GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ TƯ 25/4/2007 PHỤC SINH TUẦN 3 |
? Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận: Án Tôn Phong sắp được bắt đầu tiến hành sau 5 năm qua đời
? Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 18/4/2007 – Bài Giáo Lý 36 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền liên quan tới Thánh Clêmentê Alexandria
? Khoa Giáo Hội Học Hiệp Thông: Thao Thức Thần Học của HY Thần Học Gia Joseph Ratzinger
Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận: Án Tôn Phong sắp được bắt đầu tiến hành sau 5 năm qua đời
Vị thư ký của Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Bình cho biết tiến trình phong chân phước của vị hồng y nguyên chủ tịch hội đồng này sắp bắt đầu sau năm năm qua đời của ngài theo qui định của Giáo Luật.
Thật vậy, vị giám mục thư ký này là Giampaolo Crepaldi đã thông báo như vậy khi ra mắt một tác phẩm của ĐHY Tổng Đại Diện Giáo Phận Rôma là Camillo Ruini “Sự Thật về Thiên Chúa và Sự Thật về Con Người: Đức Biển Đức XVI và Những Vấn Nạn Quan Trọng của Thời Đại Chúng Ta”.
Cuốn sách này đang được phát hành như là một phần thuộc một loạt ‘các tạp chí’ của tổ chức Quan Sát Quốc Tế Hồng Y Nguyễn Văn Thuận.
Vị giám mục này đã giải thích rằng: ‘Cuốn sách ấy đã thôi thúc tôi liên kết đề tài về sự thật – sự thật về Thiên Chúa và sự thật về con người – được tác phẩm của ĐHY Ruini bàn tới với đề tài hy vọng rất thân thương với cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận và là cốt lõi linh đạo của ngài cũng như của gương sống đời Kitô giáo và nhân bản của ngài’.
Vị giám mục này, vị đã từng làm việc với cố ĐHY chủ tịch hội đồng và là chủ tịch của tổ chức Quan Sát Nguyễn Văn Thuận, đã giải thích làm sao ‘sự thật và hy vọng lại có những liên hệ sâu xa. Sự sáng suốt của đức tin dẫn tôi tới chỗ mạnh mẽ xác tín rằng sự thật, khi trao thân mình hay tỏ thân mình, cho thấy một ơn gọi và vì thế mang lại niềm hy vọng”.
Vị giám mục này nhấn mạnh tới mối liên kết giữa đề tài của tác phẩm ra mắt và vị hồng y Việt Nam quá cố, khi nói rằng ‘vấn đề lại càng sát cận và có ý nghĩa hơn nữa trước sự kiện là năm nay chúng ta sẽ tưởng niệm đệ ngũ chu niên việc ngài qua đời xẩy ra vào ngày 16/9/2002, và án phong chân phước của ngài đang được bắt đầu’.
Người quá cố được thụ phong lin h mục năm 1953 và được bổ nhiệm làm giám mục Nha Trang năm 1967. Năm 1975 ngài được Đức Thánh Cha Phaolô VI đặt làm tổng giám mục phó cho Tổng Giáo Phận Sài Gòn (tức Thành Phố Hồ Chí Minh hiện nay).
Vào năm 1988, ngài được trả tự do và bị buộc xuất ngoại. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đón nhận ngài ở Thành Vatican và trao phó cho ngài những trách vụ trong Giáo Triều, chỉ định ngài làm chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Bình. Ngài đã được thăng hồng y vào tháng 2/2001, và qua đời hưởng thọ 74 tuổi.
Vào tháng 3/2000, ngài đã giảng phòng cho Giáo Triều Rôma có cả Đức Gioan Phaolô II tham dự, chia sẻ nhiều kinh nghiệm thiêng liêng ngài phải chịu trong tù. ‘Chứng Từ Hy Vọng’ là tập sách được phát hành như một tổng hợp của các bài suy tư chia sẻ cho tuần phòng này.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 24/4/2007
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 18/4/2007 – Bài Giáo Lý 36 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền liên quan tới Thánh Clêmentê Alexandria
Anh Chị Em thân mến,
Sau một thời gian của các ngày lễ, chúng ta trở lại với buổi giáo lý bình thường của chúng ta, cho dù quảng trường này vẫn còn được trưng bày mầu sắc của các ngày lễ ấy. Qua những buổi giáo lý này, như tôi nói, chúng ta trở lại đề tài được bắt đầu trước đây. Chún g ta đã nói về 12 Vị Tông Đồ, rồi tới thành phần môn sinh của các vị tông đồ, giờ đây chúng ta hướng tới những nhân vật quan trọng của Giáo Hội sơ sinh, của Giáo Hội cổ thời.
