GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ SAU 17/8/2007 TUẦN 19 THƯỜNG NIÊN |
? Tông Huấn Evangelii Nuntiandi của Đức Thánh Cha Phaolô VI: IV - CÁC PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA (56-58)
? Thông Điệp Redemptoris Missio của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: III - THÁNH LINH LÀ TÁC NHÂN CHÍNH CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO (47-51)
? Ánh Sáng Thế Gian - Ánh Sáng Đã Chiếu Soi…
Tông Huấn Evangelii Nuntiandi của Đức Thánh Cha Phaolô VI: V - CÁC THÀNH PHẦN THỪA HƯỞNG VIỆC TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA (56-58)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
56. Thành Phần Không Hành Đạo
Lãnh vực thứ hai đó là lãnh vực của những người không hành đạo. Ngày nay có rất đông người lãnh nhận phép rửa hầu như chưa chính thức chối bỏ Bí Tích Thánh Tẩy của mình, song lại là những người hoàn toàn dửng dưng với Bí Tích này và không sống hợp với Bí Tích này. Hiện tượng không hành đạo này là một hiện tượng rất cổ xưa trong lịch sử Kitô giáo; nó là thánh quả của tính yếu đuối tự nhiên, một bất nhất sâu xa mà chúng ta không may mang nặng trong mình. Tuy nhiên, ngày nay nó tỏ cho thấy có một số đặc tính mới. Nó thường là kết quả của một kiểu mẫu mất gốc trong thời đại chúng ta. Nó cũng xuất phát từ sự kiện là các Kitô hữu sống sát cận với những người không có niềm tin và liên lỉ cảm thấy tác dụng của tình trạng thiếu tin tưởng. Hơn nữa, những Kitô hữu không hành đạo ngày nay còn hơn những người không hành đạo trong những thời gian trước đây nữa, khi họ tìm cách cắt nghĩa và biện minh cho chỗ đứng của mình theo kiểu sống đạo tại tâm, theo kiểu độc lập cá nhân hay kiểu chuyên chính riêng tư.
Như thế là chúng ta, một đàng có những người vô thần cũng như những người không tin tưởng gì cả, đàng khác cũng có những người không hành đạo, và cả hai nhóm người này tạo nên một trở ngại đáng kể cho việc truyền bá phúc âm hóa. Mối trở ngại của nhóm thứ nhất mặc hình thức chối bỏ nào đó và không có khả năng hiểu được một thứ giá trị mới của sự vật, một thứ ý nghĩa mới của thế giới, của cuộc sống và của lịch sử; nếu không bắt đầu từ tuyệt đối thể thần linh, người ta không thể hiểu được cái giá trị mới ấy. Mối trở ngại của nhóm thứ hai mặc hình thức trì trệ và có một thái độ hơi ngược ngạo của một người cảm thấy rằng mình là người trong gia đình, của một người cho rằng mình biết tất cả và đã cố thực hành tất cả, đồng thời lại là một người không còn tin gì nữa.
Khuynh hướng tục hóa vô thần và tình trạng thiếu hành đạo xẩy ra nơi người lớn cũng như nơi giới trẻ, nơi những nhà lãnh đạo trong xã hội cũng như nơi thành phần lê dân, ở mọi trình độ giáo dục, nơi cả những Giáo Hội cổ kính cũng như nơi những Giáo Hội trẻ trung. Tác động truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội không thể nào bỏ qua cả hai lãnh vực này, nó cũng không được khựng lại khi phải đối diện với chúng; nó phải liên lỉ tìm kiếm những phương tiện và ngôn từ xứng hợp để trình bày hay tái bày bỏ cho họ mạc khải của Thiên Chúa cùng với đức tin của con người nơi Chúa Giêsu Kitô.
57. Loan Báo cho Đại Chúng
Như Chúa Kitô trong thời gian Người rao giảng, như 12 Vị vào buổi sáng Ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Giáo Hội cũng nhìn thấy trước mắt mình một đám đông vô số người cần đến Phúc Âm và có quyền được nghe rao giảng Phúc Âm, vì Thiên Chúa “muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý” (1Tim.2:4).
Giáo Hội ý thức sâu xa nhiệm vụ của mình trong việc rao giảng ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Biết rằng sứ điệp Phúc Âm không phải là để dành cho một nhóm nhỏ của thành phần khởi xướng, thành phần đặc ân hay thành phần được tuyển chọn, mà là nhắm đến mọi người, Giáo Hội có cùng một ánh nhìn thương hại trên đám người lang thang và kiệt quệ “như chiên không người chăn”, để rồi Giáo Hội hay lập lại lời của Người: “Tôi thương hại tất cả đám dân này” (Mt.9:36, 15:32). Thế nhưng, Giáo Hội cũng nhận thức được sự kiện là, muốn cho việc rao giảng Phúc Âm được hiệu nghiệm, Giáo Hội phải truyền đạt sứ điệp của mình vào cõi lòng của quần chúng, vào các cộng đồng tín hữu mang tầm hoạt động có thể vươn tới kẻ khác và phải vươn tới kẻ khác.
58. Các Cộng Đoàn Giáo Hội Cơ Bản
Cuộc Thượng Hội Giám Mục Thế Giới vừa rồi đã đặc biệt chú trọng đến những “cộng đoàn nhỏ bé” này, hay communautés de base, vì chúng thường được nói đến trong Giáo Hội ngày nay. Chúng là gì và tại sao chúng phải trở nên thành phần được thừa hưởng việc truyền bá phúc âm hóa, đồng thời cũng trở thành chính các nhà truyền bá phúc âm hóa?
Theo một số lời phát biểu khác nhau trong cuộc Thượng Hội, thì các cộng đoàn như thế, không nhiều thì ít, đang bừng nở khắp trong Giáo Hội. Chúng khác nhau rất nhiều, chẳng những trong cùng một miền mà càng khác hơn nữa giữa các miền với nhau.
Nơi một số miền, chúng xuất hiện và phát triển hầu như xuôi chảy trong lòng Giáo Hội, khi chúng biết liên kết với sự sống của Giáo Hội, được bồi dưỡng bằng giáo huấn của Giáo Hội và hiệp nhất với các vị chủ chiên của Giáo Hội. Trong những trường hợp này, chúng được xuất phát từ nhu cầu cần phải sống sự sống của Giáo Hội hơn nữa, hay được phát xuất từ lòng ước muốn và việc tìm kiếm một chiều kích nhân bản hơn, một chiều kích mà các cộng đồng giáo hội lớn chỉ có thể cung cấp, một cách khó khăn, đặc biệt ở nơi những thành phố tân tiến lớn, những nơi vừa có một cuộc sống hỗn độn lại vừa hòa trộn. Các cộng đồng như vậy, theo cách thế riêng của mình, có thể chỉ là một việc nới rộng thêm về lãnh vực thiêng liêng và đạo nghĩa – lãnh vực thờ phượng, đào sâu đức tin, bác ái huynh đệ, nguyện cầu, liên lạc với các vị chủ chăn – ở một cộng đoàn xã hội nhỏ bé, chẳng hạn như ở một khu làng v.v. Ngoài ra, những cộng đoàn nhỏ bé này, với mục đích để lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, để lãnh nhận các phép bí tích và để thắt mối giây đức ái, còn nhắm đến việc qui tụ các nhóm người có liên hệ với nhau về tuổi tác, văn hóa, tình trạng dân sự hay hoàn cảnh xã hội: như nhóm các cặp vợ chồng, giới trẻ, chuyên gia v.v.; qui tụ những người đã từng hợp nhất với nhau để tranh đấu cho công chính, cho việc tương thân cứu trợ người nghèo, cho việc tiến bộ nhân bản. Trong những trường hợp khác, các cộng đoàn nhỏ bé qui tụ Kitô hữu lại ở những nơi thiếu linh mục không thích thuận với cuộc sống của một cộng đồng giáo xứ bình thường. Tất cả những cộng đoàn được đề cập đến ở đây đều thuộc về các cộng đồng được thiết lập trong Giáo Hội, nhất là trong các Giáo Hội và các giáo xứ riêng.
