GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ BẢY 23/6/2007 TUẦN 11 THƯỜNG NIÊN |
? CHA ĐAMINH MARIA TRẦN ĐÌNH THỦ LÝ TƯỞNG THÁNH ĐỒNG CÔNG: Cha Thủ - Linh Hướng Thánh
? CHA ĐAMINH MARIA TRẦN ĐÌNH THỦ LÝ TƯỞNG THÁNH ĐỒNG CÔNG: Cha Thủ - Ảnh Hưởng Thánh
? CHA ĐAMINH MARIA TRẦN ĐÌNH THỦ LÝ TƯỞNG THÁNH ĐỒNG CÔNG: Cha Thủ - Mầm Mống Thánh
MAGNIFICAT
CÙNG MẸ CẢM TẠ NGỢI KHEN CHÚA
CHA ĐAMINH MARIA TRẦN ĐÌNH THỦ, CMC
Linh Mục Sáng Lập Dòng Đồng Công đã về với Chúa
tại Việt Nam vào lúc 8 giờ 45 phút tối ngày Thứ Năm 21/6/2007
hưởng thọ 101 tuổi (29/11/1906-21/6/2007)
|
Xin Thành Kính Phân Ưu
với chung Hội Dòng Đồng Công
cách riêng Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ.
Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Đồng Công Maria
Xin Chúa cho cuộc đời thánh đức của vị linh mục
suốt cuộc đời say mê thánh hóa bản thân
và huấn thánh Việt Nam
được trổ sinh muôn vàn hoa trái Lý Tưởng Thánh Đồng Công!
CHA ĐAMINH MARIA TRẦN ĐÌNH THỦ LÝ TƯỞNG THÁNH ĐỒNG CÔNG: Cha Thủ - Linh Hướng Thánh
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Đ |
ầu năm 1972, khi tôi đang ở Di Linh Lâm Đồng Bảo Lộc, đầu tiên có phận sự vừa làm vườn ở đồn điền Thiên Mẫu của nhà dòng, sau đó được tạm nghỉ để lấy giờ tự học thi tú tài hai. Sáng hôm đó, bất ngờ tôi được tin Anh Cả muốn gặp tôi. Tôi đã lập tức đến gặp ngài ngay. Không ngờ, đây là lần gặp gỡ quyết liệt nhất và quan trọng nhất cho cuộc đời tu trì của tôi, cho cuộc đời nên thánh của tôi, tác dụng của nó thậm chí còn ảnh hưởng sâu đậm cho đến tận bây giờ và mãi mãi.
Tôi còn nhớ, cuộc gặp gỡ hôm ấy diễn ra, khi mọi người đã đi làm công tác (ngoài vườn), hai cha con chúng tôi, đúng hơn, nói theo tinh thần bình dân của Dòng Đồng Công, hai Anh em chúng tôi, đi dọc theo hành lang hội trường, nối liên giữa nhà cơm và phòng ngủ, một tác động đi lại để nói chuyện với một “Đấng Thánh” như Cha Đaminh Maria Trần Đình Thủ bấy giờ, được tôi coi như là một cuộc hành trình Huấn Thánh, như cuộc hành trình của thành phần môn đệ về làng Emmau đang ở trong tâm trạng bối rối, cần phải được Chúa Kitô Phục Sinh đồng hành soi đường chỉ bước, trước khi có thể trở thành chứng nhân cho Người giữa các vị tông đồ (x Lk 24:13-35). Chúa Kitô Phục Sinh đã tự động hiện ra với hai môn đệ này thế nào, Cha Thủ cũng tự động đến với tôi như thế, chứ không phải tôi xin gặp ngài như những lần trước. Chúa Kitô Phục Sinh đã đến để làm cho các môn đệ của Người cảm thấy lòng họ nóng lên và cuối cùng nhận ra Người thế nào, Cha Thủ cũng làm cho lòng tôi trở nên khác thường, và cuối cùng tôi đã thực sự gặp được Chúa Kitô, với một cuộc đời hoàn toàn biến đổi như thế.
Đúng vậy, vì hoàn toàn hết sức thương yêu tôi, lo Huấn Thánh cho tôi, một cách tận tình, một cách kỹ lưỡng, một người em ngài vốn thấy thật sự là ngay từ khi nhập Thử Viện ở Nhà Đá Bình Định Qui Nhơn vào mùa hè năm 1966 đã tỏ ra hết sức hăng say nên thánh, chẳng thiết gì cả, sẵn sàng xung phong làm tất cả những gì và bất cứ những gì không ai chịu làm hay không ai dám làm, một thái độ Cha Thủ cảm thấy như điều kiện tối cần nơi thành phần muốn theo Chúa với ngài, muốn theo Lý Tưởng Thánh Đồng Công như ngài, mà Cha Thủ đã gọi tôi tới và hết sức nghiêm thẳng chưa từng thấy, trong việc vạch ra cho tôi biết là tôi có 3 “tội”: tội thứ nhất là tội ham học (tức phạm tới tinh thần Tận Hiến của dòng), tội thứ hai là tội chống đối (tức phạm tới tinh thần Bỏ Mình của dòng), và tội thứ ba là tội nghĩa riêng (tức phạm tới tinh thần Yêu Nhau của dòng).
Thú thật, bấy giờ, tâm thần tôi hoàn toàn như bị tẩu hỏa nhập ma, choáng váng, quay cuồng, như trời rung đất sập. Bởi vì, tôi cảm thấy mình hoàn toàn bị oan. Chẳng có một tội nào trong ba tội này hết… Thế là tôi nghẹn ngào không nói lên lời. Chỉ biết bật khóc. Khóc nức nở. Khóc chưa từng thấy trong cuộc đời tu của mình. Tôi cảm thấy nhức nhối quá sức. Tôi cảm thấy tủi nhục quá đi. Cả cuộc đời tu của mình, cho tới bấy giờ, tôi chỉ một lòng theo Chúa, hết sức ham ước nên thánh, lúc nào cũng sẵn sàng làm tất cả những gì Chúa muốn qua bề trên, dù những điều ấy vượt khả năng của mình, chấp nhận tất cả những gì là thiệt thòi nhất cho mình, để đổi lấy Lý Tưởng Thánh Đồng Công v.v. Thế mà giờ đây, vị được tôi tin tưởng nhất, kính yêu nhất, cảm phục nhất, cần nương tựa nhất, lại đẩy tôi ra, lại gán ghép cho tôi những điều chẳng những tôi thật sự không có mà còn phạm đến tôi nữa. Cách riêng vấn đề ham học, một việc chính ngài bảo tôi học chứ tôi đâu có coi trọng và van xin ngài cho đâu!
Cuối cùng, tôi đã lấy lại được bình tĩnh và đã thưa với ngài trong nước mắt rằng: "Nếu Anh không tin em, thì em chỉ biết chứng minh bằng việc sẵn sàng bỏ học ngay bây giờ". Theo chiều hướng Thánh trước hết và Thánh trên hết, ngài đồng ý liền. Còn về 2 tội kia, tôi cũng thành thật trình bày với ngài là tôi cảm thấy không có, và xin ngài cho tôi biết rõ vấn đề để tôi có thể sửa mình một cách cụ thể và đúng như ý của ngài hơn. Về tội chống đối, ngài cho tôi biết rằng tôi lập bè kéo cánh chống lại đội trưởng của tôi. Về tội nghĩa riêng, ngài cho tôi biết là tôi yêu riêng một người anh em trong đội, được ngài nêu tên đàng hoàng, (lớn hơn tôi 2 tuổi). Sau khi nghe thêm những chi tiết này của ngài, theo linh tính tự nhiên, tôi biết ngay được ai là người đã “tâu” với ngài về tôi với 3 “tội” đồ như thế. Thế nhưng, vì Lý Tưởng Thánh Đồng Công, tôi chấp nhận tất cả, chỉ chân thành minh oan cho mình về tội nghĩa riêng mà thôi, nên ngài đã tỏ ra thông cảm. Còn tội chống đối, với con người nhiệt thành đóng góp để xây dựng đoàn thể của mình, (nhóm anh em cùng khấn một lần với nhau), tôi xin chấp nhận những nhận định bề ngoài ấy của anh đội trưởng “nạn nhân”. Kết quả ngài đã ra việc “đền tội” cho tôi như thế này: hằng ngày, sáng đi làm vườn (tức không còn học thi tú tài II nữa), chiều về tĩnh tâm một mình (ở đâu đó tùy tôi), tối họp hành trong đội không được phát biểu gì nữa (được nghe mà không được nói).
