GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
CHÚA NHẬT 24/6/2007 TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN |
? CHA ĐAMINH MARIA TRẦN ĐÌNH THỦ - Cuộc Khổ Nạn Cuối Đời
? CHA ĐAMINH MARIA TRẦN ĐÌNH THỦ - Sự nghiệp một Hội Dòng
? CHA ĐAMINH MARIA TRẦN ĐÌNH THỦ - Sự nghiệp một Chi Dòng
MAGNIFICAT
CÙNG MẸ CẢM TẠ NGỢI KHEN CHÚA
CHA ĐAMINH MARIA TRẦN ĐÌNH THỦ, CMC
Linh Mục Sáng Lập Dòng Đồng Công đã về với Chúa
tại Việt Nam vào lúc 8 giờ 45 phút tối ngày Thứ Năm 21/6/2007
hưởng thọ 101 tuổi (29/11/1906-21/6/2007)
|
Xin Thành Kính Phân Ưu
với chung Hội Dòng Đồng Công
cách riêng Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ.
Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Đồng Công Maria
Xin Chúa cho cuộc đời thánh đức của vị linh mục
suốt cuộc đời say mê thánh hóa bản thân
và huấn thánh Việt Nam
được trổ sinh muôn vàn hoa trái Lý Tưởng Thánh Đồng Công!
CHA ĐAMINH MARIA TRẦN ĐÌNH THỦ - Cuộc Khổ Nạn Cuối Đời
|
Ngày 8/8/2006, ngày quan thày Đaminh của mình, ngài đã được đưa vào bệnh viện sau khi bị tai biến mạch máu não. Ngày 03.01.2007, Cha Đaminh rất yếu mệt, nên anh em Dòng đã đưa Ngài đi cấp cứu tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương, quận 5, và ngài tỏ ra rất sẵn sàng về với Chúa sau khi lãnh phép Xức Dầu và của Ăn Đàng. Nhưng với những lời cầu nguyện và hy sinh thiết tha của anh em Dòng cũng như của những người thân quen, Chúa và Đức Mẹ lại thương đưa Cha Đaminh về chung sống với đoàn em vào ngày 09.01.2007.
Ngày 11.06.2007, bệnh tình Cha Đaminh trở nặng, anh em Dòng lại đưa ngài đi cấp cứu. Ngày 15.06.2007, bệnh Cha Đaminh trở nên nguy kịch, các Bác sĩ quyết định đưa Ngài vào phòng hồi sức đặc biệt.
Tuy nhiên, mọi phương cách đều phải khuất phục Thánh ý Chúa và Người đã gọi Cha Đaminh về với Người lúc 20 giờ 45, thứ Năm, ngày 21.06.2007 tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương, sau 101 năm trên cõi đời, hơn 70 năm làm Linh mục của Chúa Kitô, 52 năm làm Tu sĩ và là Đấng Sáng Lập Dòng Đức Mẹ Đồng Công.
|
Như có linh tính, đúng một năm trước khi tạ thế, vì tuổi cao sức yếu, ngày 15.06.2006, Cha Đaminh đã ủy quyền Tổng Phục Vụ cho Linh mục Gioan Maria Đoàn Phú Xuân (vị đứng gần ngài nhất trong hình trên) để Ngài có thời giờ nghỉ ngơi, dọn mình về với Chúa.
|
|
Tháng 10.1936, Đức cha Đaminh Hồ Ngọc Cẩn truyền chức năm và chức sáu cho thầy Phan và thầy Túc. Ngày 22.05.1937, Đức cha phong chức linh mục cho hai thầy. Đây là lần truyền chức đầu tiên của Đức cha Hồ, nên Ngài đã đổi tên cha Phan là cha Thủ, có ý nói hai tân chức Thủ-Túc sẽ là tay chân của ngài.
Nhận thấy thầy Phan thực sự đạo đức và thánh thiện, lại giỏi Tín lý và Triết học kinh viện, nên sau khi thầy lãnh chức linh mục, Đức cha Hồ đã cử cha Thủ làm giáo sư Triết học và Linh hướng cho các chủng sinh Đại chủng viện. Khi Đại chủng viện chuyển về Quần Phương, cha Thủ dạy thêm môn Giáo luật. Đặc biệt trong số sinh viên Triết học của cha Thủ có các thầy sau khi thụ phong linh mục đã vào tu Đồng Công là: Cha Phạm Văn Hóa (cha Phương), Cha Hilariô.M. Đỗ Tri Tâm (cha Thuyên), Cha Bênađô. M. Bùi Khải Hoàn (cha Trung).
|
Sau 17 tháng làm Trưởng ban Truyền giáo, ngày 16.07.1943, lễ Đức Mẹ Carmel, Đức cha cử Cha Thủ làm Chánh xứ Dương A. Sau 3 năm coi xứ Dương A, Đức cha lại cử Cha làm Chánh xứ Liên Thủy. Trong thời gian coi xứ, Cha rất nhiệt tình và hăng say truyền bá lòng tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ. Cha đã tận hiến cả giáo xứ cho Đức Mẹ, khích lệ các gia đình tôn vương Mẫu Tâm, đền tạ Trái Tim Đức Mẹ và lập các hội đoàn công giáo như: Mẫu Tâm công giáo, Mẫu Tâm thương gia...
Cha xứ Liên Thủy liền chọn nơi đây làm chiếc nôi cho Dòng Đồng Công. Ngày 15.08.1948, Đức Cha Đaminh Hồ Ngọc Cẩn trước khi qua đời 100 ngày, đã ban hành một văn kiện chuẩn nhận nhóm Truyền giáo của Cha Thủ thành Hội Đạo Đức (Pia Unio), với danh hiệu Đoàn Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc. Từ nay, những người trong Đoàn Đồng Công sẽ gọi nhau là anh em và Cha Thủ được anh em gọi là Anh Cả. Như vậy, trong giai đoạn này, ngoài trách vụ Cha xứ Liên Thủy, Bề trên Sáng lập Đoàn Đồng Công, Ngài còn gánh thêm chức vụ Phó ban Truyền giáo Giáo phận Bùi Chu (1950), Bề trên Dòng Khiết Tâm (02.02.1952), Bề trên Dòng Mến Thánh Giá Bùi Chu, cùng hai nhiệm vụ nữa là Tư vấn Giáo phận và giải tội cho Đức cha.
|
Ngày 02.06.1975, Cha Đaminh bị cầm tù tại Dilinh, Lâm Đồng cùng với một số anh em Dòng (52 người). Ngày 29.04.1977 Cha Đaminh được trả tự do và về sống với anh em Dòng tại địa chỉ 33b/2 ấp Phú Châu, Tam Phú, Thủ Đức (Nhà 30 gian, Đệ tử viện cũ).
Ngày 16.05.1987, biến cố đau thương lớn lao xảy đến cho Dòng, nhiều anh em bị bắt, nên hôm sau Cha Đaminh tạm lánh lên Sài gòn làm đơn khiếu nại. Nhưng đến ngày 02.07.1987, Cha Đaminh bị bắt tại Tân Bình, Sài Gòn. Tòa đã kết án ngài tù chung thân, sau phúc thẩm đã giảm xuống 20 năm.