Lần vừa rồi chúng ta đã nói tới Thánh Irênê thành Lyon, và hôm nay chúng ta sẽ nói về Thánh Clêmentê thành Alexandria, một đại thần học gia là vị có thể đã được sinh ra ở Nhã Điển, khoảng thời điểm bước sang thế kỷ thứ hai. Ở Nhã Điển, ngài đã chọn học triết lý là môn giúp ngài trở thành một trong những cổ động viên quan trọng của việc đối thoại giữa đức tin và lý trí theo truyền thống Kitô Giáo.
Trong khi còn là một người trẻ, ngài đã di chuyển tới Alexandria, ‘thành phố tiêu biểu’ cho mối liên hệ tốt đẹp giữa các nền văn hóa đánh dấu thời đại văn hóa Hy Lạp. Ngài đã là môn sinh của Pantaenus và thậm chí thay thế ông trong việc dẫn dắt ngôi trường giáo lý này. Nhiều nguồn sử liệu cho rằng ngài đã được thụ phong linh mục. Trong cuộc bắt bớ trong thời khoảng 202-203, ngài lánh nạn tới Alexandria và trú ẩn ở Caesarea, ở Cappadocia, nơi ngài qua đời vào năm 215.
Những tác phẩm quan trọng nhất của ngài vẫn còn tồn tại đó là cuốn ‘Huấn Dụ’, ‘Hướng Viên’ và ‘Hợp Tuyển’. Mặc dù dường như tác giả không có chủ ý các tác phẩm này cũng làm thành một bộ ba thực sự, đủ để hiệu nghiệm dìu dắt việc trưởng thành thiêng liêng của người Kitô hữu.
‘Huấn Dụ’, như chính nhan đề bao hàm, là tác phẩm khuyến dụ ai bắt đầu và tìm kiếm con đường đức tin. Ngoài ra, ‘Huấn Dụ’ còn ăn khớp với một con người, đó là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Đấng là ‘Huấn Dụ Gia’ của những ai nhất quyết bắt đầu cuộc hành trình tiến tới Chân Lý.
Chính Chúa Kitô sau đó trở thành ‘Nhà Giáo Dục’, tức là ‘Vị Hướng Dẫn’ của những ai, nhờ Phép Rửa, trở nên con cái nam nữ của Thiên Chúa. Sau hết, chính Chúa Kitô, cũng là ‘Didascalo’, tức là ‘Thày’, vị đề ra những giáo huấn sâu xa nhất. Những giáo huấn này được thu thập lại thành tác phẩm thứ ba của Thánh Clêmentê, đó là cuốn ‘The Stromata’, một tiếng Hy Lạp có nghĩa là ‘Hợp Tuyển’. Nó là một hợp tuyển không theo hệ thống, song giải quyết một số biện luận khác nhau, và là hoa trái trực tiếp của việc Thánh Clêmentê thông thường giảng dạy.
Cùng nhau, các bài giáo lý của Thánh Clêmentê giúp cho thành phần dự tòng cũng như những người lãnh nhận phép rửa từng bước một, vì, bằng đôi ‘cánh’ đức tin và lý trí, chún g dẫn tới chỗ nhận biết Chân Lý là Chúa Kitô, Lời Thiên Chúa. ‘Kiến thức đích thực’ – lời phát biểu Hy Lạp này có nghĩa là ‘kiến thức’ hay ‘tri thức’ – chỉ có thể thấy được nơi ngôi vị sự thật ấy. Đó là lâu đài được lý trí xây dựng theo tác động của nguyên lý siêu nhiên này. Bởi thế, ‘kiến thức’ đích thực là một thứ phát triển của đức tin xuất phát từ Chúa Kitô trong các linh hồn liên kết với Người. Thánh Clêmêntê sau đó đã xác định hai trình độ của đời sống Kitô hữu.