Thế là thằng bé Gióp tôi bắt đầu đi vào xóm nhỏ điêu tàn. Âm thầm sống những ngày đền tội. Không ngờ, theo ý Chúa Quan Phòng vô cùng mầu nhiệm, những ngày đền tội ấy lại là những ngày thần tiên nhất cho cuộc đời tu trì và sống đức tin của tôi. Chỉ một tháng sau, tôi đột nhiên hiểu được một câu Phúc Âm rất quen thuộc mà lại tưởng là tầm thường nhưng bấy giờ đã hiện lên trong tâm trí tôi cả một linh đạo, cả một con đường Nên Thánh, đó là câu: “Hãy chọn chỗ rốt bét” (Lk 14:10). Đây là câu Phúc Âm thứ hai đã thực sự làm biến đổi hẳn cuộc đời của tôi. Câu thứ nhất là “được lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn nào được ích chi” (Mt 16:26). Câu Phúc Âm thứ nhất này đang vang vào tai tôi, khi tôi còn là một thiếu niên trung học, đã biết yêu thương và đang ôm đủ thứ mộng của một con người trẻ của thời bấy giờ, thậm chí còn là một thiếu niên tội lỗi dâm ô, và chỉ sau khi nghe thấy câu ấy, từ lời giảng của một vị linh mục trong Lễ Đêm Giáng Sinh ở sân trường Đức Minh Tân Định Sài Gòn năm 1963, tôi đã cảm thấy mọi sự thế gian là giả trá, là hư vô, kể cả tình yêu phái tính đang lôi cuốn tôi bấy giờ, đến độ, tôi không thể cầm lòng được nữa, đã tâm sự thốt lên với hai người bạn thân nhất của tôi đang tham dự Thánh Lễ bấy giờ rằng: “Tao muốn đi tu ngay bây giờ!”.
Nếu câu Phúc Âm thứ nhất ấy đã hoàn toàn biến đổi cuộc đời yêu cuồng sống vội của tôi, cuộc đời hoàn toàn chẳng biết Chúa là ai, chẳng biết mình là gì, ngoài thiên đường trần thế, cuộc đời bỏ lễ Chúa Nhật nhiều lần của tôi, lười lĩnh kinh hạt, bê tha tội lỗi v.v. từ đó đã trở thành một thiếu niên tự động dậy sớm đi lễ hằng ngày, âm thầm cầu nguyện trong ngày, cho đến khi nhập Dòng Đồng Công ngày 21/6/1964 thế nào, thì câu Phúc Âm thứ hai sau đó 9 năm, cũng biến đổi một con người tu sĩ (sắp vĩnh thệ vào ngày 22/8/1973) của tôi như vậy. Phải thú thật là khi mới vào tu Dòng Đồng Công, tôi rất ư là sốt sắng, đến độ không muốn nói chuyện với ai, chỉ sợ chia trí không thể kết hợp với Chúa, kiểu kết hợp khi còn là đệ tử bấy giờ tôi cứ nghĩ phải bằng trí khôn hơn bằng ý muốn, cần phải giữ lặng mới làm được, và đến độ ăn uống kham khổ hơn mọi người, cho tới khi biết được là phải có phép giám đốc đệ tử mới được làm như thế. Tôi luôn được vị giám đốc đệ tử này thường khuyên bảo tôi cần phải sửa đổi một trong những điều chính yếu là “hãy cố gắng sống hòa mình với mọi người, đừng lập dị”.
Ngoài ra, vì sốt sắng “quá” như vậy, dù chưa được thực sự lên tới bậc tu đức tột đỉnh là “tầng trời thứ ba” (2Cor 12:2) như Thánh Phaolô, tôi quả thực cũng có “những ý nghĩ kiêu căng” (Lk 1:51), không biết có giống như trường hợp của Vị Đại Tông Đồ Dân Ngoại này hay chăng (x2Cor 12:5-10), chỉ biết rằng tôi rất hay phán đoán xấu cho anh em tôi, khinh thường những người không được sốt sắng như mình. Cho đến khi, phải, cho đến khi Chúa mở mắt tôi ra, trong thời gian tôi ở Tập Viên năm 1966, bằng cách, Chúa để cho tôi cũng bị anh em mình xét đoán xấu lại đúng y như những gì tôi đã đoán xét xấu cho họ. Từ đấy, tôi cảm thấy hết sức thấm thía câu Phúc Âm “các con lấy đấu nào đong cho ai thì cũng bị đong lại cho đấu ấy” (Mt 7:2), để rồi tôi không còn dám khinh khi một ai nữa, trái lại, rất thông cảm với mỗi người và mọi người.
Tới giai đoạn tu đức này, giai đoạn từ mình vươn ra với tha nhân như thế, Chúa còn kéo tôi gần đến ngài nữa, khi tôi cảm thấy rằng chính lúc tôi làm bậy, ở những tác động phán đoán xấu xa và khinh thường anh em mình như thế, Chúa vô cùng nhân từ chẳng những không phạt tôi, lại còn thương tôi, làm lành thánh hóa tôi nữa, đúng hơn, phải nói rằng Ngài đã phạt tôi (khi để tôi bị xét đoán xấu lại và bị anh em xa cách), nhưng chính cái phạt ấy lại là tác động yêu thương nhân ái của Ngài, nhờ đó, chính từ cái xấu của mình, tôi biết mình hơn, biết người hơn và biết Chúa hơn. Đó là cảm nghiệm thần linh thứ hai tôi có được trong cuộc đời nên thánh của mình, cảm nghiệm chẳng những về mối liên hệ hiệp thông giữa tôi với Chúa cùng tha nhân, mà còn về Tình Yêu Thiên Chúa có thể biến đổi mọi sự dữ do con người làm ra để biến thành sự lành cho họ.
Thế là, trong tiến trình nên thánh của mình, theo sự dẫn dắt của Thần Linh, tôi đã đi từ cảm nghiệm thần linh thứ nhất “được lợi lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích chi”, liên quan đến việc từ bỏ thế gian mà theo Chúa, sang đến cảm nghiệm thần linh thứ hai, liên quan tới việc sống với Chúa và tha nhân, đến cảm nghiệm thần linh thứ ba “hãy chọn chỗ rốt bét mà ngồi”, liên quan đến việc phó thác cậy trông, tức là đừng bao giờ tự động tìm cách đưa mình lên, dù là những gì thực sự rất hợp với Ý Chúa, như trường hợp của hai nguyên tổ muốn tự động lên bằng Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa (x Gen 3:1-7), Đấng quả thực muốn họ nên trọn lành như Ngài (x Mt 5:48), một việc mà chỉ có Ngài mới có thể làm được cho con người và nơi từng người vào thời điểm của Ngài, trái lại, cứ sống trọn “thân phận thấp hèn tôi tớ” (Lk 1:48) của mình, như Mẹ Maria, còn việc được “mời lên chỗ trọng vọng hơn” (Lk 14:10) là việc của Chúa chứ không phải của mình. Tôi đâu ngờ cảm nghiệm thần linh thứ ba này là cảm nghiệm Chúa sửa soạn cho tôi trước khi Ngài muốn sử dụng tôi, muốn sai tôi đi làm việc cho Ngài, trước khi Ngài mời tôi lên chỗ cao hơn, để sau đó, cho dù có ở chỗ được mời lên cao hơn như vậy, tôi cũng không thể vênh vang tự đắc với ai, mà vẫn cứ sống ở “chỗ rốt bét của mình” là lòng khiêm nhượng và “đức tin tuân phục” (Rm 1:5).