Trái lại, ở những miền khác, communautés de base được hình thành bởi tinh thần mỉa mai phê phán Giáo Hội, một Giáo Hội họ nhanh nhảu bỉu môi cho là “gò bó”, và là một Giáo Hội họ chống lại bằng cách hợp thành một cộng đoàn đặc sủng, không bị ràng buộc bởi cơ cấu tổ chức và tha hồ thoải mái sống theo Phúc Âm. Như thế, đặc tính rõ ràng của họ là thái độ bới vết tìm sâu và phủ nhận những gì liên quan đến những biểu lộ bề ngoài của Giáo Hội, như phẩm trật của Giáo Hội, các dấu hiệu của Giáo Hội. Họ hoàn toàn phản lại Giáo Hội. Theo đường hướng này, thì động lực chính của họ rất dễ biến thành chủ trương của họ, và rất hiếm có trường hợp họ lại không mau chóng trở thành nạn nhân của một giải pháp chính trị, hay của một trào lưu tư tưởng, rồi của một tổ chức, thậm chí của một đảng phái, chuốc lấy cho mình tất cả mọi nguy cơ chực chờ trong việc trở thành một công cụ bị lạm dụng.
Tính cách khác nhau đã rõ ràng: những cộng đoàn theo tinh thần chống đối tự tách mình khỏi Giáo Hội, và khỏi sự hiệp nhất của Giáo Hội bị họ làm tổn thương, có thể được gọi thực là communautés de base, nhưng trong trường hợp này nó mang danh nghĩa ấy hoàn toàn về phương diện xã hội mà thôi. Họ không thể được gọi là communautés de base về phương diện giáo hội mà lại không lạm ngữ, mặc dầu có thù ghét hàng giáo phẩm họ vẫn cho rằng họ còn hiệp nhất với Giáo Hội. Danh xưng này thuộc về các nhóm người khác được nói đến trước đây, những người qui tụ lại trong lòng Giáo Hội, để hiệp nhất với Giáo Hội cũng như để giúp cho Giáo Hội được phát triển.
Những cộng đoàn đích thực mang danh xưng này sẽ là một nơi truyền bá phúc âm hóa, vì lợi ích của các cộng đồng lớn hơn, nhất là của các Giáo Hội riêng. Như Chúng Tôi nói vào lúc kết thúc cuộc Thượng Hội vừa rồi, chúng sẽ là niềm hy vọng cho Giáo Hội hoàn vũ, ở chỗ:
® Họ tìm cách bồi bổ mình bằng Lời Chúa, và không để cho mình bị vướng mắc vào việc đấu tranh chính trị, hay vào những ý hệ theo thời, những gì đang muốn khai thác khả năng nhân bản phong phú của họ;
® Họ giữ mình không để mình bị lôi cuốn bởi chước cám dỗ thịnh hành hơn bao giờ hết, vào việc chống kháng có qui mô, cũng như vào thái độ phê phán cực đoan, viện lý là chính đáng và làm theo tinh thần hợp tác;
® Họ gắn bó chặt chẽ với Giáo Hội địa phương họ thuộc về, cũng như với Giáo Hội hoàn vũ, nhờ thế, họ tránh được cái nguy cơ chính yếu là tự cô lập, rồi cho rằng mình mới là Giáo Hội Chúa Kitô chính cống, và từ đó luận phi các cộng đoàn giáo hội khác;
® Họ giữ mối thông hiệp chân thành với các vị chủ chiên được Chúa gửi đến cho Giáo Hội của Người, cũng như với huấn quyền được Thần Linh của Chúa Kitô trao phó cho các vị mục tử này;
® Họ không bao giờ coi mình như những hưởng thụ viên duy nhất hay những tác nhân duy nhất của việc truyền bá phúc âm hóa – hay ngay cả cho mình là kho chất chứa Phúc Âm duy nhất – trái lại, vì nhận biết rằng Giáo Hội rất bao rộng và đa diện, nên họ chấp nhận sự kiện là Giáo Hội cần phải nhập thể bằng nhiều cách thức khác nữa ngoài chính cách qua họ;
® Họ luôn luôn phát triển theo nhận thức, mộ mến, dấn thân và nhiệt tình truyền giáo;
® Họ chứng tỏ cho thấy họ phổ quát trong hết mọi sự và không bao giờ là một thứ giáo phái.
Căn cứ vào những điều kiện này, những điều kiện chắc chắn là nghiêm khắc song cũng nâng cao, communautés de base mang tính cách giáo hội mới tương hợp với ơn gọi căn bản nhất của mình, ở chỗ, cộng đoàn cơ bản này là những người được nghe Phúc Âm loan báo cho mình, và là những thừa hưởng viên đặc biệt của việc truyền bá phúc âm hóa này, chính họ sẽ sớm trở thành người loan báo Phúc Âm.
(còn tiếp)
Thông Điệp Redemptoris Missio của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: V - NHỮNG ĐƯỜNG LỐI TRUYỀN GIÁO (42-46)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
47- Được Thần Linh tác động, các Vị Tông Đồ đã mời gọi tất cả mọi người hoán cải đời sống của họ, trở lại và lãnh nhận phép rửa. Ngay sau biến cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Thánh Phêrô đã nói với đám đông dân chúng những lời đánh động: “Khi nghe thấy vậy, họ cảm thấu đến tận đáy lòng, nên nói với Thánh Phêrô cùng với các Vị Tông Đồ rằng: ‘Thưa Quí Huynh, chúng tôi cần phải làm sao đây?’ Thánh Phêrô nói với họ: ‘Anh em hãy ăn năn thống hối và mọi người trong anh em hãy lãnh nhận phép rửa nhân danh Chúa Giêsu Kitô để được ơn tha thứ tội lỗi; rồi anh em sẽ được lãnh nhận tặng ân Thánh Thần’” (Acts 2:37-38). Chính ngày hôm đó có ba ngàn người được rửa tội. Lần khác, sau khi chữa lành cho một người què, Thánh Phêrô nói với đám đông dân chúng, bằng cách lập lại rằng: “Bởi thế anh em hãy ăn năn thống hối và trở lại để tội lỗi của anh em được tẩy xóa!” (Acts 3:19).
Việc trở lại cùng Chúa Kitô là một việc gắn liền với Phép Rửa, chẳng những vì tập truyền của Giáo Hội, mà còn vì ý của chính Chúa Kitô, Đấng đã sai các Tông Đồ đi tuyển mộ môn đệ ở tất cả mọi dân nước và rửa tội cho họ (x. Mt 28:19). Việc trở lại gắn liền với Phép Rửa còn vì chính nhu cầu cần phải lãnh nhận tràn đầy sự sống mới trong Chúa Kitô nữa. Như Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô: “Thật vậy, thật vậy, Tôi cho ông biết, ai không được sinh lại bởi nước và Thần Linh, người ấy không được vào Nước Thiên Chúa” (Jn 3:5). Đúng thế, trong Phép Rửa, chúng ta được tái sinh vào sự sống của con cái Thiên Chúa, được hiệp nhất với Chúa Giêsu Kitô và được xức dầu trong Chúa Thánh Thần. Phép Rửa không phải chỉ là một ấn tín của việc trở lại, một thứ dấu hiệu bề ngoài cho thấy việc trở lại và chứng tỏ việc trở lại. Trái lại, Phép Rửa là một Bí Tích biểu hiệu cho việc tái sinh bởi Thần Linh và làm cho việc tái sinh bởi Thần Linh hiệu thành, phép này thiết lập những mối liên hệ thật sự và không thể đứt đoạn với Chúa Ba Ngôi, phép này cũng làm cho chúng ta nên các chi thể của Thân Mình Chúa Kitô là Giáo Hội.
Phải nói đến tất cả những điều này là vì không ít người, ngay cả đến những người đang hoạt động cho việc truyền giáo ad gentes, có một khuynh hướng muốn tách việc trở lại với Chúa Kitô và việc lãnh nhận Phép Rửa ra khỏi nhau, như thể Phép Rửa là một cái gì không cần. Thật vậy, ở một số nơi, những cứu xét về xã hội học liên quan tới Phép Rửa đã làm lu mờ đi ý nghĩa đích thực của Phép Rửa là một tác động của đức tin. Sự việc này xẩy ra là do các yếu tố khác nhau về lịch sử cũng như về văn hóa, những yếu tố phải được loại bỏ nếu còn tồn tại, để Bí Tích tái sinh thiêng liêng có thể được quan niệm đúng như bản chất của mình. Các cộng đoàn giáo hội địa phương phải chú trọng đến việc này. Cũng phải nhận rằng, có nhiều người tỏ lòng muốn chấp nhận Chúa Kitô và sứ điệp của Người song không muốn chấp nhận bằng việc lãnh nhận bí tích, là vì thành kiến hay vì những thiếu sót nơi Kitô hữu đã làm cho họ không thể hiểu được bản tính thực sự của Giáo Hội là mầu nhiệm của đức tin và đức mến (xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 6-9). Tôi muốn khuyến khích những người như vậy hãy hoàn toàn mở lòng mình ra cho Chúa Kitô, và muôn nhắc nhở với họ là, nếu họ cảm thấy được lôi kéo đến cùng Chúa Kitô, thì chính Người là Đấng muốn Giáo Hội phải là “nơi” thực sự họ tìm được Người. Tôi cũng mời gọi tín hữu Kitô giáo, cá nhân cũng như cộng đồng, hãy thực sự làm chứng cho Chúa Kitô bằng sự sống mới họ đã lãnh nhận.
