàn vũ, Chúa Kitô đã nhắc lại một cuộc đối thoại
khác đã diễn ra trong Bữa Tiệc Ly. Bấy giờ Chúa Giêsu đã phán: ‘Nơi Thày đi các
con không thể nào tới được’ Thánh Phêrô thưa Người rằng: ‘Lạy Thày, Thày đi đâu
thế?’ Chúa Giêsu đáp: ‘Nơi Thày đi hiện nay con không thể nào theo Thày nổi đâu;
nhưng sau này con sẽ theo Thày’ (Jn 13:33,36). Từ Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã
tiến tới Thập Giá, tiến tới cuộc phục sinh của Người – Người đã đi vào cuộc vượt
qua của Người; và Thánh Phêrô chưa thể nào theo được Người. Giờ đây, sau cuộc
phục sinh, thời giờ ấy đã đến, thời điểm ‘sau này’ đã đến. Bằng việc chăn dắt
đàn chiên của Chúa Kitô, Thánh Phêrô đã đi vào mầu nhiệm vượt qua, thánh nhân đã
tiến về phía thập tự giá và về cuộc phục sinh. Chúa Kitô đã nói về điều này bằng
những lời: ‘… khi con còn trẻ, con thường tự mình thắt lưng lấy và đi đâu tùy ý
con muốn’ (Jn 21:18). Trong những năm đầu của giáo triều mình, những năm còn trẻ
trung và đầy nhiệt huyết, Đức Thánh Cha đã đi đến tận cùng trái đất theo sự dẫn
dắt của Chúa Kitô. Thế nhưng sau đó, ngài càng ngày càng đi sâu vào cuộc hiệp
thông khổ đau với Chúa Kitô; càng hiểu được sự thật của những lời này: ‘Người ta
sẽ thắt lưng cho con’. Và trong chính cuộc hiệp thông đau khổ này với Chúa Kitô
một cách liên tục và càng gia tăng hơn, ngài đã loan báo Phúc Âm, loan báo mầu
nhiệm về một tình yêu thương cho đến cùng tận (x Jn 13:1).
Ngài đã giải thích cho chúng ta mầu nhiệm vượt qua như là một mầu nhiệm của lòng
thương xót Chúa. Trong tác phẩm cuối cùng của mình, ngài đã viết: Cái giới hạn
áp đặt trên sự dữ ‘tối hậu là Lòng Thương Xót Chúa’ (Hồi Niệm và Căn Tính, trang
60-61). Và khi suy nghĩ về biến cố mạng sống ngài bị cố sát, ngài đã nói: ‘Trong
việc hy hiến mình cho tất cả chúng ta, Chúa Kitô đã cống hiến cho đau khổ một ý
nghĩa mới, mở ra một chiều kích mới, một trật tự mới, đó là trật tự của yêu
thương… Chính cái đau khổ này đốt cháy và thiêu rụi đi sự dữ bằng ngọn lửa yêu
thương và rút ran gay từ tội lỗi cả một cuộc bừng nở đầy những thiện hảo’ (cùng
nguồn, trang 189-190). Được thôi thúc bởi nhãn quan ấy, vị Giáo Hoàng này đã
chịu đựng khổ đau và đã yêu qúi việc hiệp thông với Chúa Kitô, nên đó là lý do
tại sao sứ điệp về khổ đau của ngài cùng việc thinh lặng của ngài là những gì
thất là sống động và hiệu năng.
Lòng Thương Xót Chúa: Đức Thánh Cha đã thấy được cái phản ảnh thuần khiết nhất
của tình thương Thiên Chúa nơi Người Mẹ Thiên Chúa. Ngài là người đã mồ côi mẹ
từ nhỏ đã càng tỏ ra kính mến người mẹ thần linh này hơn nữa. Ngài đã nghe thấy
những lời của Chúa Kitô tử giá như là lời nói với riêng ngài: ‘Này là Mẹ của
con’. Bởi thế, ngài thực hiện như người môn đệ yêu dấu đã làm, đó là ngài đã đem
Mẹ về nhà của ngài (eis ta idia: Jn 19:27) – ‘Totus Tuus – tất cả của con là của
Mẹ’. Và từ người mẹ này, ngài đã học nên giống Chúa Kitô.
Không ai trong chúng ta có thể quên được cảnh tượng diễn ra hôm Chúa Nhật Phục
Sinh vừa rồi trong cuộc đời của ngài, Đức Thánh Cha, đầy những đớn đau, lại tiến
đến cửa sổ Tông Dinh của mình để ban phép lành ‘urbi et orbi – cho thành Rôma và
cho thế giới’ một lần cuối cùng. Chúng ta có thể chắc chắn rằng vị Giáo Hoàng
thân yêu của chúng ta hôm nay đang đứng ở cửa sổ phòng của một Người Cha, ngài
đang trông thấy chúng ta và ban phép lành cho chúng ta. Vâng, xin hãy ban phép
lành cho chúng con, Đức Thánh Cha ơi. Chúng con xin dâng phú linh hồn yêu dấu
của cha cho Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ của cha, Vị đã hướng dẫn cha từng ngày và
là vị giờ đây dẫn cha đến vinh quang đời đời của Con Mẹ là Đức Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta. Amen.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo VIS của Tòa Thánh qua điện thư ngày 7/4/2005.