Đúng thế, chỉ sau hai tháng sống đời tu trì đền tội hết sức là thần tiên như vậy, đột nhiên, tôi được “con người tội lỗi nhất” là Anh QP gọi tôi là người em đang trong thời gian “đền tội” vô hạn định, tới phòng riêng của ngài vào buổi chiều hôm ấy. Không phải là để thẳng thắn nói lời tha án cho tôi, nhưng qua những gì ngài quyết định, gián tiếp ngài đã công nhận là thời kỳ đền tội của tôi đã xong, tôi thực sự không phải là kẻ ham học như ngài ra phán quyết. Bấy giờ, sau giây phút trầm ngâm, ngài nhìn tôi mà nói: “Anh muốn sai em đi giúp tiểu chủng viện Simon Hòa Đà Lạt!” Lại một cơn bàng hoàng sửng sốt đến tột độ khác đến với tôi. Lần này không phải là một cơn chấn động lở đất như lần trước, liên quan tới buổi gặp gỡ “kết tội” và xử án tôi, mà là một cơn sấm sét long trời, liên quan tới một sứ vụ từ trời, hoàn toàn vượt khả năng và ước tưởng của tôi. Ở chỗ, tôi đang mắc đủ thứ tội phản với các tinh thần chính yếu của nhà dòng, mà nay lại là người được sai đi mang chuông đánh nước người. Vả lại, tôi cũng chẳng có đủ bằng cấp và khả năng kiến thức để vào giúp một tiểu chủng viện là nơi đào tạo mầm non linh mục cho Giáo Hội, trong khi đó nhiều anh em trong dòng đang dạy ở các trường trung tiểu học Đồng Công các nơi, đang dạy ở chính Đệ Tử Viện Đồng Công, nhất là đang theo học ở ngay Đại Học Thụ Nhân Đà Lạt, hoặc đang coi sinh viên ở Cư Xá Rạng Đông Đà Lạt gần tiểu chủng viện này.
Đó là lý do, lần đầu tiên trong đời tu, tôi đã, không phải là chối từ lệnh của bề trên, mà là theo chiều hướng “việc ấy thành sự sao được” (Lk 1:34), như Mẹ Maria đã thân thưa với Tổng Thần Gabiên trong ngày Truyền Tin Lời Nhập Thể, lên tiếng với ngài rằng: “Thưa Anh, làm sao em có thể làm được việc này. Như Anh biết, chính bản thân em còn lo chưa xong, mà nay lại đi giúp người khác, thì làm sao em có thể chu toàn trách vụ nghiêm trọng này nổi? Vả lại, ngoài vấn đề tư cách, cả đến khả năng tự nhiên em cũng không đủ bằng cấp. Còn nhiều anh em khác xứng đáng hơn em…” – “Em cứ đi, đã có Chúa giúp. Thực sự đã có nhiều anh em cản anh làm điều này. Nhưng em yên tâm. Cứ tin tưởng. Chúa sẽ làm việc nơi em!” Trước lời khẳng định cương quyết đầy tin tưởng của ngài, tôi cảm thấy được hoàn toàn hồi sinh, như trường hợp các tông đồ được Chúa Kitô Phục Sinh thổi hơi mà nói: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thày thế nào, Thày cũng sai các con như vậy. Các con hãy nhận lấy Thánh Thần” (Jn 20:21-22).
Thế nhưng, dù có được mời lên chỗ trọng vọng hơn, ngon lành hơn, thực sự là ngoài ý muốn và khả năng của mình như thế, tôi vẫn có thể “chọn chỗ rốt bét mà ngồi”, thậm chí vẫn phải tiếp tục “chọn chỗ rốt bét mà ngồi”, khi hoàn toàn khiêm nhượng và tin tưởng thưa tiếng “xin vâng” (Lk 1:38) như Mẹ Maria. Tuy nhiên, sau cuộc gặp gỡ ấy, tôi vẫn tiếp tục những tháng ngày thần tiên cầu nguyện như 2 tháng qua, để dọn mình cho một cuộc lên đường phục vụ đầu tiên trong cuộc đời tu suốt đời đã từng làm đủ mọi thứ chuyện được cho là thường hèn trong nhà dòng. Một hôm, tôi đã xin gặp ngài, để xin ngài một đặc ân, gọi là làm hành trang lên đường, chẳng những cho công cuộc tông đồ đại diện nhà dòng, đáp ứng lời yêu cầu của Đức Cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền đã xin Cha Bề Trên Thủ cho các thày đến giúp, (như năm 1968 dòng đã sai thày Giáo làm việc này), mà còn cho cả cuộc đời theo đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng Công của tôi nữa. Ngài đã nhận lời soạn một bản Luật Sống Bé Nhỏ như tôi xin, được ngài ký ngày 8/7/1972, một bản văn rất quí, với chữ viết tay của ngài, (song trước khi hoàn tục “vào đời” năm 1982, tôi đã để lại bản chính cho Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ cất giữ một cách xứng đáng), một bản văn tôi đã phổ biến trong tác phẩm “Trở Nên Như Trẻ Nhỏ” của tôi (Cao-Bùi, 1994, trang 219-224).
Trong thời gian tiền biến cố sai đi này, câu Phúc Âm đã làm tôi thấm thía cảm nghiệm thần linh về thân phận của tôi bấy giờ, mới chỉ làm cho tâm trí tôi luẩn quẩn với tác động “chọn” lựa của tôi mà thôi, tức là việc tự tôi, ở mọi nơi và trong mọi lúc, cũng như trong mọi sự, phải làm sao để “chọn chỗ rốt bét mà ngồi”, tìm chỗ thấp nhất mà ở. Thế nhưng, sau biến cố sai đi, trong giây phút tiếp tục âm thầm nguyện cầu trước nhan Chúa, cả tháng trời nữa, (tổng cộng trước sau thời gian tương đương với 3 tháng Hè Nội Tâm, 3 tháng như bế quan để khổ luyện Bí Quyết Phúc Âm), tôi mới thấm thía hơn nữa ý nghĩa sâu xa của lời khuyên có vẻ rất đơn sơ giản dị ấy của Chúa Giêsu. Thật thế, chính sau khi được thấm thía rồi, đọc lại Phúc Âm, tôi mới vỡ lẽ ra rằng Chúa Giêsu không bảo “hãy chọn chỗ cuối rốt mà ngồi”, mà là “hãy đến mà ngồi vào chỗ cuối rốt”. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định nguyên tắc tu đức này, khi phán: “Không phải các con chọn Thày mà là Thày đã kén chọn các con và sai các con đi sinh hoa kết trái” (Jn 15:16). Tức là tôi phải ngồi vào chỗ không phải do tôi chọn, cho bằng đã được giành sẵn cho tôi theo Ý Chúa, một chỗ “cuối rốt” đến nỗi theo tự nhiên tôi không thể nào thấy được nó, mà phải có đức tin mới thấy được, thậm chí mới chấp nhận được sau khi đã thấy nó, vì chỗ ấy đầy khổ đau hơn là vinh quang, hay đúng hơn là một chỗ vinh quang đầy đau khổ (x Jn 12:23-24,27), chỗ được Chúa Giêsu nói với các tông đồ là Ngài phải đi dọn cho các vị (x Jn 14:3), bằng không muôn đời các vị không thể nào tới được (x Jn 13:33), nhờ đó, Người ở đâu các vị cũng mới có thể ở đó với Người (x Jn 14:3 đối chiếu với Rev 14:4), chứ không phải như đã phũ phàng xẩy ra khi Người bị bắt giải đi từ Vườn Cây Dầu thì bấy giờ “tất cả đã bỏ Người mà tẩu thoát” (Mk 14:50).