Trình độ thứ nhất: thành phần Kitô hữu tin tưởng sống đức tin một cách bình thường, mặc dù chân trời của họ luôn hướng tới sự thánh đức. Trình độ thứ hai là ‘thành phần hiểu biết - gnostics’, tức là những ai sống cuộc đời trọn lành thiêng liêng. Ở bất cứ trường hợp nào, Kitô hữu cũng phải bắt đầu ở cùng một nền tảng đức tin và bằng đường lối tìm kiếm, họ cần phải để mình được Chúa Kitô dẫn dắt, nhờ đó mới đạt tới kiến thức Sự Thật cùng với những sự thật làm nên nội dung của đức tin.
Kiến thức này, Thánh Clêmentê nói với chúng ta rằng, đối với linh hồn, trở thành một thực tại được sống: nó không phải chỉ là một lý thuyết. Trái lại, nó là một năng lực sự sống, một hiệp nhất với tình yêu biến đổi. Kiến thức về Chúa Kitô này không phải chỉ là một tư tưởng, mà là một tình yêu mở mắt, một tình yêu biến đổi con người và là một tình yêu tạo nên mối hiệp thông với ‘Logos’, Lời thần linh là sự thật và sự sống. Trong mối hiệp thông này, mối hiệp thông là kiến thức trọn hảo và là tình yêu, người Kitô hữu trọn lành tiến đến chỗ chiêm ngưỡng và hiệp nhất với Thiên Chúa.
Sau hết, Thánh Clêmentê tiếp tục giáo huấn mà theo đó đích điểm cuối cùng của con người là ở chỗ nên giống Thiên Chúa. Chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Thiên Chúa, thế nhưng đó cũng là một thử thách, là một hành trình; thật vậy, mục tiêu của đời sống, mục đích tối hậu của con người là ở chỗ làm cho mình nên giống Thiên Chúa. Điều này trở thành khả dĩ nhờ tính chất tương đồng với Ngài mà con người đã lãnh nhận vào lúc được tạo thành là những gì nhờ đó họ đã là hình ảnh của Thiên Chúa. Tính chất tương đồng này giúp họ có thể biết được các thực tại thần linh là những thực tại con người gắn liền trước hết nhờ đức tin, và bằng việc sống đức tin, thực hành các nhân đức, họ có thể tăng trưởng cho tới khi họ tiến tới chỗ chiêm ngưỡng Thiên Chúa.
Theo chiều hướng ấy, trong cuộc hành trình nên trọn lành, Thánh Clêmentê cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của những đòi hỏi về luân lý như là đối với những đòi hỏi về tri thức. Cả hai đi liền với nhau, vì không thể nào biết được sự thật mà lại không sống sự thật, hay không thể nào sống sự thật mà lại không biết sự thật. Không thể nào làm cho mình giống như Thiên Chúa và chiêm ngưỡng Ngài chỉ bằng một thứ kiến thức hữu lý: để đạt được mục tiêu này, cần phải sống theo ‘Logos’, một đời sống theo chân lý. Bởi thế, các việc thiện cần phải kèm theo kiến thức về lý trí nữa, như bóng đi kèm với thân thể vậy.
Có hai nhân đức đặc biệt trang điểm cho linh hồn của ‘thành phần thực sự hiểu biết’. Nhân đức thứ nhất là tự do không bị đam mê chi phối (‘apátheia’); nhân đức thứ hai là yêu thương, đam mê đích thực, một đam mê bảo đảm mối hiệp nhất thân mật với Thiên Chúa. Tình yêu làm phát sinh niềm an bình trọn vẹn, và giúp cho ‘thành phần hiểu biết thực sự’ có thể đương đầu với những hy sinh lớn lao nhất, bao gồm cả việc hy sinh tận cùng để theo Chúa Kitô, và làm họ tới vươn lên tới trình độ nhân đức sống động. Nhờ thế, lý tưởng về đạo đức của khoa triết học cổ xưa, tức là tình trạng tự do không bị ràng buộc bởi các đam mê, được Thánh Clêmentê tái xác định và được tình yêu bổ khuyết, trong tiến trình khôn cùng dẫn đến chỗ nên giống như Thiên Chúa.