Trong sự quan phòng đặc biệt của Trời Cao, ngày 18.03.1993, Cha Đaminh đã được trả tự do, trở về đoàn tụ với anh em Dòng.
Dòng Đồng Công còn có một chi nhánh (tương tự như Dòng Ba) được vị sáng lập thành hình sai năm 1975 là tổ chức Gia Đình Đồng Công, bao gồm tất cả mọi gia đình muốn sống hôn nhân gia đình theo tinh thần tận hiến của Thánh Luois Montfort.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tổng hợp, với những hình ảnh được cung cấp bởi email của Gia Đình Đồng Công và Hội Dòng từ Việt Nam
? CHA ĐAMINH MARIA TRẦN ĐÌNH THỦ - Sự nghiệp một Hội Dòng
Cha Ðaminh Maria Trần Ðình Thủ, Ðấng Sáng Lập Dòng Ðồng Công. Sinh: 29-11-1906. Thụ Phong Linh Mục 22-05-1937. Ðược ơn Soi Sáng Lập Dòng 04-04-1941.
Lịch sử Dòng Ðồng Công gắn liền với lịch sử Ðấng Sáng Lập, trải qua những thăng trầm từ ngày phôi dựng đến khi thành Hội Truyền Giáo, từ ngày lập Dòng trong chiến tranh trải qua thời kỳ lận đận di cư vào Nam Việt, để rồi tại Nam Việt, Dòng bước dài với 20 năm phát triển. Nhưng, một cái nhưng do Thiên ý nhiệm mầu, biến cố tháng 4 năm 1975 đặt Hội Dòng vào khúc quanh mới, ghi dấu sự trưởng thành của Hội Dòng sau nhiều năm phấn đấu và cố gắng. Những dòng sau đây sơ lược lịch sử Hội Dòng Ðồng Công từ tháng ngày phôi dựng đến biến cố tháng 4 năm 1975.
VỊ SÁNG LẬP
|
Dòng Ðồng Công được sáng lập do một linh mục Việt Nam, cha Ðaminh Maria Trần Ðình Thủ. Cha Thủ tên thật là Trần Ðình Phan, sinh ngày 29-11-1906 tại Ðồng Quan, tỉnh Thái Bình, Bắc Việt. Cậu Phan là con thứ sáu trong số mười người con của cụ ông Ðaminh Trần Ðình Trí và cụ bà Maria Phạm Thị Thận. Thụ lãnh bí tích Thánh Tẩy ngày 8-12-1906, cậu dần lớn lên dưới mái ấm gia đình. Mùa Phục Sinh 1914 cậu được rước lễ lần đầu và chịu phép Thêm Sức. Với trí thông minh sẵn có, tính tình ngay thẳng, cương quyết và can đảm, cộng với lòng đạo đức và sự sùng mến Ðức Mẹ cách đặc biệt, năm 1915 cậu Phan dâng mình cho Chúa với mơ ước trở thành một linh mục.
Chín năm sau, tức năm 1924, cậu Phan nhập Tiểu Chủng Viện Ninh Cường, địa phận Bùi Chu. Học xong chương trình tại tiểu chủng viện, năm 1929, cậu bắt đầu học triết tại Bùi Chu rồi tại Giáo Hoàng Chủng Viện Thánh Alberto Nam Ðịnh. Sau hai năm triết là hai năm giúp xứ, thầy Phan được chỉ định giúp một họ giáo tân tòng. Năm 1933, thầy về trường Thần Học tại Giáo Hoàng Chủng Viện Thánh Alberto Nam Ðịnh. Bốn năm sau, thầy Phan thụ phong linh mục ngày 22-5-1937 do Ðức Cha Ðaminh Maria Hồ Ngọc Cẩn, Giám Mục bản quốc đầu tiên của địa phận Bùi Chu. Từ ngày chịu chức linh mục, cha Phan được Ðức Cha Hồ Ngọc Cẩn đổi tên là Trần Ðình Thủ. Trong những năm tại chủng viện, cha Thủ sống đời nhiệt thành, khắc khổ và gương mẫu, nên ngay sau khi chịu chức, cha đã được chỉ định làm cha linh hướng kiêm giáo sư triết học tại Ðại Chủng Viện Quần Phương, địa phận Bùi Chu.
THÁNG NGÀY PHÔI DỰNG
Trong những năm làm cha linh hướng và giáo sư Ðại Chủng Viện Quần Phương (1937-1942), nhiều lần cha Thủ đã định đi tu dòng. Nhưng Thánh Ý Chúa lại khác. Sáng sớm ngày 4-4-1941, lễ Ðức Mẹ Ðau Thương trong Tuần Thương Khó (theo niên lịch Phụng Vụ cũ), cha được ơn soi sáng lập một tu hội truyền giáo với chủ trương sống đời tận hiến cho Mẹ Maria. Trong thời gian nghiên cứu Giáo Luật và viết Hiến Pháp cho tu hội tương lai, ngày 21-11-1941, cha tận hiến cho Mẹ Maria theo kiểu mẫu Thánh Grignion de Monfort.
Ðầu năm 1942, Ðức Cha Hồ Ngọc Cẩn chấp thuận cho cha Thủ từ chức linh hướng và giáo sư đại chủng viện, để giúp việc truyền giáo trong địa phận Bùi Chu, với tư cách là Trưởng Ban Truyền Giáo của địa phận. Ðây là cơ hội tốt để cha thu nhận "môn đệ", thiết lập và thí nghiệm tu hội mới. Ngày 2-2-1942, cha khấn tư trọn đời lo việc truyền giáo, và bắt đầu thi hành sứ mệnh Trưởng Ban Truyền Giáo.
Cuối tháng 6-1943, cha Thủ đệ đơn xin nghỉ làm Trưởng Ban Truyền Giáo. Ðức Cha đồng ý, và đầu tháng 7-1943 cử cha đi coi xứ Dương A. Dương A chính là "trụ sở đón nhận và huấn luyện các tu sĩ Ðồng Công tiên khởi" (Lý Tưởng Ðồng Công, tr. 53). Tại Dương A, nhiều thanh niên thiện chí đến xin theo đường lối của cha, đa số là các thầy giảng, các chủng sinh, và các cậu rút khỏi trường Thầy Giảng, chủng viện, và Nhà Ðức Chúa Trời. Hồi đó tổ chức của cha chưa có tên và quy luật rõ rệt, người ta chỉ gọi cách vắn tắt, dễ hiểu là "Dòng Cha Thủ".
Những anh em tiên khởi của Dòng.
Việc đó đến tai Ðức Cha, ngài tỏ ra bất bình, cấm không cho nhận ai vào "Dòng Cha Thủ", và bắt giải tán những người đã được nhận. Ðể vâng lời Ðức Cha, cha Thủ chỉ giữ lại vài ba người như kiểu các thầy các cậu mà hồi đó xứ nào cũng có, còn bao nhiêu cha gửi đi học tại Hà Nội hoặc tạm lánh lên Phú Thọ, Chapa, Yên Bái làm ăn. Ðể dập tắt ý định lập dòng của cha Thủ, cuối tháng 6-1946, Ðức Cha ra lệnh đổi cha về xứ Liên Thủy, một xứ sát liền Toà Giám Mục, với chủ ý dễ bề kiểm soát các hành động của cha.