Đó là lý do tôi đã luôn tâm niệm “đến mà ngồi ở chỗ rốt bét” theo chiều hướng này chính là luôn sống tinh tuyền khiêm nhượng bằng một đức tin tuân phục như đệ nhất tạo vật Đầy Ơn Phúc Maria! Từ đó, khẩu hiệu Sống Thánh của tôi là câu Phúc Âm “hãy hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ” (Mt 18:3). Và để cho dễ nhớ và luôn nhắc nhở mình, chẳng những về cảm nghiệm thần linh tôi có được trong thời gian “đền tội” đầy thần tiên ấy, mà còn về linh đạo duy nhất có thể đến với Chúa và theo Chúa này, tôi đã bắt đầu lấy biệt hiệu được kèm theo tên thật của tôi, đó là 3 chữ tắt BVL (tức Bá Vũ Ly, phiên âm từ chữ Latinh - Parvuli là Trẻ Nhỏ). Chính vì vẫn tiếp tục “đến mà ngồi vào chỗ cuối rốt” của mình, chỗ Thiên Chúa chọn cho tôi, chứ không phải chỗ tôi tự chọn, mà cả đang khi, nhất là sau khi hoàn tất một thứ “mission impossible” này, tôi đã được một cảm nghiệm thần linh thứ năm, đó là cảm nghiệm thấy rằng nếu thực sự là việc của Chúa thì Chúa sẽ làm công việc của Ngài trong tôi, và Chúa thánh hóa tôi ngay khi tôi làm việc của Ngài và cho Ngài. Bởi vậy, làm việc của Chúa, cho dù phải có máu tử đạo mới làm nổi, nhưng cũng chính vì nhờ máu tử đạo ấy mà tôi không bao giờ sợ lỗ và bị lỗ, nếu tôi luôn biết “đến mà ngồi vào chỗ cuối rốt”, chỗ của hạt lúa miến bị mục nát đi trong lòng đất (x Jn 12:24-25), do đó, thành công hay thất bại, đối với tôi, trước hết và trên hết, là ở chỗ tôi có hết sức nỗ lực hoàn thành Ý Chúa hay chăng, hơn là vì tôi được thế gian khen tặng hay chê trách!
? CHA ĐAMINH MARIA TRẦN ĐÌNH THỦ LÝ TƯỞNG THÁNH ĐỒNG CÔNG:
Cha Thủ - Ảnh Hưởng ThánhĐaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
H |
ai năm phục vụ tiểu chủng viện Simon Hòa Đà Lạt (1972-1974), phải công nhận là cuộc đời tu trì phục vụ của tôi chưa bao giờ cảm thấy vất vả như vậy, chưa bao giờ cảm thấy mệt mã như thế, với vai trò kiêm đủ thứ của tôi, nào là dạy học việt văn và sử địa (10 tiếng 1 tuần, chưa kể giờ dọn bài và chấm bài, hay đôi khi dạy học thế cho người anh em cùng dòng với mình bận trở việc học chính của họ) cho chủng sinh thuộc các lớp trung học đệ nhất cấp (6-8), phụ giúp cha hiệu trưởng Trần Văn Nhượng và giám học Vương Văn Điền; nào là làm giám thị đệ lục coi học các lớp nhỏ (6-8), vào ban chiều (chưa kể giờ chơi đá banh với chủng sinh sau giờ học chiều và vui chơi tự do với chủng sinh sau giờ cơm tối), phụ giúp cha giám thị chính Nguyễn Hữu Duyên; nào là mua bán đồ cho chủng sinh, nhất là bán đồ sau bữa trưa, phụ giúp cha quản lý Nguyễn Văn Tính; nào là đặc trách cứu thương, lo đủ thứ nhu cầu về y tế cho chủng sinh, từ việc phát thuốc cho chủng sinh thường vào ban sáng sau điểm tâm, chở các bệnh nhân đi khám bệnh bất cứ lúc nào cần, liên lạc với nhà bếp lo nấu nướng riêng cho các chủng sinh bị bệnh, bê cơm bê cháo cho họ v.v.
Vẫn biết trong thời gian này, mỗi năm tôi có một người anh em dòng cùng ở với tôi, nhưng không phải để chia sẻ các việc phục vụ chủng viện với tôi, cho bằng để giữ tinh thần cho tôi, nên các anh ấy, (Trần Long Chu thuộc lớp khấn VIII năm 1972-1973, và Nguyễn Mạnh Thư cùng lớp khấn IX năm 1973-1974), chỉ dạy học part time một số giờ tượng trưng, ngoài ra, phận sự chính của hai anh là theo học ở Đại Học Thụ Nhân Đà Lạt. Thế nhưng, chính trong thời gian phục vụ này, tôi đã cảm nghiệm thấm thía câu Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly: “Các con sẽ cảm thấy sầu thương trong một thời gian, song nỗi sầu thương của các con sẽ trở thành niềm vui” (Jn 16:20), niềm vui không phải chỉ ở chỗ được các chủng sinh hết sức quí mến, được các cha hết lời khen tặng v.v., mà nhất là ở chỗ cảm thấy mình thật sự chỉ là “một người đầy tớ vô ích” (Lk 17:10), “vô ích” ở chỗ thật sự cảm thấy mình chẳng làm gì “hữu ích” nếu không có Ngài, và “vô ích” ở chỗ hết sức cố gắng làm sao để không bao giờ dám cậy mình và vênh vang tự đắc, trái lại, liên lỉ tin tưởng vào Ngài và hết mình phục vụ chủng sinh, để Ngài nhờ đó có thể làm tất cả những gì “hữu ích” như Ngài muốn qua tôi, và cũng nhờ đó, “hữu ích” cho cả chính tôi, khi tôi được Ngài biến thành một cành nho sinh hoa trái (x Jn 15:2,4), cho những tâm hồn trẻ được Ngài gọi theo Ngài trên con đường trở thành linh mục của Ngài từ tiểu chủng viện Simon Hòa Đà Lạt. Như thế, "chỗ rốt bét" mà tôi phải "đến mà ngồi" đây chính yếu là và thực sự là cảm thức "vô ích" của mình trước nhan Chúa!
Thành quả của việc hoạt động tông đồ đầu đời tu trì của tôi qua 2 năm ở Tiểu Chủng Viện Simon Hòa Đà Lạt, chẳng những trước hết ở trong nội tâm của tôi, ở nơi mối liên hệ càng trở nên thân mật hơn giữa tôi với Thiên Chúa, mà còn nơi mối liên hệ rất tốt đẹp giữa riêng cá nhân tôi với những người tôi được làm việc với và phục vụ trong môi trường tiểu chủng viện ấy, cũng như giữa chung nhà dòng với Giáo Phận Đà Lạt. Để rồi, không biết có phải là phần thưởng cho thành quả của 2 năm phục vụ này hay chăng, tôi lại được mời lên chỗ trọng vọng hơn một lần nữa, ngoài dự tưởng của mình, khi được bề trên chính thức tuyển chọn vào số đi học làm linh mục, ở vào tuổi bình thường đã làm linh mục nếu đi tu triều. Tuy nhiên, tôi chưa học được một chữ Latinh nào ở Lương Sơn Phan Rí, nơi tôi được chỉ định tiếp tục nghề dạy học của mình từ Tiểu Chủng Viện Simon Hòa Đà Lạt, với vị thày Latinh của rất nhiều linh mục trong nhà dòng, đó là dịch giả mang biệt danh Phạm Duy Lễ, một tên tuổi đi liền với nhiều tác phẩm dịch thuật nổi tiếng, trong đó có bộ sách "Vinh Quang Mẹ Maria" của Thánh Anphongsô.
Sau đó, tôi được chuyển ra dạy học ở Nhà Đá, Phù Mỹ, Bình Định, Qui Nhơn, vào tháng 10/1974, nơi mà cuối cùng tôi đã được lệnh giải nghệ dạy học để chỉ chuyên trách việc phục vụ bếp rác nấu nướng cho anh em thôi..., cho tới khi tất cả anh em phục vụ ở đây di tản về Thủ Đức, đúng hôm Thứ Năm Tuần Thánh vào cuối tháng 3/1975. Trong số 170 anh em Đồng Công lên đường xuất ngoại vào tháng tư đen 1975, có 12 người đã xong thần học (và trở thành 12 vị linh mục Việt Nam đầu tiên ở Hoa Kỳ năm 1977), 7 người xong triết học (về sau có hai linh mục trong số này làm Giám Tỉnh của Chi Dòng), và một số được tuyển chọn học làm linh mục, trong đó có tôi (người sang Mỹ đã học 2 năm triết ở Chủng Viện Conception ở Missouri 1976-1978, rồi được bề trên gọi về phục vụ nhiều lãnh vực kinh doanh khác nhau của Chi Dòng, như làm quản lý Trại Heo ở Ash Grove Missouri 1978-1980, thành lập và làm quản lý Sao-Mai Printing ở Houston Texas 10 tháng đầu năm 1980, và làm quản lý Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ 1980-1982... cho tới khi hoàn tục).
Đúng vậy, tất cả những thành quả tôi có được qua hoạt động tông đồ lần đầu tiên trong đời tu ở Tiểu Chủng Viện Simon Hòa Đà Lạt ấy, là do niềm tin tưởng của Cha Thánh Thủ trong việc sai tôi đi, như chính niềm tin của ngài đã làm nên cuộc lên đường và định cư của nhóm anh em Đồng Công theo lệnh của ngài xuất ngoại “để giữ lấy dòng và truyền giáo” vậy. Cho đến nay, mặc dù không chính thức thuộc về thành phần còn sống trong dòng đi nữa, (vì những lý do riêng, hoàn toàn không liên quan gì tới tinh thần dòng, mà chỉ tới những dấu hiệu bất thường trong tâm hồn và đời sống, những dấu hiệu đã được tôi chân thành trình bày với Cha Thủ lần đầu tiên gặp ngài năm 1966, và cuối cùng trình bày với vị bề trên thẩm quyền Chi Dòng năm 1982 bấy giờ để biết được đâu là Ý Chúa, và hoàn toàn sẵn sàng chấp nhận quyết định của vị bề trên này cho dù có thế nào đi nữa, có không xuất đi nữa), nhưng Lý Tưởng Thánh Đồng Công vẫn tồn tại nơi tôi, và niềm tin tưởng của vị Linh Hướng tận tình dẫn dắt tôi theo đuổi lý tưởng này vẫn tiếp tục sinh hoa trái nơi tôi, nhất là qua những việc tông đồ giáo dân tôi đang theo đuổi và phục vụ, những việc tông đồ tôi sâu xa cảm nhận tôi không thể nào có thể dấn thân và làm được, nếu không có Ảnh Hưởng Thánh từ Cha Thủ, đó là Phong Trào Thiếu Nhi Fatima ở Tổng Giáo Phận Los Angeles từ năm 1991, Chương Trình Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống từ năm 2000, và Mạng Điện Toán Toàn Cầu Thời Điểm Maria từ năm 2001.
Trước hết là Phong Trào Thiếu Nhi Fatima TGP/LA, một phong trào khi tôi vừa nhào vô, chưa hề biết gì về phong trào này, ngoài trừ thấy được thực sự “dấu chỉ thời đại” Chúa muốn tôi nhập cuộc, tôi đã được tín nhiệm tuyển bầu vào vai trò lãnh đạo, cho dù bấy giờ tuổi đời đã quá downhill. Theo đường hướng Thánh trước hết và Thánh trên hết của Cha Thủ, và theo kinh nghiệm bình dân phục vụ giới trẻ ở Tiểu Chủng Viện Simon Hòa, tôi đã đến với giới trẻ bằng tình yêu thương và cảm thông, một thứ ngôn ngữ (yêu thương cảm thông) phổ quát đại đồng ai cũng hiểu được và dễ dàng đối thoại, nhất là thành phần đang ở vào lứa tuổi khát khao yêu thương và nồng nàn yêu thương. Qua cửa ngõ yêu thương này, người tông đồ giới trẻ mới có thể dễ dàng tiến vào lòng giới trẻ, mới làm cho họ tin tưởng, cảm mến, lắng nghe, và sống theo những gì giới trẻ đang tìm kiếm là chân thiện mỹ. Đóng vai trò của tiền hô Gioan Tẩy Giả, người tông đồ giới trẻ phải làm sao để tự mình nhận ra Chúa Kitô, nhờ đó có thể đích xác và có thần lực thúc giới trẻ tìm đến với Chúa Giêsu, Đấng duy nhất có thể đáp ứng tất cả mọi khắc khoải và khát vọng mãnh liệt của họ, để rồi chính họ sẽ tự động rủ nhau đến với Người, như trường hợp của Anrê và Philiphê với Simon và Nathanaen (x Jn 1:35-51). Tất cả những gì liên quan tới cảm nghiệm về việc phục vụ giới trẻ và chất liệu phục vụ giới trẻ, tôi đã chia sẻ và phổ biến trong các tác phẩm “Tông Đồ Giới Trẻ” (12/1996), “Giới Trẻ Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” (12/1996), “Đường Thánh Giá Giới Trẻ” (3/1998), và “Giới Trẻ của Ngàn Năm Thứ Ba” (11/1999), chưa kể đến 2 cuốn khác cho riêng Phong Trào Thiếu Nhi Fatima.
Đó là lý do, tôi đã cố gắng giúp cho giới trẻ Thiếu Nhi Fatima, qua các Khóa Tĩnh Huấn Fatima hằng năm, thường vào dịp cuối tuần Lễ Thanksgiving, sống theo gương của 3 Thiếu Nhi Fatima tiên khởi là Lucia, Phanxicô và Giaxinta, một nhóm 3 Thiếu Nhi Fatima, mới từ 7 đến 10 tuổi, đã dám và có thể bỏ đi cả những gì vui chơi lành mạnh nhất của mình để sống ơn gọi Fatima là “chấp nhận mọi đau khổ, mà đền tạ Chúa và cầu cho tội nhân ăn năn cải thiện đời sống”. Nhờ tinh thần "vâng lời trọng hơn của lễ" (1Sam 15:22), điều tâm niệm thứ 7 trong 10 Điều Tâm Niệm của Phong Trào Thiếu Nhi Fatima, điều tâm niệm phản ảnh tinh thần Tận Hiến của Dòng Đồng Công, kết quả từ các khóa Tĩnh Huấn liên tục hằng năm (1992-2006) cho thấy, chính giới trẻ hiện đại, tiêu biểu nơi nhóm Thiếu Nhi Fatima nhỏ bé tôi được phục vụ, đối với tôi, có thể nói thực sự trở thành “niềm hy vọng của Giáo Hội”, đúng như những gì Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ngỏ cùng họ vào Chúa Nhật 22/10/1979, trong Thánh Lễ Đăng Quang của ngài, đến nỗi, tôi vẫn hay lập đi lập lại với họ vào các Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng từ năm 1992 rằng:
“Các em hơn tôi nhiều lắm. Hãy cố giữ lấy ơn Chúa ban. Ở vào tuổi của các em đầu thập niên 1960, và ở Việt Nam bấy giờ không được văn minh như ở Mỹ quốc hiện nay, thế mà tôi còn sống bê bối, chẳng biết đạo nghĩa là gì, trong khi các em đang sống trong một thế giới văn minh đầy tiện nghi vật chất, được tự do bay nhẩy, sẵn đủ thứ để enjoy life, lại thức dậy sớm, mặc đồng phục, đón chở nhau đến với Ngày của Đức Mẹ hằng tháng, để cầu Kinh Mân Côi, đền tạ Chúa-Mẹ, học hỏi đạo đức, dự Thánh Lễ, ăn trưa, rồi đi về, chẳng có gì vui chơi hào hứng. Sự hiện diện của các em mỗi Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng ở chung Liên Đoàn, và Thứ Bảy hằng tuần ở mỗi Đoàn, là một bài giảng hùng hồn đánh động cho tôi nhất đấy, là gương mẫu rất sống động cho tên ‘lão nhi’ Fatima này!”