Theo đó, tư tưởng gia thành Alexandria đã nuôi dưỡng cơ hội cả thể thứ hai trong việc đối thoại giữa sứ điệp Kitô Giáo với triết lý Hy Lạp. Chúng ta biết rằng Thánh Phaolô, ở Công Đường Nhã Điển, nơi Thánh Clêmentê vào đời, đã thực hiện nỗ lực lần đầu đối thoại vớio khoa triết lý Hy Lạp, và hầu như đã bị thất bại, vì thính giả của ngài đã nói: ‘Chúng tôi sẽ nghe ngài vào một lần khác’. Giờ đây, Thánh Clêmentê lại tiếp tục cuộc đối thoại ấy, và làm cho nó trở thành hết sức sang quí theo truyền thống triết lý Hy Lạp.
Như vị tiền nhiệm khả kính của tôi là Đức Gioan Phaolô II đã viết trong thông điệp ‘Đức Tin và Lý Trí’, Thánh Clêmentê thành Alaxandria đã tiến đến chỗ giải thích về triết lý như là ‘việc hướng dẫn dọn đường cho đức tin Kitô Giáo’ (số 38). Thật vậy, Thánh Clêmentê thậm chí còn khẳng định rằng Thiên Chúa đã ban cho người Hy Lạp triết lý ‘như Giao Ước riêng của họ’ (Stramata, 6,8,67,1).
Đối với ngài, truyền thống triết lý Hy Lạp, hầu như là Lề Luật đối với dân Do Thái, là một môi trường cho ‘mạc khải’. Cả hai đều là những luồng cuối cùng hướng tới chính ‘Logos’. Thánh Clêmentê cương quyết tiếp tục theo con đường của những ai muốn ‘hữu lý hóa’ niềm tin của mình nơi Chúa Giêsu Kitô.
Ngài có thể trở thành một mẫu gương cho Kitô hữu, cho thành phần giáo lý viên và cho các thần học gia của thời đại chúng ta, thành phần được Đức Gioan Phaolô II huấn dụ trong cùng một bức thông điệp là hãy ‘phục hồi và thể hiện một cách trọn vẹn chiều kích siêu hình của chân lý để có thể tiến tới một cuộc đối thoại nhận thức cần thiết với […] tư tưởng triết lý hiện đại’.
Chúng ta kết luận bằng một trong những lời bày tỏ từ ‘Lời Cầu cùng Chúa Kitô là Logos’ nổi tiếng được Thánh Clêmentê dùng để đúc kết cuốn ‘Hướng Viên’ của ngài. Lời cầu của ngài như sau: ‘Xin hãy chiếu cố đến con cái của Chúa… xin hãy cho chúng con sống trong an bình, tiến tới thành đô của Chúa, băng ngang qua những giòng cuồng lưu tội lỗi mà không bị chìm đắm trong đó, được chuyển đưa cách thanh thản trong Thánh Linh, trong Đức Khôn Ngoan khôn tả: chúng con, cho tới giây phút cuối cùng, ngày đêm dâng lên Chúa bài thánh ca tạ ơn một Chúa Cha duy nhất … Chúa Con, Đấng Hướng Dẫn và là Thày, cùng với Chúa Thánh Thần, Amen!’ ("Instructor," 3, 12, 101).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 18/4/2007
Khoa Giáo Hội Học Hiệp Thông: Thao Thức Thần Học của HY Thần Học Gia Joseph Ratzinger
Theo người dịch bài phỏng vấn này thì nếu Đức Gioan Phaolô II là một triết gia về nhân bản Kitô giáo, với một học thuyết “thần học về thân thể”, thì Tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI là một thần học gia về khoa giáo hội học hiệp thông. Phải chăng, chính vì thế, vì khả năng riêng của mình, một khả năng như mầm mống ơn gọi nơi bản thân mình, mỗi vị đã được Thiên Chúa kêu gọi đến để thực hiện sứ vụ hợp với khả năng của từng vị: Nếu Đức Gioan Phaolô II là vị giáo hoàng “vui mừng và hy vọng” của “Giáo Hội trong Thế Giới Hiện Đại, thì Tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI là vị giáo hoàng của một Hiệp Nhất Kitô Giáo và cho một Tân Âu Châu.