Hội Truyền Giáo Ðồng Công:
Khi chuyển về Liên Thủy, cha Thủ đã có chừng 20 "môn đệ". Vì xứ Liên Thủy ở ngay bên Bùi Chu, đường lối thuận tiện, nên "Dòng Cha Thủ" lại lôi kéo sự chú ý của rất nhiều người. Họ đến xin vào "Dòng" của cha ngày một đông. Trải qua nhiều sóng gió, cộng đoàn bé nhỏ của cha Thủ vẫn được dân chúng quý mến, nhân số ngày càng tăng. Ðến năm 1948 đã có chừng 40 người tình nguyện theo chí hướng của cha. Một điều lạ là từ trước tới giờ Ðức Cha Hồ Ngọc Cẩn vẫn khăng khăng chống lại ý định của cha Thủ, thế mà ngày 15-8-1948, ngài tự tay viết và ký giấy chính thức nhận cho nhóm người của cha là một Hội Ðạo Ðức (Pia Unio), và được hoạt động công khai theo Giáo Luật. Trước đó ngài phản đối bao nhiêu, thì từ sau khi ký giấy công nhận, ngài ủng hộ và bênh vực bấy nhiêu. Nhưng chỉ 100 ngày sau khi ký giấy thành lập Hội Truyền Giáo Ðức Mẹ Ðồng Công Cứu Chuộc, Ðức Cha qua đời. Trong thời gian Toà Giám Mục trống ngôi, hội lại trải qua một cơn bão tố dữ dội do Hội Ðồng Ðịa Phận gây nên. Tuy nhiên, việc Chúa đã định làm, dầu giữa gai góc cũng vẫn triển nở xinh tươi.
Việc Ðức Cha thành lập Hội Truyền Giáo Ðức Mẹ Ðồng Công Cứu Chuộc mở một con đường mới cho tu hội tương lai của cha Thủ, cha liền bắt tay tổ chức hội thành một đoàn thể lâu dài. Hồi đó, hội vẫn chưa có quy luật và tục lệ thành văn, nhưng đời sống cộng đồng được duy trì là do sự "trông nhau mà giữ", cha Thủ chỉ hướng dẫn anh em về phương diện tu đức và một vài cách thức cai trị bên ngoài thôi. Sau khi nhập hội được ít lâu, những anh em thiện chí được giới thiệu dâng mình cho Ðức Mẹ để bắt đầu thời gian luyện tập, thường kéo dài một năm. Sau thời gian luyện tập này, những anh em đủ điều kiện sẽ khấn tư ba lời khấn: 1) vâng lời Bề Trên 2) để sản vật làm của chung. 3) chuyên lo việc truyền giáo. Lần đầu khấn ba năm rồi khấn trọn đời. Tinh thần Bác Ái và Bình Dân được đề cao ngay từ thuở đầu. Cha Thủ rất hài lòng khi được anh em gọi là "Anh Cả" của Ðoàn Ðồng Công.
Hồi đó có mấy linh mục trong địa phận tán thành đường lối của cha Thủ, đã tình nguyện cộng tác xây dựng Hội Truyền Giáo. Số người xin gia nhập ngày càng đông, nên cha chia hội thành nhiều "đội", mỗi đội sống quây quần tại một xứ dưới sự hướng dẫn của một linh mục đồng chí, tức là cha xứ. Tất cả được ba đội, mỗi đội từ 10 đến 20 anh em, không kể "đội mẹ" ở Liên Thủy có chừng trên dưới 40 người.
Tháng 2 năm 1950, Toà Thánh đặt Ðức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi làm Giám Mục Bùi Chu. Ðức Cha nhiệt tình ủng hộ công cuộc của cha Thủ. Nhận thấy Hội Truyền Giáo của cha Thủ cần phải trở thành một tu hội theo Giáo Luật để giúp ích cho Giáo Hội mai sau, Ðức Cha khuyên cha Thủ nên viết Hiến Pháp để Ðức Cha gửi sang Toà Thánh xin phê chuẩn. Hiến Pháp được dịch sang Pháp ngữ rồi La ngữ và trao cho Ðức Cha gửi đi. Toà Thánh chấp thuận và ký duyệt y ngày 15-12-1952.
Giai Ðoạn Dòng Thành Lập Theo Giáo Luật
Ngày 2-2-1953 là ngày thành lập Dòng Ðức Mẹ Ðồng Công Cứu Chuộc. Hôm đó Ðức Cha Chi gửi văn thư báo tin mừng cho cả địa phận và ban sắc thành lập Dòng theo Giáo Luật. Ngài đến Liên Thủy chủ lễ khai Dòng, đồng thời trao áo Dòng cho 36 tập sinh đầu tiên của Dòng. Vì nhiều lý do, cha Thủ chưa vào Nhà Tập lớp đầu, nhưng Ðức Cha Chi vẫn đặt cha làm Giám Ðốc Dòng Ðồng Công. Về sau, Ðức Cha đã xin Toà Thánh cho cha Thủ khỏi vào Tập Viện, và được khấn trọn đời ngày 2-2-1955 tại Gia Ðịnh, Nam Việt.
Tính đến đầu năm 1953, Dòng Ðồng Công chưa có cơ sở nào khả dĩ làm được tu viện. Mọi sự đều nhờ vào nhà xứ Liên Thủy. Thấy đất chật người đông, Ðức Cha và cha Quản Lý địa phận đã thu xếp mua lại khu nhà Phước họ Trung Lễ, sát liền Liên Thủy, và trao cho Ðồng Công làm nơi kiến thiết tu viện đầu tiên của Dòng. Tuy nhiên, khu này cũng chỉ dung nạp được 36 tập sinh và gần 20 đệ tử, nhưng chỉ dùng làm chỗ ngủ và nơi đọc kinh, chứ chưa có nhà bếp, nhà cơm. Những anh em còn lại, và mọi tiện nghi khác, đều phải nhờ nhà xứ Liên Thủy.
Ngày 25-3-1954, lớp tu sĩ tiên khởi của Dòng tuyên khấn lần đầu. Tiếp liền theo lớp khấn này, lớp dự tu thứ hai được giới thiệu với con số 50 người. Theo dự trù, lớp dự tu này sẽ mặc áo Tập vào tháng 9-1954. Thế nhưng, tình hình đất nước thay đổi, Ðiện Biên Phủ thất thủ, quân Pháp rút khỏi Bùi Chu, Nam Ðịnh. Trước mối đe doạ của Việt Minh, ngày 5-7-1954 cha Thủ tạm giải tán anh em về quê chờ đợi tình thế. Hầu hết anh em tản mát mỗi người một phương, nhưng vẫn ôm hoài bão có ngày đoàn tụ. Trên 30 anh em chưa kịp đi thì ngày 10-7-1954 quân đội Việt Minh phong toả nhà xứ Liên Thủy và bắt 25 anh em biệt giam tại Trà Bắc. Ngày 30-7-1954, mười ngày sau khi ký hiệp định Genève, 25 anh em trên đây mới được trả tự do. Ðược biết hiệp định Genève chia đôi đất nước và dân chúng được tự do chọn nơi cư trú, cha Thủ quyết định di cư toàn Dòng vào Nam Việt.