Phải chăng chính nhờ "đâm rễ" vào đời sống đạo đức hơn là sinh hoạt này, thà làm một hạt cải nhỏ bé còn hơn cây vả xum xuê lại bị Chúa nguyền rủa vì không sinh hoa kết trái (x Mt 13:31; Mk 11:13-14), nhất là nhờ bị cắt tỉa như cành nho sinh trái cho càng sinh trái hơn (x Jn 15:2), qua thân phận từ 6 Đoàn vào năm 1990 còn 4 Đoàn vào năm 2006, mà giới trẻ Thiếu Nhi Fatima, dù ít về nhân số và hạn hẹp trong nguyên Tổng Giáo Phận Los Angeles, đã thật sự "vươn cao", chẳng những ở các hoạt động bác ái xã hội, như thực hiện việc tặng quà Giáng Sinh cho đủ thứ người bất hạnh vào Thứ Bảy Đầu Tháng 12, đầu Mùa Vọng hằng năm, cũng là dịp mừng quan thày Mẹ Vô Nhiễm của Liên Đoàn, hay ở việc thành phần huynh trưởng chịu đựng tất cả mọi thách đố cả trong lẫn ngoài để tiếp tục hăng say nhiệt thành phục vụ các em Thiếu Nhi Fatima trong Phong Trào, nhất là ở việc các huynh trưởng theo nhau dâng mình cho Chúa trong đời sống tu sĩ hay linh mục: với thành quả sau 22 năm thành lập, 1984-2006, Thiếu Nhi Fatima đã có được 1 Linh Mục (Dòng Ngôi Lời chịu chức ngày 27/5/2006), 4 Đại Chủng Sinh (2 sẽ chịu chức linh mục vào mùa hè 2008, và 2 vào năm 2011), 1 Thày Dòng vĩnh thệ (trong Dòng Đồng Công) và 2 Nữ Tu vĩnh thệ (1 trong Dòng Kín Carmêlô ở Alhambra TGP/LA, và 1 trong Dòng Trinh Vương ở Lincoln Nebraska).
Về Chương Trình Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống, được bắt đầu từ Chúa Nhật 17/9/2000, gần dịp Lễ Mẹ Đồng Công (15/9), do một số anh (chị) em thân hữu Đồng Công ở Nam California chủ trương và thực hiện, trên làn sóng 106.3 FM vào mỗi tối Thứ Sáu hằng tuần, từ 9 đến 9 giờ 30. Hai năm rưỡi đầu, mỗi tuần chi phí phát thanh lên tới 400 Mỹ kim, cho cả ở California, và cho trên 15 tiểu bang ngoài California qua Đài Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại ở Washington D.C. Từ đó tới nay, chỉ nguyên ở những vùng nghe được tần số 106.3, bao gồm Orange County, Los Angeles County, Riverside County và San Bernadino County, với chi phí 300 Mỹ kim cho nửa tiếng phát thanh mỗi tuần vào thời điểm "hot" trong ngày như vậy.
Riêng về phần nội dung, chương trình phát thanh Tin Mừng Sự Sống cũng hoàn toàn mang dấu vết Đồng Công. Nếu nội dung của mỗi buổi phát thanh Tin Mừng Sự Sống, ngay từ đầu và liên tục cho tới nay không hề thay đổi, hoàn toàn trung thực phản ảnh danh xưng Tin Mừng Sự Sống, bao gồm 3 phần thứ tự là Phụng Vụ Lời Chúa (liên quan tới Mạc Khải Thần Linh), Giáo Hội Hiện Thế (liên quan tới Tác Động Thần Linh trong việc canh tân bộ mặt trái đất nơi hoạt động và giáo huấn của Giáo Hội), và Sống Thánh Chứng Nhân (liên quan tới Đức Tin Tuân Phục, trong việc đáp ứng Mạc Khải Thần Linh và Tác Động Thần Linh), thì ba phần này cũng cho thấy 3 lòng tôn sùng đặc biệt của Dòng Đồng Công: Phụng Vụ Lời Chúa liên quan tới lòng Tôn Sùng Thánh Thể, Giáo Hội Hiện Thế liên quan tới lòng Tôn Sùng Đức Thánh Cha, và Sống Thánh Chứng Nhân liên quan tới lòng Tôn Sùng Thánh Mẫu (theo tinh thần Tận Hiến của một người Tôi Tớ Xin Vâng như Mẹ).
Tuy nhiên, vấn đề phát thanh không phải chỉ có phần nội dung là bài vở, và kỹ thuật là máy móc, mà còn cả vấn đề tài chính nữa, một yếu tố mà nếu không có, hay không còn, thì kể như dù có tưng bừng khai trương cuối cùng cũng âm thầm dẹp tiệm thôi. Tuy nhiên, để có đủ tài chính cho việc loan truyền Tin Mừng Sự Sống hằng tuần như thế không phải là chuyện dễ. Nào là thực hiện việc quyên tiền, bằng cách gửi thư đến những địa chỉ quen biết một năm 2 lần, một vào Tháng Chín, dịp kỷ niệm biến cố phát thanh hằng năm 17/9, và một vào Tháng Ba, dịp mừng Quan Thày của Tin Mừng Sự Sống là Lễ Mẹ Thai Lời 25/3. Nhất là việc gây quĩ hằng năm ở Ngày Thánh Mẫu Missouri. Năm 2002, Tin Mừng Sự Sống đã gây quĩ 2 lần, một lần tại Hội Chợ Xuân ở khu Tiểu Sài Gòn, và một lần tại Ngày Thánh Mẫu ở Carthage Missouri, cả hai lần cộng lại chưa tới 2 ngàn Mỹ kim, trong khi đó Tin Mừng Sự Sống chi cho năm 2002 là 20.800 ngàn Mỹ kim. Năm 2006, Tin Mừng Sự Sống gây quĩ ở Missouri, kiếm được chưa đầy 1 ngàn Mỹ kim, trong khi đó chi phí cho năm 2006 là 14.500 Mỹ kim. Tiền ở đâu ra? Xin trở lại vấn đề của “Cha Thánh Thủ” – ngài lấy tiền đâu ra để chẳng những nuôi anh em trong dòng mà còn có cả tiền để hoạt động tông đồ truyền giáo nữa, nếu không phải là ngài đã làm hết sức mình, nhất là đã tìm Nước Chúa và Thánh Thiện trước, nên mọi sự khác đã được ban cho sau? Phải thú thật là, khi còn ở trong dòng, tôi không hiểu được vấn đề bí mật này nơi người Anh Cả của tôi, cho tới khi tôi dấn thân vào việc loan truyền Tin Mừng Sự Sống (www.tinmungsusong.org ) bằng phương tiện truyền thanh đây!
Về mạng điện toán toàn cầu Thời Điểm Maria (www.thoidiemmaria.net ) nếu ai để ý, cũng thấy dấu vết Cha Thủ và Đồng Công nơi tôi. Mạng điện toán toàn cầu này, với sự trợ giúp đặc biệt của 2 huynh trưởng Thiếu Nhi Fatima, một lo về hình thức và một lo về kỹ thuật, được ra mắt từ ngày 8/12/2001, và ngay từ đầu, nội dung đã bao gồm ba phần chính: Giáo Hội, Thánh Mẫu và Thánh Thể, liên quan tới thứ tự 3 thần đức, Tin tưởng Giáo Hội, Cậy nhờ Thánh Mẫu và Mến yêu Thánh Thể. Ba chủ đề này cũng phản ảnh 3 lòng tôn sùng đặc biệt của Dòng Đồng Công được ấn định trong Tục Lệ dòng, đó là lòng tôn sùng Mẹ Maria, tôn sùng Thánh Thể và tôn sùng Đức Thánh Cha.