Thật vậy, ông David Schindler, chủ nhiệm tạp chí thần học Hiệp Thông và là khoa trưởng hàn lâm Viện Gioan Phaolô II, đã nhận định về vị hồng y nay làm Giáo Hoàng Biển Đích XVI. Ông này đã chia sẻ với mạng điện toán toàn cầu Zenit (được phổ biến hôm Chúa Nhật 1/5/2005) trong một cuộc phỏng vấn về khoa giáo hội vốn là tâm điểm của những thao thức thần học nơi vị thần học gia kiêm tổng trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin này từ khi còn là một linh mục trẻ ở Công Đồng Chung Vaticanô II, một cuộc phỏng vấn đã được Zenit phổ biến ngày 1/5/2005.
Vấn: Mối liên hệ của ĐHY Ratzinger với tập san Hiệp Thông này ra sao? Ông đã có cảm nghiệm như thế nào khi hoạt động với ngài về tờ tập san này?
Đáp: Hiệp Thông là tờ tam cá nguyệt san Điểm Báo Thần Học Quốc Tế được thành lập từ năm 1972 bởi các thần học gia Hans Urs von Balthasar, Henri de Lubac và Joseph Ratzinger. Từ khi thực hiện ấn bản bằng Đức ngữ, có thêm 13 ấn bản khác nữa, trong đó có cả ấn bản Balan do Hồng Y Karol Wojtyla thực hiện.
Ngài Ratzinger vẫn là một tay tổ chức chủ động của tờ tập san này, viết và duyệt bài vở cho tới khi ngài được bổ nhiệm làm tổng trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin 1981. Mặc dù vào lúc ấy, trách nhiệm của ngài cho không phép ngài chính thức tham gia vào tờ Hiệp Thông nữa, ngài vẫn thiết tha quan tâm tới hoạt động của tờ tập san này.
Vào năm 1992, ngài đã đọc bài diễn văn chính nhân dịp kỷ niệm 20 năm tờ Hiệp Thông ở Rôma. Bài diễn văn này đã được phổ biến trong ấn bản Hoa Kỳ của tập san và nhiều bài của vị hồng y này tiếp tục được phổ biến trên Hiệp Thông.
Đầu tiên tôi được nhà thần học Balthasar giới thiệu với ĐHY Ratzinger ở Rôma vào Tháng 9/1985 trong dịp mừng kỷ niệm 80 tuổi của nhà thần học này do ĐHY Ratzinger tổ chức. Từ đó và trong những cuộc gặp gỡ với vị hồng y này vào những năm sau đó, tôi đã thấy ngài là một con người thật khiêm nhượng và hết sức thông minh, những tặng ân được ngài hết lòng đem ra phục vụ Chúa Kitô và Giáo Hội.
Như hết mọi người biết ngài đều cảm thấy ngài có một thái độ nhún nhường và hiền lành, và người ta cảm thấy ngỡ ngàng trước tính cách đơn thành trẻ thơ nơi ngài, về việc hết sức chăm chú nơi vấn đề đang được quan tâm. Ngài là một người hoàn toàn không màng gì tới những lớp vỏ quyền lực, thật vậy, chính nhờ khiêm nhượng mà ngài mới có được một đức can trường như thế để bênh vực sự thật.
Những chủ trương của ngài, mặc dù rõ ràng và sắc bén, cũng không phải là những gì được thực hiện vì ngài cho bằng bao giờ cũng để phục vụ cho một cái gì đó lớn lao hơn cả bản thân ngài, đó là cái nguyên vẹn của những gì ngài muốn bảo toàn.
Vấn: Ý tưởng về “Hiệp thông” hiển nhiên là ý tưởng chính yếu cho
tờ tập san của ông. Thế nhưng, ý nghĩa về thần học của từ ngữ này nghĩa là gì?
Và theo nhãn quan của Giáo Hoàng Biển Đức XVI thì nó mang ý nghĩa ra sao?