Di Cư Vào Nam
Một điều lạ là trước ngày 3-8-1954 Việt Minh ở Bùi Chu không cấp giấy cho bất cứ ai ra khỏi thôn mình, thế mà từ chiều hôm đó anh em Ðồng Công tới xin giấy thông hành, thì người cán bộ cứ cắm cúi viết giấy cho anh em và không vặn hỏi lý do. Một điều lạ khác là hầu hết anh em giải tán về quê, chiều ngày 3-8-1954 tự nhiên lục tục về Liên Thủy thăm Dòng, và mọi anh em đều xin được giấy thông hành như vậy. Cầm giấy trên tay anh em chia thành từng nhóm đi Hải Phòng. Chỉ trong một tuần lễ, hầu hết anh em đã có mặt tại Hải Phòng, mặc dầu có nhiều anh em ở xa Liên Thủy, không được biết ý định di cư của cha Thủ. Ngày 10-8-1954, anh em xuống tầu ville de Haiphong của hãng Denis Frères vào Nam Việt.
Tầu cập bến Bạch Ðằng, Sài Gòn, ngày 13-8-1954. Anh em Dòng trước tiên tạm cư tại Phú Nhuận rồi Biên Hoà, sau đó chuyển xuống Bình Ðức thuộc tỉnh Mỹ Tho, rồi về Hoà Khánh, Sađéc. Ngày 3-12-1954, Dòng lại di cư xuống Cù Lao Giêng (xã Tân Mỹ, quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên) do lời mời của Ðức Cha Chabalier, Giám Mục địa phận Nam Vang. Tại Cù Lao Giêng, lớp Tập thứ hai gồm 41 anh em tận hiến cho Mẹ ngày 15-12-1954. Nhưng Dòng Ðồng Công chỉ ở Cù Lao Giêng được gần một năm. Cuối tháng 11-1955, Dòng di chuyển về Thủ Ðức và bắt đầu một giai đoạn mới.
HAI MƯƠI NĂM PHÁT TRIỂN DÒNG (1955-1975)
Cho tới lúc này, Dòng Ðồng Công mới thành lập được gần ba năm, nhưng đã trải qua nhiều biến cố quan trọng song song với các biến cố của đất nước. Việc Dòng định cư tại Thủ Ðức ghi dấu đoạn đầu của 20 năm phát triển Hội Dòng, từ năm 1955 đến năm 1975. Trong 20 năm, Dòng Ðồng Công ngày một phát triển cả về nhân số cả về bề sâu và bề rộng.
Trước hết, xét về nhân số, khi di cư vào Nam Việt toàn Dòng có chừng 125 anh em, nhưng đến đầu năm 1975, tổng số anh em Dòng là 624, trong số đó có 177 tu sĩ vĩnh thệ (kể cả 23 linh mục), 91 tu sĩ hạn thệ, 4 tập sinh, 54 cộng sự viên, 281 em đệ tử, và 17 anh em đã qua đời. Cho tới năm 1975, Dòng Ðồng Công chưa bao giờ nghĩ tới việc cổ động ơn thiên triệu, mà hàng năm, số người xin nhập Dòng vẫn nhiều, trong số đó có cả linh mục và chủng sinh. Thời gian đầu, Ðệ Tử Viện chưa được chính thức thành lập, thế mà năm nào cũng có trên 100 đến 200 em xin gia nhập. Những người tu muộn cũng chiếm một phần không nhỏ. Vì ơn kêu gọi đông như vậy, nên mỗi lớp Tập thường có ít nhất trên 30 tập sinh. Tính đến năm 1975, Dòng có tất cả 11 lớp tu sĩ khấn.
Về bề sâu, Ðệ Nhất Ðại Công Hội của Dòng diễn ra hồi tháng 3 năm 1963. Ðại Công Hội đã chính thức bầu cử Tổng Giám Ðốc của Dòng, thay vào quyền Giám Ðốc vẫn do cha Thủ đảm nhiệm theo sự ủy thác của Ðức Cha Chi từ ngày thành lập Dòng. Toàn thể nghị huynh đã bầu cha Thủ làm Tổng Giám Ðốc tiên khởi của Dòng. Ðại Công Hội cũng thảo luận và nghị quyết về những Tục Lệ từ trước vẫn thi hành trong Dòng và vạch một đường lối đi vào tương lai. Tháng 9 năm 1970, Ðệ Nhị Ðại Công Hội được tổ chức theo Hiến Pháp Dòng. Ðại Công Hội này đã đồng tâm hợp ý suy tôn Ðấng Sáng Lập Dòng (cha Thủ) làm Tổng Giám Ðốc mãn đời, cho tới ngày cha cần rút lui để chuẩn bị cho người thay thế cha cai quản Dòng. Ngoài việc bầu Hội Ðồng Tổng Quản mới, Ðại Công Hội còn soạn thảo và biểu quyết một số quy chế, đồng thời tu chính Hiến Pháp và Tục Lệ cho hợp với thời hậu Công Ðồng Vaticanô II. Ðại Công Hội cũng tham luận và biểu quyết các chương trình nghị sự có liên quan đến việc cải thiện mọi phần tử Dòng.
Dòng Ðồng Công là một Dòng gồm linh mục và tu sĩ, các nhiệm vụ chính trong Dòng cũng như tại các cơ sở truyền giáo phần lớn đều do các linh mục chỉ huy, nên Dòng cần có một Học Viện để đào tạo các linh mục. Trong giai đoạn đầu, Dòng gửi một số anh em học tại Ðại Chủng Viện Xuân Bích, Thị Nghè, và Ðại Chủng Viện Thánh Giuse, Sài Gòn. Từ năm 1961, Dòng được phép lập Học Viện riêng. Mặt khác, để có bằng cấp của Giáo Hội và chính phủ, Dòng đã gửi một số linh mục du học tại Rôma và nhiều anh em học tại các đại học đạo cũng như đời.
Lớp Thần Học đầu tiên do Dòng huấn luyện.
Về bề rộng, trong 20 năm đầu, Dòng Ðồng Công đã có nhiều cơ sở:
Khu Nhà Mẹ thời gian đầu đặt tại Thủ Ðức. Ðến năm 1963, Dòng chuyển Nhà Mẹ ra Nhà Ðá (thuộc xã Mỹ Hiệp, quận Phù Mỹ, tỉnh Bình Ðịnh). Trung bình có trên 100 anh em sống tại Nhà Mẹ. Sau vì tình hình chiến tranh, khu Nhà Mẹ lại phải dời về Thủ Ðức năm 1974. Cũng tại Thủ Ðức, Dòng còn một tu viện lớn dung nạp chừng 70 người. Một Ðệ Tử Viện đủ chỗ cho gần 300 em. Trường Trung Tiểu Học và Ký Túc Xá ÐỒNG CÔNG thiết lập từ năm 1956, hàng năm có từ 800 đến trên 1000 học sinh. Một Giáo Sĩ Dưỡng Ðường thiết lập từ năm 1957 để đón các cha già yếu về hưu và quý cha muốn có nơi tĩnh tâm thuận tiện một trại nuôi gà hoạt động từ năm 1965 đến 1973, một nhà in cỡ trung bình và toà soạn Nguyệt San Trái Tim Ðức Mẹ với số độc giả trên 40,000 vào năm 1975.