Chắc chắn người nào trở lại cũng đều là một quà tặng cho Giáo Hội và làm cho Giáo Hội thấy rằng mình phải có một trách nhiệm đàng hoàng đối với họ, không phải vì những người trở lại cần phải được sửa soạn dọn mình lãnh nhận Bí Tích qua thời gian dự tòng và học đạo, mà còn, nhất là trong trường hợp trở lại của người lớn, vì nơi những người trở lại này có một thứ nghị lực mới, một lòng nhiệt thành đối với đức tin và muốn sống Phúc Âm trong Giáo Hội. Một khi gia nhập cộng đồng giáo hội, họ sẽ hết sức thất vọng nếu họ chứng kiến thấy một sự sống thiếu sốt mến và chẳng có dấu hiệu gì là mới mẻ cả! Chúng ta không thể rao giảng việc ăn năn hoán cải, trừ phi chính chúng ta biết tái ăn năn hoán cải mỗi ngày.
Hình Thành Giáo Hội Địa Phương
48- Việc trở lại và Phép Rửa mở lối gia nhập vào một Giáo Hội đã có sẵn, hay đòi phải thiết lập những cộng đồng mới là những cộng đồng tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và là Chúa. Đây là phần thuộc về dự án của Thiên Chúa, vì Ngài muốn “kêu gọi con người thông phần vào sự sống của Ngài, không phải chỉ theo cá nhân, không có liên hệ gì với nhau, mà còn làm cho họ thành một dân tộc bao gồm những đứa con của Ngài bị phân tán khắp nơi qui tụ lại với nhau nên một” (Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 2; xem Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 9).
Việc truyền giáo ad gentes nhắm đến mục tiêu là thiết lập các cộng đồng Kitô giáo và phát triển các Giáo Hội cho đến mức hoàn toàn trưởng thành. Đó là mục đích chính yếu và ấn định của hoạt động truyền giáo, đến nỗi việc truyền giáo sẽ không hoàn thành cho đến khi tiến tới việc thiết lập một tân Giáo Hội riêng biệt, một Giáo Hội có thể sinh hoạt bình thường ở môi trường địa phương của mình. Sắc Lệnh Ad Gentes đã trình bày dài về vấn đề này (xem Chương III, 19-22), và vì Công Đồng Chung Vaticanô II chủ trương theo chiều hướng thần học chú trọng đến toàn thể mầu nhiệm Giáo Hội được thể hiện nơi mỗi Giáo Hội riêng, miễn là Giáo Hội riêng không tự mình cô lập song vẫn giữ mối hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ, để rồi cũng trở thành một nhà truyền giáo. Ở đây chúng ta đang nói đến một tiến trình rộng lớn và dài dòng, khó lòng xác định được chính xác giai đoạn nào thực sự đáng được gọi là giai đoạn kết thúc hoạt động truyền giáo để tiến sang hoạt động mục vụ. Tuy nhiên, cũng cần phải làm sáng tỏ một số điểm chính.
49- Trước hết và trên hết, cần phải nỗ lực để thiết lập các cộng đồng Kitô giáo ở khắp nơi, các cộng đồng làm nên “dấu hiệu hiện diện của Thiên Chúa trên thế giới” (ibid., 15), và là những cộng đồng phát triển cho tới khi trở thành Các Giáo Hội. Mặc dù đã có một con số khá đông các địa phận, song vẫn còn nhiều miền rất rộng không có Giáo Hội địa phương, hay không đủ số tín hữu trong một lãnh thổ rộng lớn với một mật độ dân cư đông đảo. Còn nhiều điều phải làm trong việc gieo trồng và phát triển Giáo Hội. Giai đoạn hình thành giáo hội được gọi là plantatio Ecclesia này chưa đạt đến đích điểm của mình; thật vậy, đối với nhiều người thuộc giòng dõi nhân loại thì giai đoạn này thậm chí cũng chưa được bắt đầu nữa.
Trách nhiệm phải làm công việc này là của Giáo Hội hoàn vũ cũng như của các Giáo Hội riêng, của toàn thể Dân Chúa cũng như của tất cả mọi lực lượng truyền giáo trong Dân Chúa. Hết mọi Giáo Hội, ngay cả Giáo Hội được hình thành bởi những người mới trở lại đi nữa, tự bản chất của mình, đều là truyền giáo, và vừa được truyền bá phúc âm hóa cho vừa thực hiện truyền bá phúc âm hóa. Đức tin bao giờ cũng phải được tỏ ra cho thấy như là một tặng ân của Thiên Chúa sinh động trong cộng đồng (gia đình, giáo xứ, hội đoàn), và vươn tới người khác bằng chứng từ lời nói cũng như việc làm. Hoạt động truyền bá phúc âm hóa của cộng đồng Kitô hữu, trước tiên ở tại địa phương của mình, rồi tới các nơi khác trong phạm vi truyền giáo phổ quát của Giáo Hội. Chúa luôn luôn kêu gọi chúng ta ra khỏi bản thân mình để chia sẻ với người khác các sản vật chúng ta có, bắt đầu là đức tin, món quà tặng qúi nhất. Thành quả của các tổ chức, phong trào, giáo xứ và việc tông đồ của Giáo Hội đều được căn cứ vào chiều hướng thực hiện việc truyền giáo buộc phải làm này. Chỉ nhờ trở thành truyền giáo cộng đồng Kitô hữu mới có thể thắng vượt được những chia rẽ và căng thẳng nội tại, cũng như mới có thể tái khám phá thấy mối hiệp nhất và sức mạnh đức tin của mình.
Nhân viên truyền giáo được sai đến từ các Giáo Hội và các quốc gia khác phải hoạt động trong mối hiệp thông với quí vị trách nhiệm địa phương của mình để làm phát triển cộng đồng Kitô hữu. Nhân viên truyền giáo đặc biệt phải – theo qui định của các vị Giám Mục và hợp tác với những vị có trách nhiệm ở cấp độ địa phương – duy trì việc quảng bá đức tin cùng với việc làm cho Giáo Hội lan tới những môi trường ngoài Kitô giáo cũng như tới nơi những nhóm người không phải Kitô hữu, và làm phấn khởi ở Giáo Hội riêng cái cảm quan truyền giáo, để mối quan tâm mục vụ luôn luôn được gắn liền với mối quan tâm truyền giáo ad gentes. Có thế, hết mọi Giáo Hội mới cảm nghiệm được nơi mình nỗi bận tâm của Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành, Đấng hoàn toàn hiến mình phục vụ cho đàn chiên, song vẫn nghĩ tới “các chiên khác chưa thuộc về đàn này” (Jn 10:16).
50- Nỗi bận tâm này sẽ trở nên như động lực khích thích để tái tấu cuộc dấn thân hoạt động cho việc đại kết. Mối liên hệ giữa hoạt động đại kết và hoạt động truyền giáo làm phát sinh ra hai yếu tố gắn liền với nhau cần phải được cứu xét. Một đàng, chúng ta phải nhận thức rằng: “Tình trạng Kitô hữu chia rẽ nhau làm hư hại đến công cuộc thánh hảo của việc rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật và là một trở ngại cho nhiều người tiến đến với đức tin” (ibid. 6). Ở chỗ, Tin Mừng hòa giải do Kitô hữu lại là thành phần chia rẽ nhau rao giảng sẽ làm cho chứng từ của họ mất đi giá trị. Bởi thế, rất cần phải hoạt động cho việc hiệp nhất Kitô giáo, để hoạt động truyền giáo được sinh hoa kết trái hơn. Chúng ta cũng không được quên rằng, các nỗ lực hướng về tình trạng hiệp nhất này, tự chúng, chỉ là dấu hiệu cho việc hòa giải Thiên Chúa đang mang lại giữa chúng ta.
Đàng khác, cũng thực sự có một cái gì đó hiệp thông, mặc dù bất toàn, giữa tất cả những người lãnh nhận Phép Rửa trong Chúa Kitô. Bởi thế, Công Đồng đã ấn định một nguyên tắc là: “trong khi chờ đợi để nêu lên tất cả những gì có vẻ khác nhau và lầm lẫn, cũng như những gì có vẻ chống đối nhau không lành mạnh, người Công Giáo phải lấy tinh thần hiệp thông mà hợp tác với các anh chị em ly khai của mình, theo các qui định của Sắc Lệnh về Đại Kết: bằng một bản tuyên xưng chung đức tin của mình nơi Thiên Chúa và nơi Chúa Giêsu Kitô trước mặt các dân nước bao nhiêu có thể, cũng như bằng việc cộng tác với nhau trong các vấn đề về xã hội và kỹ thuật, về văn hóa và tôn giáo” (ibid. 6; xem Sắc Lệnh về Đại Kết Unitatis Redintegratio, đoạn 3).
Việc Kitô hữu thuộc các Giáo Hội khác nhau và các Cộng Đồng Giáo Hội khác nhau thực hiện hoạt động đại kết và chứng từ hòa hợp cho Chúa Giêsu Kitô đã mang lại hoa trái dồi dào. Thế nhưng, hơn bao giờ hết, khi mà Kitô hữu và các giáo phái pha phôi Kitô giáo đang nỗ lực gieo rắc lầm lạc, thì họ lại càng phải cùng nhau hoạt động và làm chứng hơn nữa. Việc lan tràn những giáo phái này cho thấy mối đe dọa đối với Giáo Hội Công Giáo cũng như đối với tất cả mọi Cộng Đồng Giáo Hội đang cùng Giáo Hội Công Giáo đối thoại. Mối đe dọa này xẩy ra bất cứ ở đâu, thì theo chiều hướng của hoàn cảnh địa phương, việc các Kitô hữu cùng nhau phản ứng lại, tự nó, là một việc đại kết vậy.
“Các Giáo Hội Căn Bản” là Lực Lượng Truyền Bá Phúc Âm
51- Có một hiện tượng phát triển nhanh chóng nơi các Giáo Hội trẻ trung – một hiện tượng đôi khi được các vị Giám Mục và Hội Đồng Giám Mục của các vị cho là một ưu tiên mục vụ – đó là hiện tượng “các cộng đoàn giáo hội cơ bản” (cũng được gọi bằng các danh xưng khác nữa), những cộng đoàn đang chứng tỏ cho thấy là những trung tâm ích lợi cho việc đào tạo Kitô hữu cũng như việc dấn thân truyền giáo. Đây là những nhóm Kitô hữu, ở cấp độ gia đình hay trong một môi trường thu hẹp tương tự nào đó, họp nhau lại để nguyện cầu, đọc Thánh Kinh, học giáo lý và bàn luận về các vấn đề nhân bản cũng như giáo hội với ý hướng dấn thân hoạt động chung. Những cộng đoàn này là dấu sinh động trong Giáo Hội, là dụng cụ huấn luyện và truyền bá phúc âm hóa, cũng là một khởi điểm vững vàng cho một tân xã hội được xây dựng trên một “nền văn minh yêu thương”.
Những cộng đoàn này phân nhỏ cộng đồng giáo xứ và làm nên cộng đồng giáo xứ, một cộng đồng mà họ vẫn gắn bó. Họ đi sâu vào những miền kém may mắn và quê mùa làng mạc, để trở nên men của đời sống Kitô giáo, của việc chăm sóc người nghèo và bị bỏ rơi, cũng như của việc dấn thân làm cho xã hội được biến đổi. Nơi những cộng đoàn giáo hội cơ bản này, cá nhân Kitô hữu cảm nghiệm được cộng đồng, nhờ đó, họ cảm thấy họ đang đóng một vai trò chủ động và được phấn khởi để thông công làm việc chung. Như thế, các cộng đoàn này trở nên một phương tiện truyền bá phúc âm hóa và là việc rao giảng tiên khởi cho Phúc Âm, cũng là nguồn của các thừa tác vụ mới. Ngoài ra, được thấm nhập tình yêu Kitô giáo, các cộng đoàn này còn chứng tỏ cho thấy họ có thể thắng vượt được những chia rẽ, giòng tộc và chủng tộc.
Hết mọi cộng đoàn, nếu thực sự là Kitô giáo, đều phải được thiết lập trên Chúa Kitô và sống trong Người, ở chỗ lắng nghe lời Chúa, tập trung việc cầu nguyện của mình vào Thánh Thể, sống hiệp thông với nhau bằng việc nên một lòng trí, cũng như chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu cần thiết của các phần tử (x. Acts 2:42-47). Như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nhắc nhở, hết mọi cộng đoàn này phải sống hiệp nhất với Giáo Hội riêng cũng như với Giáo Hội hoàn vũ, hoàn toàn hiệp thông với các Vị Chủ Chăn và Huấn Quyền của Giáo Hội, bằng quyết tâm hoạt động truyền giáo và không nhường bước cho khuynh hướng cô lập hóa hay những khai thác thuộc ý thức hệ (xem Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 58: loc. cit., 46-49). Cuộc Thượng Hội Giám Mục Thế Giới năm 1985 lên tiếng như sau: “Vì Giáo Hội là hiệp thông, ‘các cộng đoàn cơ bản’ mới, nếu thực sự hiệp nhất với Giáo Hội, mới là thực sự thể hiện mối hiệp thông này và mới là phương tiện kiến tạo nên một mối hiệp thông sâu xa hơn. Có thế, những cộng đoàn cơ bản ấy mới là nguồn hy vọng dồi dào cho đời sống của Giáo Hội” (Final Report, II, C, 6).
(còn tiếp)
Ánh Sáng Thế Gian - Ánh Sáng Đã Chiếu Soi…
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
T |
heo nhiệm ý của Thiên Chúa, Hạt Giống Thần Linh là “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14) được gieo xuống thế gian không ở một vùng đất hoang vu (ngẫu tượng) nào khác, mà lại ở ngay giữa miền đất đã có đầy những hạt giống đạo giáo, tức đã được trồng cấy phì nhiêu mầu mỡ (đạo lý). Thật vậy, so với Triết lý Hy Lạp bên Tây Phương (xuất hiện cùng thời với Tam Giáo trước Chúa Kitô Giáng Sinh), một khoa học tìm tòi hoàn toàn thiên về lý trí và thuần siêu hình, thì Tam Giáo Phật-Nho-Lão đúng là đạo lý, là khát vọng tìm kiếm siêu độ (siêu thoát và cứu độ).
Chẳng thế mà sau khi “Chúa Cứu Thế là Đấng Thiên Sai và là Chúa đã giáng sinh trong thành Đavít” (Lk 2:11), “các chiêm tinh gia từ phương đông” (Mt 2:1), vừa thấy “ngôi sao của Người hiện lên” (Mt 2:2), đã “đến để triều bái Người” (Mt 2:2,11), tức đã tỏ ra tôn nhận vương quyền và tôn kính thần tính cùng nhân tính của “vị tân vương Do Thái mới được sinh ra” (Mt 2:2), bằng cách “đã dâng lên cho Người các tặng vật là vàng, nhũ hương và mộc dược” (Mt 2:11).
Nếu “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” quả là “ánh sáng thật đã đến trong thế gian chiếu soi hết mọi người” (Jn 1:9), bắt đầu phát ra ngay giữa miền đất đạo giáo này, thì chắc chắn đạo lý của Người phải làm cho lòng con người chưa nhận biết Người nói chung, nhất là những tín đồ theo các tôn giáo khác nói riêng, tìm được chân lý đích thực, chiếm được “sự sống viên mãn” (Jn 10:10) và đạt được hạnh phúc bất diệt.
Thật vậy, vì là “ánh sáng thật”, do đó, lịch sử nhân loại đã chứng thực cho thấy như sau:
Trước hết, về phương diện vị thế của mình, “ánh sáng thật” đó là một thứ ánh sáng hiện lên để thực sự làm sáng tỏ các lời tiên tri trong Cựu Ước của dân Do Thái nói riêng: “Thày đến không phải để hủy bỏ mà là để làm cho lề luật và các lời tiên tri được nên trọn” (Mt 5:17), cũng như để hoàn toàn làm sáng tỏ tất cả những đạo lý sẵn có của loài người nói chung: “Lý do Tôi đến thế gian là để làm chứng cho chân lý. Ai quyết tâm tìm kiếm chân lý thì nghe thấy tiếng Tôi” (Jn 18:37).
Sau nữa, về phương diện mãnh lực, “ánh sáng thật” là một thứ “ánh sáng đã chiếu trong tối tăm, song tối tăm không thắng được ánh sáng” (Jn 1:5). Tức là chính bản thân Chúa Kitô, Giáo Tổ Kitô Giáo, cũng như cả Giáo Hội Chúa Kitô, chẳng những không bị tận diệt bởi các chống đối nội bộ (Do Thái với Chúa Kitô, lạc giáo đối với Giáo Hội) cũng như bởi những cuộc bách đạo từ bên ngoài xẩy ra khắp nơi ngay từ ban đầu (khi Chúa Kitô mới Giáng Sinh) cho tới nay (thế kỷ văn minh chưa từng thấy), mà còn càng vì vậy và nhờ vậy lại càng lớn mạnh và vươn “đến tận cùng trái đất” (Acts 1:8) như thế giới đã hiển nhiên thấy.
Sau hết, về phương diện tác dụng, “ánh sáng thật” là một thứ ánh sáng làm cho “ai theo sẽ không đi trong tăm tối, song sẽ được ánh sáng sự sống” (Jn 8:12). Tức là Phúc Âm của Chúa Kitô “được rao giảng cho tất cả mọi dân nước, bắt đầu từ Gialiêm” (Lk 24:47), qua chứng tá sống động và việc truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội Người, thực sự đã “canh tân bộ mặt trái đất” là chính con người và văn hóa của con người, đã làm cho con người, từ Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, dần dần ra khỏi những tối tăm lạc hậu của mình về luân thường đạo lý (như tục đa thê, ép duyên v.v.), để tiến tới mức độ văn minh nhân bản hơn (như về nhân quyền, về phục vụ và thăng tiến xã hội loài người v.v.).
Dịp Lễ Ánh Sáng ở Ấn Độ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã thực hiện một cuộc tông du để ban bố văn kiện đúc kết Thượng Hội Giám Mục Á Châu năm 1998, đó là Bức Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu Ecclesia in Asia.
“’Hãy bước đi như con cái ánh sáng, vì hoa trái ánh sáng được thấy nơi tất cả những gì là tốt lành, đúng phải
và chân thật’ (Eph 5:8-9).
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, cả xứ sở rộng lớn của anh chị em nhiều người đang cử hành Cuộc Lễ Ánh Sáng. Chúng ta cùng mừng với họ, và trong Thánh Lễ này, ở Tân Đề Li tại Ấn Độ trên địa lục Á Châu đây, chúng ta cũng hân hoan trong ánh sáng và làm chứng cho Đấng là ‘ánh sáng thật chiếu soi mọi người’ (Jn 1:8).
Thiên Chúa là Cha giầu lòng thương xót đã ban cho Tôi niềm vui được đến với anh chị em để công bố Tông Huấn Ecclesia In Asia Giáo Hội Tại Á Châu, một thành quả đầy công khó của Thượng Hội Giám Mục Á Châu họp tại Rôma năm ngoái. Thượng Hội Giám Mục Á Châu này là gì? Chính là việc các Vị Giám Mục đại diện Giáo Hội ở lục địa này tụ họp nhau lại. Các Vị Giám Mục tụ họp nhau lại ấy đã làm những gì? Trước hết, các vị lắng nghe tiếng nói của Thần Linh trong nguyện cầu; các vị suy nghĩ về đường lối Giáo Hội nơi các dân tộc Á Châu đã hành trình cho tới nay; các vị nhận thấy ân huệ về ‘thời giờ’ Giáo Hội hiện nay đang sống trên địa lục này; các vị thúc đẩy toàn thể Dân Chúa càng trung thành với Chúa cũng như với công việc phúc âm Người đã ủy thác cho tất cả mọi người lãnh nhận phép rửa vì lợi ích của gia đình nhân loại.
Hôm nay, ở nơi đây, anh chị em thân mến, anh chị em đại diện cho cộng đồng Công Giáo, chẳng những ở Ấn Độ mà còn đại diện cho cả lục địa Á Châu nữa, Tôi trao vào tay anh chị em Bức Tông Thư Hậu Thượng Hội Giám Mục Á Châu này, để làm như một bản hướng dẫn cho đời sống thiêng liêng cũng như cho sinh hoạt mục vụ của Giáo Hội nơi địa lục này, lúc mà chúng ta đang tiến vào một thế kỷ mới và một ngàn năm Kitô Giáo mới.
Thật là xứng hợp cho văn kiện đây được ký và ban hành tại Ấn Độ, nơi phát xuất ra nhiều nền văn hóa, tôn giáo và truyền thống thiêng liêng được tôn kính qua giòng thời gian. Những nền văn minh cổ kính Á Châu này đã làm nên đời sống của các dân tộc nơi địa lục này và đã ghi dấu vết không thể xóa nhòa nơi lịch sử loài người...”
(Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Bài Giảng trong Thánh Lễ tại Thao Trường Jawaharlal Nehru, sáng Chúa Nhật ngày 7/11/1999:
tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 10/11/1999, đoạn 1 và đầu đoạn 2)
Sau đây là chính Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu Ecclesia in Asia, (nguyên trọn phần II, trong 7 phần, không kể mở và kết) phần về “Chúa Giêsu Cứu Thế: Một Tặng Ân cho Châu Á”:
MỘT TẶNG ÂN ĐỨC TIN
10- “Như Cuộc Thượng Hội Giám Mục Á Châu bàn luận về những thực tại phức tạp cho thấy, thì mọi người đều nhận thức được là tất cả những gì chuyên biệt Giáo Hội đóng góp cho các dân tộc của địa lục này chính là việc loan báo Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật, Đấng Cứu Thế duy nhất của tất cả mọi dân tộc (xem Proposio, 5). Điều làm Giáo Hội khác biệt với các cộng đồng tôn giáo khác là đức tin của Giáo Hội nơi Chúa Giêsu Kitô; và Giáo Hội không thể giữ ánh sáng đức tin quí báu này dưới chân đế (x. Mt 5:15), vì sứ mệnh của Giáo Hội là chia sẻ ánh sáng ấy cho mọi người. ‘(Giáo Hội) muốn cống hiến sự sống mới Giáo Hội có nơi Chúa Giêsu Kitô ấy cho tất cả mọi dân tộc Á Châu, khi họ tìm kiếm viên mãn tính của sự sống, để họ được thông hiệp với Chúa Cha và Chúa Giêsu Kitô Con Ngài trong quyền lực của Thần Linh’ (Relatio ante disceptationem, 5). Đức tin nơi Chúa Kitô ấy làm phấn khởi việc truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội Tại Á Châu, thường được thực hiện trong những hoàn cảnh khó khăn thậm chí nguy hiểm. Các Nghị Phụ Thượng Hội đã nhận định rằng, việc loan truyền Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế duy nhất có thể gặp phải những khó khăn đặc biệt nơi văn hóa của các vị, vì nhiều tôn giáo Á Châu dạy cho biết chính những việc hiển hiện thần linh đã là môi giới cứu độ rồi. Chẳng những các Vị Nghị Phụ Thượng Hội Giám Mục Á Châu không lấy làm nản chí, trái lại, những thách đố đối với nỗ lực truyền bá phúc âm hóa của các vị lại càng khích thích nỗ lực thực hiện việc truyền đạt ‘niềm tin là Giáo Hội Tại Á Châu đã được lưu truyền từ các Vị Tông Đồ và gắn bó với Hội Thánh qua mọi đời và ở hết mọi nơi’ (Relatio post deceptationem, 3). Thật vậy, các vị đã nói lên niềm xác tín là ‘tâm can của Giáo Hội Tại Á Châu sẽ không yên nghỉ cho tới khi cả Á Châu được nghỉ yên trong bình an của Chúa Kitô, Chúa Phục Sinh’ (Proposio, 8).
Đức tin vào Chúa Kitô của Giáo Hội là một tặng ân được lãnh nhận và cũng là một tặng ân để chia sẻ; đức tin này là một tặng ân cao cả nhất Giáo Hội có thể cống hiến cho Á Châu. Chia sẻ chân lý của Chúa Giêsu Kitô với người khác là một phận sự trọng đại của tất cả những ai đã lãnh nhận tặng ân đức tin. Trong Thông Điệp Sứ Mệnh Đấng Cứu Chuộc Redemptoris Missio (đoạn 11), Tôi đã viết là ‘Giáo Hội, cũng như mọi người Kitô hữu trong Giáo Hội, không dược cất dấu hay độc quyền chiếm giữ những gì mới mẻ và phong phú họ đã lãnh nhận từ lòng lành Thiên Chúa này mà không truyền đạt cho toàn thể loài người’. Cũng trong Bức Thông Điệp (cùng đoạn) này, Tôi còn viết: ‘Những ai được liên kết trong Giáo Hội Công Giáo phải cảm nhận được đặc ân của mình, và chính vì lý do đó, họ càng phải có trách nhiệm làm chứng cho đức tin cũng như cho đời sống Kitô Giáo, như là việc họ phục vụ anh chị em mình và như việc họ đáp trả Thiên Chúa cách xứng đáng’ (cùng đoạn).
Sâu xa thâm tín như thế, Các Nghị Phụ Thượng Hội cũng nhận thức được trách nhiệm riêng của mình, nhờ việc học hỏi, nguyện cầu và suy nghĩ, để có thể nắm vững chân lý vượt thời gian của Chúa Giêsu, nhờ đó các ngài mang quyền lực và sinh lực của chân lý ra giải quyết những thách đố hiện tại cũng như tương lai của việc truyền bá phúc âm hóa ở Á Châu.
ĐỨC GIÊSU KITÔ, VỊ THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI PHỤC VỤ
11- Các Sách Thánh chứng thực là Chúa Giêsu đã sống một đời sống nhân loại thực sự. Chúa Giêsu, Đấng chúng ta loan truyền là Đấng Cứu Thế duy nhất, đã bước đi trên trái đất này như là một Vị Thiên Chúa Làm Người bằng tất cả những gì Người có nơi bản tính loài người. Người giống như chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Được sinh ra bởi Người Mẹ Trinh Nguyên nơi những hoàn cảnh thấp hèn ở Bêlem, Người đã trở thành một hài nhi bất lực giống như các hài nhi khác, thậm chí còn phải chịu cảnh tị nạn để chạy thoát cho khỏi cơn thịnh nộ của một vị thủ lãnh hung tợn (x. Mt 2:13-15). Người đã tuân phục cha mẹ trần gian của mình, những vị không phải lúc nào cũng hiểu được đường lối của Người, nhưng Người vẫn tin tưởng các vị và thảo hiếu vâng phục các vị (x. Lk 2:41-52). Liên lỉ nguyện cầu, Người sống thân mật với Thiên Chúa, Đấng Người thân thưa bằng tiếng Abba, ‘Cha ơi’, trước ngỡ ngàng của thành phần thính giả (x. Jn 8:34-59).
Người gần gũi với người nghèo, với người bị bỏ quên và thấp hèn, tuyên bố rằng họ là những người thực sự có phúc, vì Thiên Chúa ở cùng họ. Người đã ăn uống với những người tội lỗi, cam đoan với họ rằng nơi bàn tiệc của Cha Người cũng đã có chỗ cho họ, một khi họ bỏ những đường lối tội lỗi mà trở về với Ngài. Chạm đến người ô uế và để họ chạm đến mình, Người cho họ nhận thấy được việc Thiên Chúa gần gũi họ. Người khóc thương một người bạn của mình qua đời, Người đã hồi sinh đứa con trai của một bà mẹ góa, Người đã tiếp đón trẻ em, và Người đã rửa chân cho các môn đệ của Người. Lòng cảm thương thần linh chưa bao giờ lại trở nên trực nghiệm dễ dàng quá như vậy.
Tất cả những người bị bệnh hoạn, khập khễnh, không thấy, không nghe, không nói đều cảm được tác động đụng chạm chữa trị và thứ tha của Người. Người đã chọn một nhóm dị thường làm bạn đường và làm cộng tác viên thân cận nhất của mình, trong đó có thành phần đánh cá lẫn thu thuế, thành phần Nhiệt Thành cực đoan cùng với người ít hiểu biết về Lề Luật, cả thành phần phụ nữ nữa. Một gia đình mới đã được thành hình trong lòng Chúa Cha yêu thương ôm ấp tất cả mọi người một cách lạ lùng. Chúa Giêsu giảng dạy đơn sơ, dùng những thí dụ trong đời sống hằng ngày để nói về tình yêu của Thiên Chúa cũng như về vương quốc của Ngài; và dân chúng nhìn nhận là Người đã nói một cách có uy quyền.
Thế mà, Người đã bị tố cáo là một kẻ lộng ngôn, một kẻ vi phạm Luật thánh, một tên đầu xỏ quần chúng cần phải được khử trừ. Sau cuộc xử án căn cứ vào chứng cớ gian trá (x. Mk 14:56), Người đã bị kết án tử hình như một tử tội trên Thập Giá, rồi bị bỏ rơi và nhục nhã, Người như đã bại cuộc. Người được chôn táng một cách vội vàng trong một ngôi mộ mượn đỡ. Thế nhưng, sau cái chết này, vào ngày thứ ba, cho dù có các lính canh gác, người ta đã không còn thấy Người trong ngôi mồ nữa. Thế rồi phục sinh từ trong kẻ chết, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ của Người, trước khi về cùng Chúa Cha là Đấng đã sai Người đến.
Đối với tất cả mọi Kitô hữu, chúng ta đều tin rằng cuộc sống đặc biệt ấy, một đàng thì rất bình thường và giản dị, đàng khác lại hết sức lạ lùng và kín nhiệm, đã đem Vương Quốc của Thiên Chúa vào lịch sử loài người, và ‘đã dùng quyền lực của vương quốc này tác dụng trên mọi phương diện của cuộc sống con người cũng như của xã hội bị tội lỗi và sự chết vây hãm’ (Relatio post disceptationem, đoạn 3). Bằng lời nói và việc làm, nhất là bằng cuộc khổ nạn, tử giá và phục sinh của mình, Chúa Giêsu đã làm trọn ý Cha Người muốn trong việc hòa giải toàn thể nhân loại với chính Ngài, sau khi nguyên tội đã làm lũng đoạn mối liên hệ giữa Tạo Hóa và tạo vật. Trên Thập Giá, Người đã tự mang lấy tội lỗi của thế gian – quá khứ, hiện tại cũng như tương lai. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng, vì tội lỗi của mình, chúng ta đã chết đi, và cái chết của Người đã mang lại cho chúng ta sự sống một lần nữa: ‘Thiên Chúa đã làm (cho chúng ta) được sống với Người, khi thứ tha cho chúng ta tất cả những gì chúng ta đã vấp phạm, tháo cởi cái ràng buộc chúng ta với những đòi hỏi theo pháp lý; Ngài đã loại trừ nó đi, đóng đanh nó vào thập giá’ (Col 2:13-14). Nhờ đó, ơn cứu độ đã được niêm ấn một lần vĩnh viễn. Chúa Giêsu mới là Đấng Cứu Thế đúng nghĩa nhất của chúng ta, vì lời nói và việc làm của Người, nhất là vì việc Người phục sinh từ trong kẻ chết, đã tỏ cho thấy rằng Người là Con Thiên Chúa, là Lời từ muôn thuở, Đấng muôn đời hiển trị với tư cách là Chúa và là Đấng Thiên Sai.