Nếu chú ý sẽ thấy 3 lòng tôn sùng này hoàn toàn ăn khớp với 3 tinh thần Dòng. Lòng tôn sùng Mẹ Maria liên quan tới tinh thần Tận Hiến, bởi đó bắt đầu vào Tập Viện, tu sĩ tương lai của dòng phải tận hiến cho Mẹ Maria, và trong năm tập phải đặc biệt học hỏi tác phẩm "Luận về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria” của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort). Lòng tôn sùng Thánh Thể liên quan tới tinh thần Yêu Thương bác ái của dòng, một tinh thần Yêu Nhau được Cha Thủ rất chú trọng, đến nỗi, mở màn cho một ngày sống (sau giờ ở lặng ngặt qua đêm và thiêng liêng ban sáng) của tu sĩ Đồng Công là bài Ca Vịnh Ubi Caritas – Đâu Có Tình Yêu Thương, và tội trầm trọng nhất tu sĩ Đồng Công vi phạm là tội lỗi đức bác ái với nhau. Và lòng tôn sùng Đức Thánh Cha, có thể nói, ở một khía cạnh nào đó, liên quan tới tinh thần Bỏ Mình của nhà Dòng, nhất là ở cấp độ quản trị nhà dòng, dính dáng đến các quyết định của những đấng bản quyền thuộc Giáo Hội địa phương, (vì Đồng Công vẫn còn thuộc cấp Giáo Phận, chưa trực thuộc Tòa Thánh), những quyết định thường không được như ý nguyện của nhà dòng và đáp ứng nhu cầu của nhà dòng.
Tuy nhiên, trong 3 lòng tôn sùng này, 3 lòng tôn sùng tiêu biểu cho đặc tính của Giáo Hội Công Giáo và nơi Giáo Hội Công Giáo, tôi vẫn thường nói với bạn bè rằng, về Thánh Thể và Thánh Mẫu thì bên Các Giáo Hội Chính Thống Giáo cũng có. Chỉ riêng Giáo Hội Công Giáo mới chú trọng tới Huấn Quyền nói chung và đề cao Thượng Quyền của Đức Thánh Cha nói riêng, đến nỗi Huấn Quyền, cùng với Thánh Kinh và Thánh Truyền, đã trở thành ba yếu tố bất khả thiếu như nền tảng cho Đức Tin của Giáo Hội Công Giáo. Tôi vẫn nói với các em Thiếu Nhi Fatima rằng, theo Giáo Hội không bao giờ sợ lầm lạc. Bởi đó năm nào các em cũng học hỏi đặc biệt về Sứ Điệp Đức Thánh Cha gửi giới trẻ hằng năm.
Tôi cảm thấy tự nhiên rất thích thú những tài liệu của Giáo Hội. Mỗi ngày tôi đã bỏ ra ít là 3-4 tiếng để vừa đọc, dịch và phổ biến các tài liệu quí hóa này, liên tục hằng ngày suốt từ khi bắt đầu có Thời Điểm Maria tới nay. Một số vị tu sĩ, linh mục và giáo dân đã gửi điện thư xin tôi được sử dụng những bài dịch tài liệu hiếm quí này, cho riêng họ hay cho một mạng điện toán toàn cầu khác, những tài liệu được dịch sang Việt ngữ mà họ không tìm thấy ở bất cứ chỗ nào khác, dù nơi một số mạng điện toán toàn cầu nổi tiếng hơn và đông người vào xem mỗi ngày hơn. Chính tôi cũng sử dụng những tài liệu quí báu này để phổ biến cả qua chương trình Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống hằng tuần, lẫn các báo chí Công Giáo hằng tháng, đặc biệt là tờ Hiệp Nhất của Cộng Đồng Công Giáo Giáo Phận Orange. Trong 62 tác phẩm tôi viết và phổ biến từ năm 1988 tới 2006, đã có 12 cuốn chuyên về văn kiện Giáo Hội và Giáo Hoàng.
Chính tôi là người được lợi nhất trong việc nghiền gẫm và chuyển dịch này. Tôi cảm thấy càng ngày càng đi sâu vào lòng Giáo Hội hơn. Tài liệu tôi dịch không phải chỉ thuần văn kiện của Giáo Hội, như các Thông Điệp, Tông Thư, Tông Huấn, Sứ Điệp, Giáo Lý hằng tuần, giảng huấn phụng vụ, huấn từ mục vụ, diễn từ ngoại giao v.v. của Đức Thánh Cha, mà còn các bài diễn văn của Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc, các hoạt động của hội đồng giám mục trên khắp thế giới, các văn kiện thuộc các phân bộ của Tòa Thánh, kể cả các biến chuyển của thế giới tân tiến ngày nay, liên quan tới tâm thức văn hóa và chính trị cần phải được Giáo Hội truyền bá phúc âm hóa. Nếu lòng tin tưởng phó thác thực hiện chương trình phát thanh Tin Mừng Sự Sống của tôi được xuất phát từ tinh thần Tận Hiến phó thác của Đồng Công, và nếu việc phục vụ Phong Trào Thiếu Nhi Fatima của tôi xuất phát từ tinh thần "không hưởng thụ nhưng phục vụ - non ministrari sed ministrare", tức tinh thần Bỏ Mình và Yêu Thương bác ái của Đồng Công, thì lòng gắn bó Giáo Hội nơi tôi, được thể hiện qua mạng điện toán toàn cầu Thời Điểm Maria, thật sự đã được bắt nguồn từ cả ba lòng tôn sùng của Đồng Công, nhất là Lòng Tôn Sùng Đức Thánh Cha.
CHA ĐAMINH MARIA TRẦN ĐÌNH THỦ LÝ TƯỞNG THÁNH ĐỒNG CÔNG: Cha Thủ - Mầm Mống Thánh
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
P |
hải chăng chính vì luôn gắn bó và hiệp nhất với Đức Thánh Cha, vị Thừa Kế Thánh Phêrô, Đại Diện Chúa Kitô trên trần gian để dẫn dắt Giáo Hội như thế, mà Cha Đaminh Maria Trần Đình Thủ đã có một chủ trương giống hệt như các vị, đó là chủ trương Thánh trước hết và Thánh trên hết, vì chỉ có Thánh mới làm nên mọi chuyện, cả trong Giáo Hội cũng như cho nhân loại và thế giới, như hai vị Giáo Hoàng ở vào thời giao điểm giữa thiên kỷ 2 và 3, cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, đã bày tỏ như sau:
Trước hết, Đức Gioan Phaolô II, một triết gia nhân bản, một vị Giáo Hoàng đã thực hiện 104 chuyến tông du để mang "vui mừng và hy vọng - gaudium et spes" đến cho thế giới ngày nay, vị Giáo Hoàng đã phong nhiều thánh nhất trong lịch sử Giáo Hội, với 483 vị hiển thánh và 1.339 vị chân phước, và ngài dường như cho biết lý do của việc làm này qua những lời ngài bày tỏ trong cuốn Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của mình (ấn bản Anh ngữ, 1994, trang 228), nguyên văn như sau:
“Lòng kính sợ Thiên Chúa là quyền lực cứu độ của Phúc Âm. Nó là một niềm kính sợ xây dựng chứ không bao giờ hủy diệt. Nó tạo nên những con người sống theo trách nhiệm, sống bằng tình yêu hữu trách. Nó tạo nên những con người nam nữ – những Kitô hữu đích thực – thành phần hoàn toàn nắm trong tay mình tương lai của thế giới này” (những chỗ in đậm ở đây và dưới đây là do người dịch tự ý muốn nhấn mạnh).
Vị đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI của chúng ta, một thần học gia về Giáo Hội hiệp thông và chủ trương đệ nhất ưu tiên Đại Kết, trong cuốn The Ratzinger Report (Ignatius Press, 1985), khi còn là Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Đức Tin đã chủ trương Giáo Hội cần Thánh nhân hơn bất cứ một cái gì khác, dù là những gì liên quan tới việc quản trị hay canh tân Giáo Hội:
“Như Đức Gioan Phaolô II trong bài tưởng nhớ Thánh Borromeo ở Milan đã nói: ‘Giáo Hội ngày nay không cần đến bất cứ một con người cải cách nào. Giáo Hội cần đến những vị thánh’” (trang 42-43); “Thật vậy, các thánh là thành phần canh tân Giáo Hội sâu xa nhất, không phải bằng những dự án thực hiện các thứ cấu trúc mới, song bằng việc canh tân chính bản thân mình. Những gì Giáo Hội cần để đáp ứng với các nhu cầu của con người ở hết mọi thời đại đó là sự thánh thiện, chứ không phải vấn đề điều hành” (trang 53); “Tôi không ngừng lập lại rằng Giáo Hội cần đến những vị thánh hơn là những hành sự viên” (trang 67).
Mười hai năm sau, trong tác phẩm Muối Đất - Salt of the Earth (ấn bản Anh ngữ, Ignatius Press, 1997), ngài vẫn tiếp tục nhấn mạnh đến vai trò khẩn trương và trọng yếu của các thánh nhân trong Giáo Hội như sau:
"Điều chúng ta thực sự cần là những con người có một nội tâm được Kitô Giáo chiếm đoạt, những con người cảm nghiệm được nó như là niềm vui và hy vọng, những người bởi thế trở thành những người yêu mến Kitô Giáo. Và chúng ta gọi họ là những vị thánh nhân" (trang 269); "trong thời đại của chúng ta đây, những thứ canh tân cải cách chắc chắn không xuất phát từ những cuộc diễn đàn và nghị hội, cho dù những điều này có tính cách hợp lý của chúng, đôi khi thậm chí còn có tính cách cần thiết nữa. Những điều canh tân cải cách sẽ xuất phát từ các nhân vật tin tưởng, thành phần chúng ta có thể gọi là những vị thánh nhân" (trang 270).
Những tư tưởng của vị hồng y tương lai là Giáo Hoàng Biển Đức XVI này đã được lập lại với tư cách là vị chủ chăn tối cao vào dịp Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX tại Đức quốc, tối Thứ Bảy 20/8/2005, (sau đó, vào dịp phong thánh ở tại Ba Tây ngày 11/5/2007 cho một vị linh mục bản quốc Ba Tây đầu tiên là Antơnio de Sant'Ana Galvão, ở đoạn cuối của bài giảng, ngài còn lập lại ý tưởng cách mạng chính yếu ngài đã nói với giới trẻ ở Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX), như sau:
"Các thánh nhân, như chúng ta đã nói, thực sự là thành phần cải cách. Giờ đây tôi muốn bày tỏ điều này một cách thậm chí quyết liệt hơn nữa, đó là cách mạng thực sự chỉ xuất phát từ các thánh nhân, từ Thiên Chúa mà thôi, con đường tối hậu để biến đổi thế giới. Trong thế kỷ vừa qua chúng ta đã trải qua những cuộc cách mạng có cùng một dự tính – ở chỗ không trông mong gì ở Thiên Chúa cả, chúng lãnh nhận tất cả trách nhiệm phục vụ thế giới để biến đổi thế giới. Để rồi, như chúng ta thấy, điều ấy có nghĩa là quan điểm về con người và thiên lệch bao giờ cũng được coi như là nguyên tắc hướng dẫn tuyệt đối. Việc tuyệt đối hóa những gì không tuyệt đối mà là tương đối được gọi là chủ nghĩa độc đoán. Nó không giải phóng con người song lấy đi phẩm vị của họ và bắt họ làm nô lệ. Đó không phải là những ý hệ cứu vớt thế giới mà chỉ khi nào trở về với Thiên Chúa, với Đấng Hóa Công của chúng ta, với vị bảo đảm tự do của chúng ta, vị bảo đảm những gì thực sự là thiện hảo và chân thật. Cuộc cách mạng đích thực chỉ là ở chỗ trở về với Thiên Chúa, Đấng là tầm vóc của những gì là đúng và Đấng đồng thời là tình yêu vĩnh hằng. Còn gì có thể cứu vớt chúng ta ngoài yêu thương đây?"
|
Nếu Thánh Nhân là những vị đã sống đời đời ngay khi còn sống trên trần gian và trong thời gian, vì các vị đã sống trong chân lý và yêu thương là những gì không bao giờ qua đi, không bao giờ lỗi thời, vì chúng là những gì phản ảnh Thiên Chúa duy nhất hằng hữu vô cùng chân thật và toàn thiện, và đời sống thánh thiện bất diệt của các ngài vẫn còn được Thánh Thần sử dụng để canh tân bộ mặt trái đất cho tới khi mọi sự được canh tân vào ngày cùng tháng tận, trở thành Trời Mới Đất Mới (x Rev 21:5,1) thế nào, thì mộng ước thánh thiện, đời sống thánh thiện và công cuộc thánh thiện của “Cha Thánh” Đaminh Maria Trần Đình Thủ, vị sáng lập hội dòng Đồng Công và tha thiết theo đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng Công, cũng mãi mãi tồn tại, nhất là khi ngài vĩnh viễn nằm xuống, như một hạt lúa miến mục nát đi (x Jn 12:24), cho tương lai của một Mùa Thánh Đức Việt Nam…
Ngay trong lúc Cha Thánh Thủ chưa vĩnh viễn nằm xuống, cả anh em dòng lẫn người ngoài đều đã được chứng kiến thấy hoa trái tỏ tường của Lý Tưởng Thánh Đồng Công do Cha khởi xướng và theo đuổi, nơi một người anh em dòng đặc biệt là Cha Minh Đăng, vị linh mục nổi tiếng của Địa Phận Thái Bình, đã xin nhập dòng Đồng Công, cũng hạ mình xuống xưng mình là "em" ngọt sớt với anh em dòng. Ngài là vị linh mục từng là chủ nhiệm của tờ nguyệt san Trái Tim Đức Mẹ của dòng, và ngài chẳng những có một lòng tôn sùng Mẹ Maria rất đặc biệt, mà còn có biệt tài nói về Mẹ rất ư là thu hút (như chính người viết đã từng được diễm phúc nghe một số lần). Ngài chẳng may đã bỏ mạng (mất cả tim) vì một tai nạn xe hơi ở Thủ Đức sau năm 1975, trong một lần đi giảng phòng về, song ngôi mộ của ngài ở trong nghĩa trang của nhà dòng không còn chỗ để bảng tạ ơn đã kín mít dầy đặc (như tôi đã thấy khi ghé qua viếng mộ của ngài ngay sau cuộc gặp gỡ Cha Thủ). Ngài không nổi tiếng ở hải ngoại bằng Cha Trương Bửu Diệp, hay được bắt đầu tiến trình phong thánh ở Rôma như Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, nhưng dầu sao, qua chứng cớ bề ngoài, ngài cũng có thể được coi là một trong những hoa trái đầu mùa của Mùa Thánh Đức Việt Nam, của Máu Tử Đạo Việt Nam, một hoa trái đã được nhú lên từ mầm mống đã được cẩn thận gieo trồng và khổ công chăm bón bởi chính Cha Đaminh Maria Trần Đình Thủ là Lý Tưởng Thánh Đồng Công!