Tại tỉnh Phước Long, năm 1962, Dòng lập một nhà ở Ðôn Luận. Công việc đang tiến triển thì chiến tranh lan rộng. Dòng bó buộc phải tạm bỏ cơ sở này vào năm 1964. Bù vào đó, Dòng vẫn còn một sở nhỏ tại xứ Châu Ninh, quận Bố Ðức. Sở này có một linh mục và một số anh em giúp việc trong xứ.
Tại tỉnh Bình Ðịnh, từ năm 1957, Dòng nhận phụ trách một khu truyền giáo trong địa phận Qui Nhơn tức là khu Mỹ Chánh thuộc quận Phù Mỹ. Ngoài việc rao giảng lời Chúa cho đồng bào tại xã Mỹ Chánh và các xã lân cận, Dòng còn mở trường Trung Học Toàn Mỹ tại Mỹ Chánh dạy miễn phí cho 400 học sinh. Vì tình trạng chiến tranh, năm 1964, khu truyền giáo Mỹ Chánh cùng với trường Toàn Mỹ tạm đóng cửa, mãi đến năm 1967 mới mở cửa lại. Khi Nhà Mẹ của Dòng chuyển ra Nhà Ðá, Dòng cũng thiết lập tại đây trường Trung Tiểu Học Ðồng Công dạy miễn phí cho 1,000 học sinh. Cũng tại tỉnh Bình Ðịnh, Dòng còn hai cơ sở: một tại Qui Ðức thuộc thị xã Qui Nhơn, một ở chính quận Phù Mỹ mỗi cơ sở có thể dung nạp vài ba chục người. Trường Trung Tiểu Học Ðồng Công tại Phù Mỹ khai giảng năm 1970 với khoảng 400 học sinh.
Tại tỉnh Bình Dương, năm 1965, Dòng lập một tu viện ở xã Bình Nhâm thuộc quận Lái Thiêu. Tu viện này trước vốn là một nhà Tĩnh Tâm của anh em Dòng, được thiết lập từ năm 1958. Nhưng năm 1971, Dòng bán lại cho giáo phận Phú Cường.
Tại thị xã Ðà Lạt, năm 1970 Dòng thiết lập cư xá sinh viên Rạng Ðông để giúp các sinh viên nghèo có nơi cư trú theo học đại học Ðà Lạt. Năm 1975 có chừng 70 sinh viên sống tại cư xá Rạng Ðông. Cạnh đó là một tu xá, nơi cư trú của chừng 20 tu sĩ Ðồng Công theo học đại học. Dòng cũng cho một số tu sĩ giúp Tiểu Chủng Viện Simon Hoà từ năm 1968, giúp Ðại Học Ðà Lạt từ năm 1969, và giúp Cư Xá Sinh Viên Trương Vĩnh Ký từ năm 1972.
Tại tỉnh Lâm Ðồng, từ năm 1971 Dòng lập một tu viện tại Ðồng Lạc thuộc quận Di Linh có thể dung nạp chừng 100 anh em. Tu viện này toạ lạc trong một khu đồn điền rộng 47 mẫu tây trồng trà, cà phê, bơ, mít... mà Dòng đã mua lại của một người Pháp. Ngoài ra, Dòng còn cử một số tu sĩ trông coi và điều khiển hai đồng điền trà, cà phê... thuộc Ðại Học Ðà Lạt: một tại Ðại Nga, gần tỉnh ly?Lâm Ðồng, một tại Zdiratô.
Tại tỉnh Bình Thuận, đầu năm 1974, Dòng lập một cơ sở ở xã Lương Sơn thuộc quận Hoà Ða, dung nạp chừng 15 anh em, và một trường Trung Tiểu Học dạy miễn phí cho 400 học sinh. Ngoài ra, một đồn điền rộng 100 mẫu tây tọa lạc tại Bầu Ốc đang được khai phá thì tình hình đất nước biến chuyển đến hồi nghiêm trọng, mọi hoạt động đều phải bỏ dở. Ðầu tháng 4-1975, anh em làm việc tại Lương Sơn phải di tản về miền Nam.
Dòng Ðồng Công đang trên đà phát triển về nhân số, về bề sâu và bề rộng, thì biến cố tháng 4-1975 đưa Dòng vào một khúc quanh lịch sử. Trên 170 linh mục, tu sĩ của Dòng vượt trùng dương về miền vô định. Còn chừng 150 linh mục, tu sĩ, cộng sự viên, và gần 300 em đệ tử ở lại Việt Nam. Lịch sử Hội Dòng bắt đầu một chương mới.
http://www.dongcong.net/DongDongCong/LuocSuDong.htm
CHA ĐAMINH MARIA TRẦN ĐÌNH THỦ - Sự nghiệp một Chi Dòng
Lịch sử Dòng Đồng Công gắn liền với lịch sử Việt Nam. Một trong những biến cố quan trọng nhất của đất nước là việc miền Nam rơi vào tay cộng sản. Dòng Đồng Công vì thế cũng phải chấp nhận những phân ly đau đớn. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, trên 170 phần tử của Dòng phải rời xa quê hương, di cư lần thứ hai tới đất khách quê người, để lại khoảng 150 linh mục, tu sĩ và gần 300 em đệ tử sinh bên kia bờ đại dương. Nhóm anh em di cư đã làm nên lịch sử Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ.
1. Cuộc Di Cư Vô Định:
Mặc dầu được qui định trong Hiến Pháp cũng như Tục Lệ Dòng, nhưng việc thiết lập những Chi Dòng Đồng Công ngoại quốc chưa bao giờ có cơ hội thực hiện. Đến đầu tháng 4 năm 1975, vì tình trạng khẩn trương của miền Nam Việt Nam, cha Tổng Giám Đốc phải để một số lớn anh em di chuyển xuống Phước Tỉnh, một làng tại bờ biển Phước Tuy, để khi hữu sự sẽ làm một cuộc vượt trùng dương tuy vô định nhưng với lòng cậy tin mạnh mẽ nơi Chúa Quan Phòng. Trong lúc đó, tại Nhà Mẹ, Hội Đồng Tổng Quản Dòng quyết định thành lập Chi Dòng Đồng Công Hải Ngoại với mục đích để dễ dàng "bảo tồn Dòng và phát triển việc truyền giáo". Ngày 23 tháng 4 năm 1975, để thực hiện quyết định này, một Ban Lãnh Đạo cuộc di cư thành hình. Ban có trách nhiệm săn sóc hướng dẫn anh em và quyết định phương tiện ngày giờ ra đi. Sáng 27 tháng 4 năm 1975, tỉnh lyï Phước Tuy bị tấn công. Chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975, Vũng Tàu bị phong toả. Anh em Đồng Công trên 7 chiếc thuyền đánh cá cùng với từng trăm chiếc khác của dân chúng mới hớt hả rẽ sóng ra khơi. Xa quê hương Việt Nam từ đó.
Giữa biển cả mênh mông, những con thuyền đánh trở nên quá mong manh bé nhỏ, luôn chao lên hụp xuống hãi hùng. Đang lúc lao đao nguy hiểm, rất may một vài chiếc trực thăng lác đác từ đất liền bay cùng hướng ra khơi. Đoán được có tàu lớn ngoài hải phận quốc tế, các thuyền cùng loạt gắng nhoài theo hy vọng. Quả vậy, sau nhiều giờ vật lộn với sóng nước chập chờn, đoàn người đã gặp được những chiếc tàu chở hàng khổng lồ của Hoa Kỳ sừng sững hiện ra. Khi biết mình được cứu nguy, mọi người nhốn nháo quên cả mệt mã, hết cả say sóng, chen chúc nhau lên tàu bằng mọi cách. Ai cũng sợ số người được cứu vớt có hạn, nên cảnh tượng xô bồ rất hỗn loạn xảy ra, khiến nhiều người rớt xuống thuyền, xuống biển thiệt mạng, nhiều gia đình bị xé lẻ. Vì thế, anh em Đồng Công bị phân tán lên nhiều tàu khác nhau. Có anh em chưa lên được ngay, bị trôi dạt cả tháng, phải chống chọi với biển nước mênh mông. Có anh em không còn tàu vớt đã thất vọng quay trở lại đất liền chấp thuận sống với quyền lực mới. Trên tàu, tâm trạng mọi người đang hoang mang thì qua đài phát thanh, ông Dương Văn Minh nghẹn ngào tuyên bố đầu hàng cộng sản và trao trọn miền Nam cho quyền lực mới. Nhiều người bật khóc tức tưởi. Hôm đó là ngày 30 tháng 4 năm 1975 đau buồn.
2. Những Ngày Tháng Tạm Cư
Một tuần lễ trên biển cả vượt nửa vòng trái đất, anh em Đồng công cùng với từ ba, bốn ngàn đồng bào trên mỗi chiếc tàu nhân đạo, đã lần lượt được đưa đến các trại tị nạn trên đảo Guam, đảo Wake, rồi từ đó vào các trại tạm cư trong lục địa Hoa Kỳ như Pendleton, Fort Chaffee, Indiantown Gap, để lập thủ tục giấy tờ và tìm kiếm người bảo trợ. Tuy mỗi lần di chuyển là mỗi lần bị phân tán mỏng, nhưng anh em Đồng Công đều cố gắng duy trì đời sống tu trì chung với nhau bao nhiêu có thể, và lợi dụng hoàn cảnh như một dịp truyền giáo thực tế.
Có rất nhiều gia đình, tu hội hay giáo xứ Mỹ hảo tâm đứng ra bảo lãnh cho các gia đình tị nạn Việt Nam lúc đó. Tuy nhiên, nói đến bảo lãnh cho cả một cộng đoàn như nhóm anh em Đồng Công di cư quả là một vấn đề! Một số anh em tới Fort Chaffee trước đã cố gắng dò hỏi và bàn thảo với một số linh mục Việt Nam du học tại Mỹ lâu năm. Các vị đều cho mong ước sống chung gần 200 người như một tu viện khi đó là điều không thể thực hiện được. Các vị góp ý nên phân tán mỏng để được bảo trợ đi các nơi, sau này làm ăn dễ dàng rồi tụ họp lại thì có hy vọng giải quyết vấn đề. Thực ra, theo cách thường, đó là những ý kiến chính đáng và hợp lý, nhất là đối với xã hội này. Nhưng với quan niệm của đa số phần tử Đồng Công, thì đó quả là một tan tác đau thương. Thế nên, mọi người tiếp tục suy tính, và nhất là cầu nguyện để xin Chúa sắp xếp cách thế như ý Chúa an bài.
Việc phải đến đã đến. Với nhiệm vụ Phó Tuyên Úy trại tị nạn Fort Chaffee, AR, cha Thomas McAndrew hiểu biết hoàn cảnh và nguyện vọng của một cộng đồng Dòng đông đảo như vậy, ngài đã tình nguyện giúp đỡ liên lạc, đồng thời khích lệ anh em vững tâm tin vào tình yêu Chúa Quan Phòng lo liệu. Chính nhờ vị ân nhân này, Hội Đồng Cố Vấn địa phận Springfield-Cape Girardeau, Missouri, dưới quyền chủ toạ của Đức Cha Bênađô Law trong một phiên họp ngày 28 tháng 5 năm 1975, đã quyết định sẵn sàng bảo trợ và nhận mọi phần tử Đồng Công vào giáo phận mình. Tin mừng đó đã phấn khích anh em vững tâm và hân hoan không ít. Chỉ sau đó một tuần, Đức Cha Law (sau này làm Hồng Y Tổng Giám Mục Boston, MA) đích thân đến trại Fort Chaffee để gặp gỡ, thăm hỏi, dâng lễ và tiến hành thủ tục bảo trợ. Cùng đi với ngài, có cha Chủ Tịch Hiệp Hội Các Dòng Nam tại Hoa Kỳ và cha Giám Tỉnh Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm (OMI), người đã chấp thuận cho Dòng Đồng Công mượn khu chủng viện Our Lady of the Ozark của Dòng tại Carthage, Missouri.
3. Định Cư:
Vượt trên mọi mong ước và ngoài cả những tính toán của anh em, tình thương Mẹ trên trời đã xếp đặt và lo liệu cho con cái Mẹ cách chu đáo tuyệt vời. Ngày 30 tháng 6 năm 1975, nhóm anh em đầu tiên (48 người) từ trại Fort Chaffee được xe bus chở về định cư tại Carthage. Đức Cha Law, Giám Mục giáo phận sở tại, cùng với một số vị ân nhân đã đến tận chủng viện vui vẻ đón tiếp và hân hoan chào mừng anh em vào địa phận ngài. Chủng viện này do các cha Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm quản trị trước đây, nhưng đã đóng cửa trên 5 năm, tuy nhiên vẫn được cha John Weissler, OMI, bảo trì săn sóc chu đáo. Ngoài toà nhà bằng đá to lớn ra, chủng viện còn có nhà nguyện, nhà thể thao, nhà ăn, nhà các cha và mấy sân banh rộng rãi.
Thế rồi, từ các trại tạm cư, anh em lần lượt được đưa về xum họp dần dần. Đồng thời cộng đoàn cũng chọn một Ban Quản Trị và Ban Cố Vấn lâm thời để tiệc việc điều hành. Cho đến ngày 8 tháng 8 năm 1975, lễ kính Thánh Đaminh, Bổn Mạng Đấng Sáng Lập, nhóm anh em từ đảo Wake mới về tới Carthage. Thế là kể như anh em đã đoàn tụ đông đủ sau 4 tháng phiêu linh lưu lạc. Nhiệm vụ của Ban Tổ Chức Di Cư chấm dứt, và quyền lãnh đạo cộng đoàn được trao cho cha Cyrillô Vũ Thanh Thiên, Tổng Bí Thư đương nhiệm, là người độc nhất trong Hội Đồng Tổng Quản Dòng đi được với anh em. Cha Tổng Bí Thư đã cùng với anh em cầu nguyện và tổ chức một Đại Hội để bầu cử Hội Đồng Quản Trị Dòng Đồng Công Hải Ngoại (danh xưng lúc đó). Hội Đồng này gồm một vị Giám Đốc (linh mục Ignatiô M. Lê An Đại), bốn vị Phụ Tá, Thư Ký, và Quản Lý với nhiệm kỳ 3 năm (1975-1978). Sau khi tường trình với Toà Thánh về việc bảo trợ Dòng Đồng Công, Đức Cha Law được Thánh Bộ Truyền Giáo ủy thác trách nhiệm bản quyền đối với Dòng Đồng Công Hải Ngoại theo văn thư Protocol số 4546/75 ký ngày 16 tháng 9 năm 1975.
4. Phát Triển:
Kể từ đó, với sự an bài kỳ diệu của trời cao, Dòng Đồng Công Hải Ngoại bắt đầu phát triển về nhiều phương diện. Từ việc đào sâu và thực thi đứng đắn các Tinh Thần Dòng, các lời trăn trối của Đấng Sáng Lập qua những năm thiêng liêng được tổ chức như năm Thơ Ấu (1978), năm Cậy Trông (1980), năm Bác Ái (1983), qua những dịp học hỏi, huấn đức, qua các lớp Thánh Kinh, Thánh Mẫu, các cuộc cấm phòng... đến việc phát triển văn hoá do sự tiếp tay của các Dòng Hoa Kỳ gửi người đến dạy Anh ngữ cho anh em, thuyết trình về văn hoá và phong tục người Mỹ. Ngay năm sau, Dòng đã gửi anh em vào các trường đại học như Southwest Missouri State University, Springfield, MO; Benedictine College, Atchison, KS; Columbia, MO; hoặc học các ngành chuyên môn như nghề in, nghề hình tại Atchison, KS; nghề trồng tỉa tại Omaha, NE; nghề y tá tại Joplin, MO. Về tiến chức, Đức Cha Law đã truyền chức Phó Tế và sau đó chức Linh Mục cho 12 anh em tại Springfield vào năm 1976 và 1977. Dòng tiếp tục gửi anh em vào các chủng viện triết học như Conception Seminary College, Conception, MO; chủng viện thần học Kenrick, St. Louis, MO. Notre Dame Seminary, New Orleans, LA.
Công cuộc hiến dâng nối tiếp qua các lớp khấn tạm, khấn trọn. Đệ Tử Viện hình thành từ tháng 8 năm 1975 với con số 16 đệ tử sinh, để đến niên khóa 1978-1979 sĩ số lên tới 50 em. Cũng nhờ đó số thỉnh sinh và tập sinh của Dòng ngày một đông đảo. Tuy ơn gọi hàng năm vẫn dồi dào, nhưng hiện thời Đệ Tử Viện chỉ đủ chỗ cho 30 em mỗi năm. Số chí nguyện sinh lớn tuổi hơn vẫn xin đến tìm hiểu ơn gọi và nếu đủ điều kiện, vẫn tiếp tục nhập Thỉnh Viện, Tập Viện của Dòng.
Về cơ sở, ngay từ tháng 9 năm 1976, Dòng thiết lập thêm một tu viện chính thức theo Giáo Luật tại Dwight, NE (sau này di chuyển về Lincoln, NE), và một tu xá (nơi anh em trú ngụ để theo học đại học) lấy tên là Tu Xá Mẹ Mân Côi tại Springfield, MO. Tháng 12 năm 1976, Dòng mua một nông trại 107 mẫu Anh tại Ash Grove, MO, để chăn nuôi gia súc và trồng tỉa. Tháng 6 năm 1978, vì nhu cầu anh em theo thần học, Dòng đã mua nhà tại St. Louis, MO, làm tu xá Mẹ Dâng Mình. Sau đó, tháng 2 năm 1980, Dòng tiến về miền Nam mua một trụ sở tại Houston, TX, để lập nhà in Sao Mai.
Đặc biệt nhất là từ tháng 5 năm 1981, Dòng mua hẳn khu nhà chính tại Carthage, MO, do Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm bán lại. Với khế ước mua bán này, Dòng quản trị luôn Đền Thánh Khiết Tâm Mẹ, khu nhà in phí tây đại lộ Grand, nhà ăn, nhà thể thao, và Giáo Sĩ Dưỡng Đường, nơi ngay từ tháng 7 năm 1977 Dòng được hân hạnh đón tiếp các Đức Cha, quý cha về hưu dưỡng tại đây, trong đó có Đức Tổng Giám Mục Phêrô M. Ngô Đình Thục, Đức Giám Mục Giacôbê Huỳnh Văn Của, cha nguyên Viện Trưởng Đại Học Đà Lạt Lê Văn Lý, cha nguyên Viện Trưởng Đại Học Huế Cao Văn Luận, cha nguyên chánh xứ La Vang, Quảng Trị, Phêrô Trần Điển, cha giáo Giuse Phạm Tuấn Trang, CM... Đến tháng 8 năm 1985, Dòng mở rộng sang miền tây, mua nhà xứ Đức Mẹ Guadalupe thuộc thành phố Highgrove, CA, để lập Đền Thánh Đức Mẹ Dâng Con giúp cho các hoạt động tông đồ thiết thực hơn.
Để thực thi mục đích Truyền Giáo của Dòng, một số linh mục và anh em đã được cử đi phục vụ trực tiếp tại các giáo xứ, như làm chánh phó xứ Nữ Vương Việt Nam tại Port Arthur, TX (tháng 2/1977); giáo xứ Khiết Tâm Mẹ ại Lincoln, NE (tháng 6/1977); giáo xứ Mỹ St. Mary tại Joplin, MO; Immaculate Conception tại Springfield, MO; St. John Vianney tại Mountain View, MO; hoặc làm tuyên úy cho các cộng đoàn Công Giáo Việt Nam tại Grand Rapids, Detroit, MI; Lansing, MI; Green Bay, WI; Wichita Falls, TX; Fort Worth, TX; Oklahoma City, OK; Omaha, NE; Dodge City, KS; Kansas City, MO; St. Louis, MO; Boston, MA; Denver, CO; Wichita, KS; Salina, KS; Rogers, AR; Little Rock, AR; St. Paul, MN; Amarillo, TX; hoặc tuyên úy các bệnh viện như bệnh viện St. Vincent tại Monett, MO; St. Francis tại Mountain View, MO; v.v...
Để truyền bá mệnh lệnh Đức Mẹ Fatima, và để bảo tồn cùng phát huy văn hoá Việt Nam, ngay từ cuối năm 1977, Dòng tái bản Nguyệt San Trái Tim Đức Meï (thành lập từ năm 1949 tại Bắc Việt, tiếp nối tại Nam Việt năm 1954), và hô hào phong trào Đền Tạ Trái Tim Đức Mẹ. Hiện nay hai linh mục Dòng làm Tổng Tuyên Úy cho Đạo Binh Hồn Nhỏ và Đạo Binh Xanh Việt Nam tại Hoa Kỳ. Dòng mở Văn Phòng Liên Lạc Đền Thánh Khiết Tâm Mẹ (năm 1979) với các tuần cửu nhật hàng tháng để dâng lễ, cầu nguyện cho các gia đình gửi ý nguyện về xin khấn; đồng thời liên lạc bằng Lá Thư Đền Thánh đang được phổ biến rộng rãi. Ngoài ra, Dòng cũng thành lập Hội Truyền Giáo Đồng Công cho những người muốn cộng tác với Dòng rao giảng Tin Mừng. Từ ít năm gần đây, cứ vào độ Giáng Sinh, anh em cũng thiết trí cuộc triển lãm các hình điện ban đêm nội dung về lịch sử cứu độ, và mời dân chúng địa phương và các vùng lân cận đến coi để tưởng nhớ công ơn Cứu Chuộc của Chúa Cứu Thế và cảm mến Tình Thương của Ngài đối với loài người.
Dòng cũng bảo trợ và tổ chức những Ngày Thánh Mẫu vào mùa hè hàng năm. Những Ngày Thánh Mẫu này thường kéo dài từ chiều thứ Năm đến sáng Chúa Nhật của một cuối tuần. Chương trình gồm những Thánh Lễ liên tiếp cho các giới, các cuộc hội thảo, sinh hoạt, kiệu Thánh Thể, cung nghinh Thánh Tượng Mẹ Fatima. Lễ Đại Trào, nhất là những giờ hoà giải với Thiên Chúa và anh chị em. Số người tham dự mỗi năm một tăng. Từ năm 1978 với gần 1,500 người, sau đó số người tham dự mỗi năm cứ tăng thêm mãi cho đến gần 70 ngàn người tham dự trong Ngày Thánh Mẫu năm 2000.
Song song với các hoạt động đó, tháng 8 năm 1978, nhiệm kỳ I của Hội Đồng Quản Trị Dòng Đồng Công Hải Ngoại hết hạn, anh em đã liên lạc với Nhà Mẹ và được thư của Đấng Sáng Lập và Hội Đồng Tổng Quản chỉ định một Ban Quản Trị mới thay thế với thời hạn 5 năm (1978-1983). Cha Ignatiô M. Lê An Đại tái cử Giám Đốc (nhưng tháng 2 năm 1979 cha xin từ chức, và Hội Đồng Tổng Quản Nhà Mẹ đã cử cha Barnabê Nguyễn Đức Kiên thay thế). Cũng trong dịp này, Đại Hội kỳ II đã họp trong 3 ngày để thảo luận về cách áp dụng Tinh Thần Dòng cũng như một ít thích nghi chung.
Sau hai năm thi hành nhiệm vụ, Hội Đồng Quản Trị nhiệm kỳ II thấy với hoàn cảnh hiện thời của Việt Nam, sự liên lạc giữa Dòng Đồng Công Hải Ngoại với Nhà Mẹ, cách riêng với Đấng Sáng Lập, ngày một khó khăn, nên đã cử một phái đoàn sang Rôma để lĩnh ý của Toà Thánh về nội tình của Dòng tại hải ngoại. Được biết Thánh Bộ Truyền Giáo (vì Dòng ở xứ truyền giáo nên trực thuộc Thánh Bộ này) đã bàn hỏi với Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Bình, Tổng Giám Mục giáo phận có Nhà Mẹ của Dòng, và phái đoàn Đồng Công Hoa Kỳ, nên ngày 25 tháng 10 năm 1980, Thánh Bộ đã ký văn thư chính thức số Protocol N. 4931/80 thành lập CHI DÒNG ĐỒNG CÔNG HOA KỲ, và cử Đức Cha địa phận Springfield-Cape Girardeau, nơi có nhà Chi Dòng, giữ nhiệm quyền "giám sát" Chi Dòng trong thời hạn 10 năm kể từ ngày ký văn thư. Với sắc lệnh trên, Toà Thánh đồng thời cũng dành cho Đức Cha quyền bổ nhiệm vị Giám Tỉnh và bốn vị Phụ Tá của Tỉnh Dòng Đồng Công này mỗi khoá 3 năm.
Ngày 30 tháng 12 năm 1980, sau khi đã thăm dò ý kiến của các tu sĩ vĩnh thệ trong Dòng, Đức Cha Law, Giám Mục bản quyền đương nhiệm đã tuyên bố vị Giám Tỉnh nhiệm kỳ I (1981-1983) của Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ (cha Barnabê M. Nguyễn Đức Kiên) và bốn vị Phụ Tá. Đến nhiệm kỳ II (1984-1986), cũng chính vị Giám Tỉnh đương nhiệm tái cử. Từ ngày thành lập Chi Dòng, Dòng thường xuyên liên lạc với các Thánh Bộ của Toà Thánh, nhất là Thánh Bộ Truyền Giáo, Đức Tin, và Dòng Tu; đồng thời cũng có nhiều cơ hội được triều yết riêng Đức Thánh Cha để tấu trình lên Ngài những điểm quan hệ về Dòng.
Dòng Đồng Công Hải Ngoại hay Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ từ năm 1975, nhờ ơn Chúa và Đức Mẹ phù trì, đã trải qua những ngày tháng lênh đênh vô định trên biển cả, những tan tác phân ly trong các trại tạm cư, và đã được đoàn tụ êm ấm tại vùng đất yên hàn tự do hơn nữa, còn được những cơ hội thuận tiện, những tấm lòng ưu ái khích lệ, giúp đỡ, nên đã phát triển về nhiều phương diện đáng mừng. Phải chăng đó là quyền năng Chúa Quan Phòng và Đức Mẹ Đồng Công đã thực hiện qua những dụng cụ thô hèn bất tài là các phần tử Dòng, và qua những đóng góp rất quý giá cả tinh thần lẫn vật chất của các cha anh, của các đấng bảo trợ, của các vị ân nhân, các vị thân nhân và bạn hữu xa gần để Dòng Đồng Công nói chung và Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ nói riêng có được bộ mặt và bước tiến như ngày nay. Những công ơn và những tấm lòng vàng đó chỉ trời cao mới có thể thấu hiểu và đền đáp cân xứng.
http://www.dongcong.net/DongDongCong/LuocSuDong/LuocSuChiDong.htm
Ở Việt Nam, trước 1975, Dòng Đồng Công là một dòng ít được biết đến, so với các hội dòng anh chị, như Dòng Đaminh, Phanxicô, Dòng Tên, Chúa Cứu Thế, Don Bosco, Lasan, Xitô, Mến Thánh Giá v.v. Ở Hoa Kỳ, trái lại, hầu như không người Công Giáo nào không biết tới, vì hội dòng này dính liền với biến cố Ngày Thánh Mẫu hằng năm (năm nay là năm thứ 30) ở Carthage Missouri, Trung Tâm của Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ. Thế nhưng, vẫn ít ai biết được thật sự và đầy đủ về hội dòng này nói chung và về chi dòng ở Hoa Kỳ nói riêng? Chẳng hạn vấn đề làm sao hội dòng này có nhiều cha đông thày hơn tất cả mọi hội dòng Việt Nam khác ở Hoa Kỳ? Nếu nói rằng vì họ sang Mỹ đông nhất từ năm 1975, tới 170 cha thày, thì tại sao họ lại làm được như thế mà các dòng khác lại không? Muốn biết rõ sự kiện ra đi như một cuộc lên đường, một cuộc xuất hành, hơn là một cuộc chạy loạn vào thời điểm quốc biến 1975 này của 170 anh em Dòng Đồng Công đã xẩy ra như thế nào, người ta không thể không nói tới vị sáng lập dòng là Cha Đaminh Maria Trần Đình Thủ. Xin xem tiếp bài: "Lênh Đênh Hải Ngoại: Vượt Thoát hay Lên Đường" của một nhân chứng về biến cố xuất ngoại của 170 anh em Đồng Công dịp quốc biến 1975, liên quan tới bí mật về vị sáng lập dòng này, vào Thứ Ba tuần này, 26/6, ngày an táng ngài ...