BẢN THÂN VÀ SỨ MỆNH CỦA CON THIÊN CHÚA
12- ‘Cái gương mù’ của Kitô giáo là tin rằng Vị Thiên Chúa toàn thiện, toàn năng và toàn tri cũng là Đấng tự mặc lấy bản tính loài người của chúng ta để chịu khổ đau và chết đi hầu mang lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người (x. 1Cor 1:23). Đức tin chúng ta đã lãnh nhận tuyên xưng rằng Chúa Giêsu Kitô đã mạc khải cho thấy và đã hoàn thành ý định Chúa Cha muốn cứu độ thế gian và toàn thể nhân loại, bởi vì ‘Ngài là Đấng hiện hữu’ cũng như bởi vì ‘những gì Ngài làm là do Ngài hiện hữu’. ‘Ngài là Đấng hiện hữu’ và ‘những gì Ngài làm’ chỉ chiếm được trọn ý nghĩa của mình trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà thôi. Giáo Triều Tôi đã liên lỉ lưu ý tới việc nhắc nhở tín hữu về mối hiệp thông sự sống nơi Chúa Ba Ngôi, cũng như về việc hiệp nhất của Ba Ngôi trong dự án tạo dựng và cứu chuộc. Những Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần Redemptor Hominis, Thông Điệp Giầu Lòng Thương Xót Dives Misericordia, Thông Điệp Là Chúa và Là Đấng Ban Sự Sống Dominum et Vivificantem, là những suy tư nghiêm cẩn về Ngôi Con, Ngôi Cha và Ngôi Thánh Thần, cũng như về vai trò của các Ngôi trong dự án cựu độ thần linh. Tuy nhiên, chúng ta không thể biệt lập hay tách rời Ngôi này khỏi các Ngôi kia, vì mỗi một Ngôi chỉ được tỏ ra cho thấy trong mối hiệp thông sự sống và hoạt động của Ba Ngôi mà thôi. Tác động cứu độ của Chúa Giêsu được bắt nguồn từ mối hiệp thông Thần Tính và là một tác động cứu độ mở đường cho tất cả những ai tin vào Người có thể đạt được niềm hiệp thông thân mật với Ba Ngôi cũng như với nhau trong Ba Ngôi.
‘Ai thấy Thày là thấy Cha’, Chúa Giêsu đã tuyên bố như vậy (Jn 14:9). Toàn thể Thiên Chúa được hiện thân qua thể xác chỉ có ở nơi một mình Chúa Giêsu Kitô mà thôi (x. Col 2:9), khiến cho Người trở nên Lời cứu độ độc nhất vô nhị và tuyệt đối của Thiên Chúa (x. Heb 1:1-4). Là Lời thật sự của Cha, Chúa Giêsu làm cho Thiên Chúa và ý muốn cứu độ của Ngài được nhận biết bằng một đường lối khả dĩ hoàn toàn nhất. ‘Không ai đến được với Cha mà không qua Thày’, Chúa Giêsu đã nói lên như thế (Jn 14:6). Người là ‘Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống’ (Jn 14:6), vì, như chính Người phán: ‘Cha ở trong Thày là Đấng đã làm công việc của Ngài’ (Jn 14:10). Chỉ ở nơi một mình bản thân Chúa Giêsu mà lời cứu độ của Thiên Chúa loan báo trong thời sau hết này (x. Heb 1:1-2) mới được thể hiện trọn vẹn nhất. Bởi thế, Thánh Phêrô mới công bố vào những ngày đầu tiên của Giáo Hội là: ‘Không có ơn cứu độ ở nơi một ai khác, vì không có một danh hiệu nào khác dưới gầm trời này được ban cho con người để nhờ đó chúng ta được cứu độ’ (Acts 4:12).
Sứ mệnh của Đấng Cứu Thế đạt đến tột đỉnh của mình nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua. Trên Thập Giá, khi ‘Người giang tay ra giữa trời và đất như một dấu hiệu giao ước đời đời của (Chúa Cha) (Sách Lễ Rôma, Kinh Nguyện Thánh Thể I cho các Thánh Lễ Hòa Giải), Chúa Giêsu đã thốt lên lời cầu khẩn cuối cùng của Người với Chúa Cha để xin Cha tha tội cho nhân loại: ‘Cha ơi, xin hãy tha thứ cho họ; vì họ không biết việc họ làm’ (Lk 23:34). Chúa Giêsu đã diệt trừ tội lỗi bằng quyền năng của tình yêu Người đối với Chúa Cha cũng như đối với toàn thể loài người. Người đã nhận lấy cho mình các thương tích nhân loại phải chịu do tội lỗi gây ra, và Người đã làm cho họ được giải tỏa bằng việc họ ăn năn hoán cải. Những hoa trái đầu mùa của việc Người làm đã hái được một cách tỏ tường nơi người trộm thống hối cũng bị treo trên thập tự giá bên cạnh cây thập tự giá của Người (x. Lk 23:43). Lời thốt lên cuối cùng của Người là tiếng kêu của một Người Con trung thành: ‘Cha ơi, con xin phó thần trí Con trong tay Cha’ (Lk 23:46). Trong việc bộc lộ yêu thương cao cả này, Người đã ký thác tất cả cuộc sống và sứ mệnh của mình cho Cha là Đấng đã sai Người. Như thế là Người đã dâng về cho Cha toàn thể tạo vật và nhân loại để được Ngài cuối cùng chấp nhận bằng một tình yêu thương cảm.
Mọi sự Con có và hoàn thành đều được Cha chấp nhận, Đấng sau đó ban phát tặng ân này cho thế giới bằng tác động phục sinh Chúa Giêsu từ trong kẻ chết, và đặt Người ngự bên hữu mình là nơi tội lỗi và sự chết không còn làm gì được nữa. Nhờ Hy Tế Vượt Qua của Chúa Giêsu, Cha nhất định cống hiến cho thế giới ơn giao hòa và sự sống viên trọn. Tặng ân phi thường này chỉ có được nơi Người Con yêu dấu là Đấng duy nhất có thể đáp ứng trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, một tình yêu bị tội lỗi ruồng bỏ. Nơi Chúa Giêsu Kitô, bằng quyền năng của Chúa Thánh Thần, chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa không xa vời, trổi vượt và cách biệt con người, trái lại, rất gần gũi, nói đúng hơn, thật sự nên một với mọi người cũng như với toàn thể nhân loại trong tất cả mọi hoàn cảnh của con người. Đây là sứ điệp Kitô Giáo cống hiến cho thế giới, và sứ điệp này là nguồn an ủi, nguồn hy vọng khôn sánh cho tất cả mọi người tin tưởng.
CHÚA GIÊSU KITÔ: MỘT SỰ THẬT VỀ LOÀI NGƯỜI
13- Nhân tính của Chúa Giêsu và mầu nhiệm Nhập Thể không thể xóa mờ của Người Con Chúa Cha đã chiếu sáng trên thân phận con người bằng cách nào? Con Thiên Chúa Nhập Thể chẳng những hoàn toàn mạc khải cho thấy Chúa Cha cùng với dự án cứu độ của Cha; Người còn ‘hoàn toàn mạc khải cho con người thấy bản thân của con người’ (Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần Redemptor Hominis, đoạn 10) nữa. Những lời nói và việc làm, nhất là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người, tỏ ra cho thấy ý nghĩa sâu xa về việc làm người ra sao. Nhờ Chúa Giêsu, cuối cùng con người đã có thể biết được sự thật về chính bản thân mình. Đời sống làm người trọn hảo của Chúa Giêsu, một đời sống hoàn toàn hiến thân cho việc yêu thương và phục vụ Chúa Cha và con người, đã mạc khải cho thấy rằng ơn gọi của mọi người là nhận lãnh yêu thương để rồi lại đem yêu thương hiến tặng. Chúng ta lạ lùng về khả năng bất tận của con tim nhân loại nơi Chúa Giêsu trong việc yêu thương Thiên Chúa và con người, cho dù có phải chịu nhiều đau khổ đi nữa. Chúa Giêsu đã đặc biệt dùng Thập Giá để phá vỡ quyền lực tự hủy hoại mình trong việc chống cưỡng yêu thương do tội gây ra nơi chúng ta. Về phần mình, Chúa Cha đã đáp lại bằng việc phục sinh Chúa Giêsu để Người làm trưởng tử của tất cả những ai được tiền định nên giống hình ảnh Con của Ngài (x. Rm 8:29). Vào lúc ấy, Chúa Giêsu đã trở nên, một lần vĩnh viễn, vừa là mạc khải vừa là hoàn thành một nhân loại được tái tạo và được đổi mới theo đúng như dự án của Thiên Chúa. Bởi vậy, nơi Chúa Giêsu, chúng ta khám phá ra tầm vóc cao cả và phẩm vị của mỗi một con người trong lòng Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên con người theo hình ảnh Ngài (x. Gn 1:26), và chúng ta cũng tìm thấy mạch nguồn của cuộc tân tạo chúng ta đã được hưởng nhờ ơn Người.
Công Đồng Chung Vaticanô II dạy rằng, ‘bằng việc Nhập Thể của mình, Người, Con Thiên Chúa, đã liên kết mình với từng người một cách nào đó’ (Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng Gaudium et Spes, đoạn 22). Theo cái nhìn sâu xa này, các Nghị Phụ của Thượng Hội Giám Mục Á Châu đã thấy được nguồn hy vọng và sức mạnh tối hậu cho dân Á Châu nơi những đối chọi và bất ổn của họ. Khi những con người nam nữ lấy đức tin sống động đáp lại việc Thiên Chúa cống hiến tình yêu của Ngài cho họ, thì việc hiện diện của Ngài sẽ mang lại cho họ yêu thương và bình an, biến đổi từ đáy lòng của họ. Trong Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần Redemptor Hominis Tôi đã viết rằng, ‘việc cứu chuộc thế giới – mầu nhiệm yêu thương mãnh liệt làm đổi mới tạo vật này – tự căn gốc sâu nhất của mình, đó là mức độ trọn vẹn của đức công chính nơi Trái Tim nhân loại – Trái Tim của Người Con Trưởng Tử – để trở thành đức công chính nơi trái tim của nhiều con người được tiền định từ đời đời nơi Người Con Trưởng Tử, trong việc họ được trở nên con cái Thiên Chúa, được mời gọi hưởng ân sủng, được mời gọi yêu thương’ (đoạn 9).
Như thế, sứ mệnh của Chúa Giêsu chẳng những phục hồi mối hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại; sứ mệnh của Người còn thiết lập một mối hiệp thông mới nơi con người xa cách nhau vì tội lỗi. Chúa Giêsu đã làm cho người ta có thể thắng vượt tất cả mọi chia rẽ để sống như anh chị em với nhau, nhìn nhận một Người Cha duy nhất ở trên trời (x. Mt 23:9). Nơi Người phát hiện một mối hợp hòa mới, trong đó ‘không còn là Do Thái hay Hy Lạp... nô lệ hay tự do... nam nhân hay nữ giới, vì tất cả anh em chỉ là một trong Chúa Giêsu Kitô’ (Gal 3:28). Chúa Giêsu là bình an của chúng ta, Đấng đã làm cho cả hai chúng ta nên một, và đã phá đổ bức tường hận thù chia rẽ nhau’ (Eph 2:14). Trong tất cả mọi lời nói và việc làm, Chúa Giêsu là tiếng nói của Chúa Cha, là bàn tay và là cánh tay của Chúa Cha, trong việc qui tụ tất cả mọi con cái của Thiên Chúa lại để làm nên một gia đình yêu thương. Người đã cầu xin để các môn đệ của Người cũng được sống hiệp thông như Người hiệp thông với Chúa Cha (x. Jn 17:11). Trong những lời cuối cùng của Người, chúng ta nghe thấy Người nói: ‘Như Cha đã sai yêu Thày thế nào, Thày cũng yêu các con như vậy; các con hãy ở lại trong tình yêu của Thày... Đây là giới răn của Thày, đó là các con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con’ (Jn 15:9,12). Được Vị Thiên Chúa hiệp thông sai đi, và chính mình thực sự cũng vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Chúa Giêsu đã thiết lập mối hiệp thông giữa trời và đất nơi chính bản thân của Người. Chúng ta tin tưởng làø ‘trong Người, tất cả tầm vóc viên mãn của Thiên Chúa thỏa thuê ngự trị, và nhờ Người, Thiên Chúa hòa giải tất cả mọi sự với chính mình Ngài, những sự dưới đất cũng như trên trời, hòa giải bằng máu Thập Giá của Người’ (Col 1:19-20). Ơn cứu độ có thể được tìm thấy nơi bản thân của Con Thiên Chúa làm người, cũng như nơi sứ mệnh được ủy thác cho một mình Người với tư cách là Con, một sứ mệnh phục vụ và yêu thương đối với sự sống của tất cả mọi người. Cùng với Giáo Hội khắp thế giới, Giáo Hội Tại Á Châu hãy loan báo chân lý đức tin là ‘Có một Thiên Chúa duy nhất và một trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, đó là con người Đức Giêsu Kitô, Đấng đã hiến mình làm giá chuộc cho tất cả mọi người’ (1Tim 2:5-6).
DUY NHẤT TÍNH VÀ PHỔ QUÁT TÍNH CỦA ƠN CỨU ĐỘ TRONG CHÚA GIÊSU
14- Các Nghị Phụ của Thượng Hội Giám Mục Á Châu nhắc lại rằng, Lời từ muôn thuở, Người Con Thiên Chúa sinh ra từ đời đời, ‘đã hiện diện nơi tạo thành, nơi lịch sử và nơi mọi nỗi khát vọng thiện hảo của con người’ (Relatio post disceptationem, đoạn 3). Thế gian hiện hữu là nhờ Lời ấy, Lời hiện diện nơi vũ trụ ngay cả trước khi Nhập Thể (x. Jn 1:1-4, 10; Col 1:15-20). Thế nhưng, là Lời nhập thể, Đấng đã sống động, chết đi và phục sinh từ trong kẻ chết, Chúa Giêsu Kitô nay đang được loan truyền như một tầm vóc viên trọn của tất cả mọi tạo vật, của toàn thể lịch sử cũng như của tất cả mọi khát vọng nơi con người hướng về sự sống viên mãn’ (Relatio post disceptationem, đoạn 3). Nơi Người, ‘các giá trị đích thực của tất cả mọi truyền thống về đạo giáo và văn hóa, như tình thương và việc thuận phục ý muốn của Thiên Chúa, như lòng thương cảm và đức liêm khiết, như việc bất bạo động và đức công chính, như lòng thảo hiếu của con cái và sống thái hòa với thiên nhiên, đều đạt đến tầm vóc viên trọn và hiện thực của mình’ (cùng nguồn vừa dẫn). Chúa Giêsu là Đấng Trung Gian phổ quát duy nhất, từ giây phút đầu tiên của thời gian cho đến tận cùng thời gian. Thậm chí đối với cả những người không minh nhiên tuyên xưng đức tin công nhận Người là Đấng Cứu Thế, thì ơn cứu chuộc cũng vẫn là một ân sủng do Chúa Giêsu Kitô mà có, qua việc truyền thông của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và con người thật, là Đấng Cứu Thế duy nhất, vì chỉ có một mình Người, Người Con, đã hoàn thành dự án cứu độ phổ quát của Chúa Cha. Là một biểu lộ tối hậu của mầu nhiệm Chúa Cha yêu thương đối với tất cả mọi người, Chúa Giêsu thực sự là Đấng độc nhất vô nhị, và ‘chính vì tính cách độc nhất vô nhị này của Chúa Kitô đã làm cho Người đóng một vai trò quan trọng trên hết và phổ quát, bởi đó, trong khi thuộc về lịch sử, Người vẫn là chính tâm điểm và là đích điểm của lịch sử’ (Thông Điệp Sứ Mệnh Đấng Cứu Chuộc Redemptoris Missio, đoạn 6).
Không một cá nhân nào, không một quốc gia nào, không một văn hóa nào lại không được phép kêu nại đến Chúa Giêsu, Đấng nói với họ từ cốt lõi của thân phận con người. ‘Chính đời sống của Người đã nói, nhân tính của Người, việc Người trung thành với chân lý, tình Người yêu thương ôm ấp tất cả mọi người đã nói. Ngoài ra, cái chết của Người trên Thập Giá – tức là mức độ sâu thẳm khôn dò của việc Người chịu khổ và bị bỏ rơi – cũng đã nói’ (Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Thế Redemptor Hominis, đoạn 7). Chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong bản tính nhân loại của Người, các dân tộc Á Châu tìm thấy giải đáp cho những vấn nạn sâu xa nhất của mình, tìm thấy trọn vẹn những gì mình hy vọng, tìm thấy phẩm giá của mình được thăng hoa và thắng vượt được thất vọng. Chúa Giêsu là Tin Mừng cho con người nam nữ của mọi thời điểm và mọi nơi chốn, trong việc họ tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời và tìm kiếm sự thật về nhân tính của họ”.
(Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu Ecclesia in Asia:
tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 10/11/1999, trang IV-V)
(còn tiếp)