Đáp: Chữ “hiệp thông”, theo ý nghĩa căn bản của mình, tìm cách tái ý thức bản chất của Giáo Hội như là một cuộc hiệp thông con người. Mối hiệp thông yêu thương này bao gồm cơ cấu giáo phẩm Thánh Phêrô là cơ cấu bảo toàn cho tính cách khách quan của Giáo Hội.
Đã có nhiều cuộc bàn luận theo sau Công Đồng Chung Vaticanô II về ý niệm “Dân Chúa” như là ý nghĩa nổi nhất về Giáo Hội.
“Hiệp thông” không nghịch với ý niệm này khi nó biến đổi ý niệm ấy, bằng cách nhấn mạnh đến việc khởi xướng của Thiên Chúa, Đấng đã thiết lập và gìn giữ việc hiệp nhất của Giáo Hội nơi Chúa Giêsu Kitô với việc hợp tác của Đức Maria Mẹ Người, vị đã thưa tiếng ‘xin vâng’ để làm cho bản thân Mẹ trở thành ngôi nhà đầu tiên của Thiên Chúa trên thế gian – bởi thế Mẹ là ‘hình ảnh’ căn bản của Giáo Hội.
Ý niệm về Giáo Hội như ‘mối hiệp thông’ (communio), như thế, tương phản với ý niệm về Giáo Hội như là ‘cộng đồng’ (congregatio). Vì ‘communio’ nhấn mạnh đến bản chất của Giáo Hội như là tặng ân Chúa ban, những gì được thiết định “từ thượng giới”, trong khi đó ‘congregatio’ nói đến một cộng đồng xuất thân ‘từ hạ giới’ theo quyết định của con người muốn có một cộng đồng theo cách thức của một cơ cấu dân chủ.
Nhận thức qui thần này về Giáo Hội như là bí tích của tình yêu Chúa Kitô đã từng là đặc tính được ấp ủ nơi đời sống của Hồng Y Ratzinger. Tôi nghĩ rằng người ta có lý để nói được rằng khoa giáo hội học luôn là tâm điểm nơi những thao thức thần học của ngài, và đã được cho thấy nơi hoạt động quan trọng của ngài ở chính Công Đồng Chung Vaticanô II, mặc dù bấy giờ ngài chỉ mới ở vào lứa tuổi giữa tam thập.
Vấn: Làm thế để “hiệp thông” trở thành cốt lõi cần được thể hiện
nơi đời sống của Giáo Hội, như Hồng Y Ratzinger đã nói?
Đáp: Mối hiệp thông con người làm nên Giáo Hội là hình ảnh của mối hiệp thông Ngôi Vị của Thiên Chúa Ba Ngôi thần linh. Đời sống của Giáo Hội tự bản chất được phát xuất từ từ sự sống của Thiên Chúa, trong Chúa Kitô và nhờ Chúa Kitô cũng như theo lời Người hứa ở cùng Giáo Hội, một hiện diện sống động nơi Giáo Hội.
Giáo Hội xuất phát từ cung lòng của Thiên Chúa Ba Ngôi, từ sự sống của tình yêu thần linh, một tình yêu được mạc khải nơi Chúa Kitô và qua Chúa Kitô nhờ đức tuân phục kính mến của lời Mẹ Maria xin vâng.
Vấn: Mối hiệp thông này có liên hệ ra sao với Công Đồng Chung
Vaticanô II?
Đáp: Mối hiệp thông được thiết lập là để giúp vào việc canh tân giáo hội và văn hóa được Công Đồng này kêu gọi. Chủ ý không phải chỉ để nói lên và khai triển ý nghĩa đích thực của Công Đồng này, mà còn để giúp vào việc truyền bá ‘văn minh yêu thương’ được Công Đồng này mong ước nữa.
Mục đích căn bản của tờ tập san này, theo chiều hướng ấy, là để chứng tỏ cho thấy những kho tàng về thần học và linh đạo nơi truyền thống giáo huấn của Giáo Hội có thể giúp chúng ta đương đầu thẳng với những vấn đề trầm trọng của nền văn hóa đương đại, cũng như để duy trì niềm hy vọng khi phải đối diện với những vấn đề ấy.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến