GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ BAY 18/8/2007

TUẦN 19 THƯỜNG NIÊN

 

?   Bí Mật Fatima - Dự Án Thần Linh: Một Người Nữ Mặc Mặt Trời

?  Bí Mật Fatima - Dự Án Thần Linh: Ý nghĩa phần thứ ba Bí Mật Fatima

?  Bí Mật Fatima - Dự Án Thần Linh: Những gì chưa được sáng tỏ…

 

 

?  Bí Mật Fatima - Dự Án Thần Linh: Một Người Nữ Mặc Mặt Trời

 

 

N

ếu so với Biến Cố Thánh Mẫu Balê 1830 liên quan đến huy ảnh Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội Ban Ơn và Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức 1858 liên quan đến tước hiệu Mẹ Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội, Biến Cố Thánh Mẫu Fatima 1917 là Dấu Chỉ Thời Đại cho thấy Mẹ Maria như là “một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên không trung” “rực rỡ như mặt trời”. Nếu phân tích 4 yếu tố chính yếu làm nên Thực Tại Fatima là Biến Cố Fatima, Bí Mật Fatima, Sứ Điệp Fatima và Thiếu Nhi Fatima thì Bí Mật Fatima cho thấy Mẹ Maria thực sự như là “một điềm lạ xuất hiện trên không trung” “mặc mặt trời”.

Lý do Mẹ Maria ở Biến Cố Fatima như là “một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên không trung” “rực rỡ như mặt trời” hay “mặc áo mặt trời” đây vì Mẹ Maria phản ánh Chúa Kitô là mặt trời công chính. Mẹ không phải là chính mặt trời mà chỉ “rực rỡ như mặt trời” và “mặc mặt trời” thôi. Mẹ Maria phản ánh Chúa Kitô là mặt trời công chính, Đấng sau khi sống lại từ cõi chết, tức sau khi đã cứu con người khỏi tội lỗi và sự chết bằng cuộc Vượt Qua của mình, đã phán: “Thày được toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28:18).

 

Nói một cách tổng quát và tóm gọn thì biểu hiệu về hình ảnh Mẹ Maria “rực rỡ như mặt trời” và “mặc mặt trời’ cần được hiểu theo 3 ý nghĩa sau đây. Thứ nhất, Mẹ đã lãnh nhận trọn vẹn tất cả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô, ngay từ khi Mẹ vừa được hoài thai trong lòng thai mẫu, cho đến độ Mẹ được trở thành Vị Đồng Công Cứu Chuộc của Chúa Kitô và với Chúa Kitô. Thứ hai, Mẹ sống tinh thần tuân phục tuyệt đối và trọn lành với Chúa Kitô và như Chúa Kitô. Thứ ba, Mẹ có quyền thế vạn năng trước mặt Chúa, qua việc Mẹ chuyển cầu và cầu bầu cho phần rỗi của các linh hồn, đồng thời Mẹ cũng có một quyền năng vô địch trên tất cả mọi tạo vật, kể cả hỏa ngục, qua việc Mẹ can thiệp vào vai trò của Giáo Hội cũng như lịch sử thế giới, như được thấy hiển nhiên nhất nơi Fatima. 

 

Thật vậy, riêng ở Fatima, qua những biến cố diễn tiến, Mẹ Maria “rực rỡ như mặt trời” và “mặc mặt trời’ đây được hiểu theo cả 3 ý nghĩa này. Ý nghĩa thứ nhất và thứ hai liên quan đến “Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ”, tức đến đức tin được biểu hiệu nơi Trái Tim Mẹ và đến Ơn Cứu Độ được thể hiện nơi đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, cũng như đến tước hiệu “Mẹ là Đức Bà Mân Côi”, một tước hiệu cũng liên quan tới Ơn Cứu Độ được chất chứa và bày tỏ nơi Mầu Nhiệm Mân Côi, và tới đức tin đầy ơn phúc của Mẹ, được tóm gọn trong Kinh Kính Mừng. Và ý nghĩa thứ ba liên quan tới quyền năng của Mẹ, một quyền năng chẳng những trước mặt Chúa, như được thể hiện ở đầu phần Bí Mật Fatima thứ ba, mà còn trên thiên nhiên tạo vật (qua phép lạ mặt trời) và nhân loại (qua việc làm cho Nước Nga trở lại) nữa.

 

Đúng thế, Bí Mật Fatima đã quả thực cho thấy rằng M Maria đã được Thiên Chúa ban cho mt quyn năng vĩ đại trên tri dưới đất, liên quan c ti đất là nn hòa bình thế giới ln ti tri là phn ri các linh hn. Liên quan ti đất: “Cui cùng Trái Tim Vô Nhim Nguyên Ti M s thng… Nước Nga s tr li và thế gii s được hưởng mt thi gian hòa bình” (bí mt phn hai); liên quan ti tri là phn ri các linh hn: th kiến ha ngc (bí mt phn mt) và máu Kitô hu t đạo cu ri (bí mt phn ba). Và c nn hòa bình thế gii lẫn phn ri các linh hn, đều l thuc vào M theo như ý định ca Thiên Chúa: “Nếu điu M nói được thc hin (tc là nếu Trái Tim Vô Nhim Nguyên Ti M được tôn sùng trên thế gii như Thiên Chúa muốn thiết lp, hay M được loài người nhn biết và yêu mến), thì nhiu linh hn được cu ri và thế gii s có hòa bình”.  

 

Phi chăng vì quyn năng vô địch ca M Maria Biến C Fatima được t hin như “mt đim l vĩ đại xut hin trên không trung” “mc mt tri” như thế, mt quyn năng bao gm c tri đất như thế mà M đã t xưng mình “MĐức Bà Mân Côi”, mt tước hiu mà theo lch s Giáo Hi, M qu thc là “Đức M thng trn”, chng nhng v phương din siêu nhiên, qua cuc chiến thng bè ri Albigensê Pháp quc vào thế k th 13, mà còn v phương din t nhiên qua cuc chiến thng quân Hi Giáo vào cui thế k 16. Cả hai sự kiện lịch sử liên quan đến quyền năng vô địch của Mẹ Maria cả về phương diện  tự nhiên lẫn siêu nhiên này đã được Đức Lêô XIII nhắc tới trong Thông Điệp Supremi Apostolatus ban hành ngày 1/9/1883 về Công Hiệu của Kinh Mân Côi trong Lịch Sử.

 

Quyền năng ca M Maria còn là mt quyn lực vạn năng, thậm chí ch, M đã ngăn cn được cả vic Thiên Chúa mun trng pht và hy dit loài người (như được thấy ở đầu Bí Mt Fatima phn ba, khi lung ánh sáng ta ra t bàn tay phải của M đã dp tt la t thanh gươm nơi tay trái của thiên thn đang chĩa xung đất như sp sa hy dit thế giới). Và vic can thip toàn năng quả thực thần hiệu này ca M đối vi ý định mun trng pht ca v Thiên Chúa “đã b xúc phm đến nhiu lm ri”, như M cho biết vào ln hin ra cui cùng, ngay trước khi M biến đi, được biểu hiện nơi biến cố mặt trời rúng động, (xẩy ra ngay sau khi Mẹ biến đi với những lời trăn trối kêu gọi chính yếu như trăn trối ấy), nhưng không gây thit hi gì cho thế nhân. Hiện tượng mặt trời rúng động trên không trung mà không tác hại gì đến thế nhân, được biểu hiện qua những ai đang chứng kiến bấy giờ cảm thấy hoảng sợ như tận thế xẩy ra, cho thấy rằng cho dù Thiên Chúa “có bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi”, được biểu hiện như mặt trời bị rúng động trên không trung, nhưng loài người vẫn chưa sao, nh quyền bầu cử vạn năng của Đức Mẹ Mân Côi.

 

Thật thế, tội lỗi loài người xúc phạm đến “Chúa là Thiên Chúa của chúng ta”, đến độ “vì Người đã bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi” mà con người đã tới lúc đáng bị Người trừng phạt, và đến độ Mẹ Maria không còn có thể ngăn cản nổi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa nữa, như Mẹ Maria đã buồn thảm tiết lộ cùng hai thiếu niên Melanie và Maximin hôm Thứ Bảy 19/9/1846 ở La Salette rằng:

 

       Hỡi con cái của Mẹ, hãy đến với Mẹ. Đừng sợ. Mẹ đến đây để nói với các con một điều hết sức hệ trọng…. Nếu dân của Mẹ không chịu nghe lời thì Mẹ sẽ buộc phải buông cánh tay Con của Mẹ ra. Mẹ đã từng chịu khổ vì các con đã lâu rồi! Nếu Con Mẹ không triệt hạ các con là vì Mẹ đã phải liên lỉ năn nỉ Người. Thế nhưng các con không hề lưu ý tới điều ấy chút nào cả. Bất kể sau này các con có nguyện cầu sốt sắng tới đâu, có hành động tốt lành đến mấy, các con vẫn không bao giờ có thể đến đáp lại Mẹ những gì Mẹ đã chịu đựng vì các con đâu…”

 

Bởi thế, để bù đắp lại tất cả những gì “Chúa là Thiên Chúa của chúng ta… đã bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi”, mà Mẹ Maria cần phải thành lập một đạo binh tế thần, như Mẹ đã thực sự làm khi vừa hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima nhỏ bé, kêu gọi các em “hãy dâng mình cho Thiên Chúa, chấp nhận tất cả mọi đau khổ Ngài gửi đến cho, để đền bù những xúc phạm Ngài phải chịu và cầu cho tội nhân ơn ăn năn hối cải”. Đó là lý do, trong thị kiến ở phần thứ ba Bí Mật Fatima, sau khi lưỡi gươm lửa trong bàn tay trái của vị thiên thần chĩa xuống muốn hủy diệt thế giới bị luồng sáng từ bàn tay phải của Mẹ Maria ngăn chặn lại và sau lời thiên thần kêu gọi 3 lần “hãy thống hối, thống hối, thống hối”, liền xuất hiện một đạo binh tế thần, một đạo binh dưới quyền chỉ huy tối cao và huấn luyện của Đức Mẹ Mân Côi Thắng Trận, như được Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort), trong tác phẩm “Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria”, đã tiên báo là sẽ xuất hiện vào thời buổi sau hết như thế này:

 

       Đối với ma quỉ cùng quân quốc của hắn, Mẹ Maria chắc chắn trở thành kinh hoàng khủng khiếp như một đạo binh dàn trận, nhất là vào những thời gian sau này, vì ma quỉ, khi biết rằng không còn nhiều thời gian, và giờ đây càng ít thời gian hơn nữa, trong việc hủy hoại các linh hồn, sẽ tăng gấp đôi nỗ lực của hắn cũng như những cuộc chiến đấu của hắn” (số 50).

 

Thế nhưng, quyền năng của Mẹ trên các thần dữ đặc biệt sẽ tỏ ra vào những thời buổi sau này, khi mà Satan sẽ rình cắn gót chân Mẹ, tức là cắn thành phần tôi tớ khiên hạ của Mẹ và con cái bần cùng của Mẹ, thành phần Mẹ sẽ làm dậy lên để chống lại hắn. Trước mắt của thế gian thì họ chỉ là những gì nhỏ mọn và bần cùng, và giống như gót chân, thấp hèn trước mắt thế của tất cả mọi người, bị giầy xéo và chà đạp như gót chân đối với các phần thể khác trong thân thể vậy. Thế nhưng, bù lại, chính vì thế mà họ sẽ được trở nên phong phú trong ân sủng của Thiên Chúa là những gì Mẹ Maria sẽ dồi dào tuôn đổ xuống trên họ. Họ sẽ nên cao cả và được tôn vinh trong thánh đức trước nhan Thiên Chúa. Họ sẽ trổi vượt trên tất cả mọi tạo vật bởi lòng nhiệt thành cao cả của họ, và họ sẽ được ơn trợ giúp thần linh nâng đỡ đến nỗi, liên kết với Mẹ Maria, họ sẽ đạp nát đầu Satan bằng gót chân của họ, tức là bằng lòng khiêm hạ của họ, để mang chiến thắng về cho Chúa Giêsu Kitô”. (số 54)

 

Họ giảng dạy con đường hẹp của Thiên Chúa bằng sự thật nguyên vẹn của Thiên Chúa theo Phúc Âm thánh hảo, chứ không theo những tâm niệm của thế gian. Họ sẽ ngậm nơi miệng của mình thanh gươm hai lưỡi Lời Thiên Chúa. Họ sẽ vác trên vai mình một thứ Thánh Giá đẫm máu, tay phải của họ cầm Tượng Chuộc Tội, tay trái của họ nắm Tràng Kinh Mân Côi, con tim của họ ghi Thánh Danh Chúa Giêsu và Mẹ Maria, hành vi cử chỉ của họ bộc lộ đức hạnh và khổ hạnh của Chúa Giêsu Kitô. Họ là những con người cao cả sẽ phải đến; còn Mẹ Maria, theo lệnh của Đấng Tối Cao, chính là vị sẽ trang bị cho họ, để vương quốc của Ngài bao trùm trên vương quốc của người vô đạo, vương quốc của kẻ tôn thờ ngẫu tượng và vương quốc của Tín Đồ Hồi Giáo” (số 59). 

 

 

TOP

 

?  Bí Mật Fatima - Dự Án Thần Linh: Ý nghĩa phần thứ ba Bí Mật Fatima

 

 

Đ

ể hiểu được cốt lõi hay ý nghĩa chính thức của chung Bí Mật Fatima, nhất là phần thứ ba của bí mật này, theo đúng chiều hướng của Giáo Hội, không gì bằng đọc lại sau đây chính những lời dẫn giải của Tòa Thánh, qua vị Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin bấy giờ là Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI hiện nay (những gì đã được phổ biến trong cuốn “Fatima: Dấu Chỉ Thời Đại” của cùng tác giả, sau khi phần bí mật này được Tòa Thánh chính thức tiết lộ, do Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp xuất bản năm 2000).

 

C

hính vì tầm quan trọng của Bí Mật Fatima phần thứ ba này mới có Bản Văn Kiện 40 trang của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin. Trong cuộc họp báo để chính thức phổ biến Bản Văn Kiện này vào trưa ngày Thứ Hai 26/6/2000, Đức Tổng Giám Mục Bertone, Tổng Thư Ký của Thánh Bộ, đã cho biết tại sao Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin đã gánh trách nhiệm trong việc công bố phần bí mật còn lại này như sau:

 

       Những lý do này cũng dễ suy ra, đó là vì những dính dáng của ‘các lần hiện ra’ đúng  nghĩa cùng với ‘những biểu hiện siêu nhiên’... có liên quan đến tín lý đức tin cũng như đến mạc khải chính yếu”.

 

Đức Hồng Y Ratzinger, Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, đã trả lời vấn đề được các ký giả đặt ra về quyết định không cho phổ biến phần bí mật này qua bao nhiêu năm nay không phải là vì lý do tín lý cho bằng vì lý do khôn ngoan. Do đó, cho dù có phải trả bằng một giá thắc mắc và tiên đoán đủ thứ về nội dung của phần bí mật còn lại này, thì việc tiết lộ nó ra vào thời điểm tuyên phong Á Thánh cho hai mục đồng Giaxinta và Phanxicô, cũng như vào thời điểm tận cùng của một thế kỷ đã chứng kiến con số tử đạo lớn nhất lịch sử và là một thế kỷ đã không ngớt trải qua hàng loạt chiến tranh và tàn phá, đã cho thấy một dấu hy vọng và càng làm sáng tỏ thị kiến của chị Lucia.

 

Cũng trong cuộc hóp báo này, Đức Hồng Y Tổng Trưởng đã cắt nghĩa những vấn đề liên quan đến phần Bí Mật Fatima thứ ba, nhất là đề cao vai trò của Mẹ Chúa Kitô trong lịch sử cứu độ như sau:

 

       Mẹ Maria đứng bên thập giá của Con Mẹ, thông phần đau thương và quyền năng cứu độ... Việc phổ biến phần Bí Mật Fatima thứ ba này vào đầu thiên niên kỷ mới, một lần nữa cho thấy tâm điểm của sứ điệp Phúc Âm, là để nhắc nhở Giáo Hội và thế giới về ý nghĩa và tầm quan trọng của Mẹ Chúa trong lịch sử cứu độ, cũng là để nhắc lại ý nghĩa và giá trị của nữ giới, tất cả mọi người phụ nữ, trong lịch sử nhân loại”.

 

Trong Lời Giới Thiệu Văn Kiện của mình, Vị Giám Mục Tổng Thư Ký Thánh Bộ đã trích lại cả bức thư chị Lucia kính gửi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đề ngày 12/5/1982 để gợi ý trong việc giải thích phần Bí Mật Fatima thứ ba như sau:

 

       Phần Bí Mật Fatima thứ ba có liên quan đến những lời Đức Mẹ nói: ‘Bằng không, Nước Nga sẽ truyền bá lầm lạc khắp thế giới, gây chiến tranh và bắt bớ Giáo Hội. Các người lành sẽ bị sát hại; Đức Thánh Cha sẽ phải khổ đau; nhiều dân nước sẽ bị tiêu diệt’ (13/7/1917)...

 

“Phần Bí Mật Fatima thứ ba là một tỏ hiện có tính cách biểu tượng nhắm đến phần Sứ Điệp trên đây và tùy thuộc vào việc chúng ta có biết đáp ứng điều Sứ Điệp đòi hỏi hay chăng: ‘Nếu những điều Mẹ yêu cầu được thực hiện thì Nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình; bằng không, nó sẽ truyền bá lầm lạc khắp thế giới v.v.’

 

“Chính vì chúng ta không lưu tâm gì đến lời kêu gọi của Sứ Điệp trên đây mà chúng ta chứng kiến thấy nó đã thực sự xẩy ra, Nước Nga đã xâm lấn thế giới bằng các thứ lầm lạc của mình. Và nếu chúng ta chưa thấy phần cuối của lời tiên tri này được nên trọn thì chúng ta đang từ từ rút ngắn bước đường tiến đến chỗ đó vậy. Tức là nếu chúng ta không từ bỏ con đường tội lỗi, hận thù, báo oán, bất công, những vi phạm đến nhân quyền, những việc vô luân và bạo lực...

 

“Chúng ta đừng đổ cho Chúa đã dùng cách thức ấy để trừng phạt chúng ta; mà là chính con người chúng ta đã tạo nên cho mình việc trừng phạt này. Theo lòng nhân hậu của mình, Thiên Chúa một đàng cảnh giác và kêu gọi chúng ta trở về với đường ngay nẻo chính, đàng khác Ngài cũng tỏ ra tôn trọng tự do Ngài đã ban cho chúng ta; con người phải gánh chịu trách nhiệm là thế”.

 

Để chính thức cắt nghĩa phần Bí Mật Fatima thứ ba này, trong bản dẫn giải thần học được chia làm ba phần của mình, Đức Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin đã đi từ vấn đề “vị trí thần học của Mạc Khải Chung và các mạc khải riêng”, sang vấn đề “cấu trúc nhân loại học của các mạc khải tư”, tới vấn đề “cố gắng để giải thích ‘bí mật’ Fatima”.

 

Theo Đức Hồng Y Tổng Trưởng, như “việc cứu các linh hồn” là ý chính của phần Bí Mật Fatima thứ nhất và thứ hai thế nào, thì cũng vậy, “ý chính của phần thứ ba này là tiếng kêu ba lần: ‘Hãy Ăn Năn Đền Tội, Ăn Năn Đền Tội, Ăn Năn Đền Tội!’... Đó là đáp ứng xác đáng với giây phút lịch sử mang những đặc điểm hiểm nguy được tóm gọn nơi những hình ảnh sau đó”.

 

Về các hình ảnh biểu tượng trong phần Bí Mật Fatima thứ ba, cũng qua bản dẫn giải thần học của mình, Đức Hồng Y Tổng Trưởng đã cắt nghĩa thế này (những chỗ đậm do người dịch tự ý muốn cho rõ từng biểu tượng):

     

       Vị thiên thần cầm thanh kiếm cháy lửa đứng bên trái Mẹ Thiên Chúa đã gợi lại cho thấy những hình ảnh giống như trong Sách Khải Huyền. Hình ảnh này biểu hiệu cho phán quyết đe dọa giáng xuống trên thế giới. Ngày nay vấn đề thế giới có thể trở thành tro bụi bởi một biển lửa dường như không còn chỉ là một tưởng tượng nữa, ở chỗ, chính con người từng cố ý đúc cho mình thanh kiếm cháy lửa này.

 

Thế rồi thị kiến cho thấy quyền năng chống lại lực lượng hủy hoại đó là ánh quang sáng ngời của Mẹ Thiên Chúanhững lời kêu gọi ăn năn đền tội phát xuất một cách nào đó từ sự kiện này. Như thế, tầm quan trọng của tự do con người đã được nhấn mạnh, ở chỗ, tương lai thực sự không phải là một ấn định bất biến, và hình ảnh các em trông thấy không phải hoàn toàn chỉ là việc coi trước một cuốn phim của tương lai, trong đó không gì có thể thay đổi được nữa. Thật vậy, tất cả vấn đề của thị kiến này là ở chỗ làm sáng tỏ vấn đề tự do và lái tự do theo chiều hướng tích cực... Thị kiến cố ý nhắm đến việc vận động những lực lượng đổi thay theo chiều hướng chính đáng. Bởi thế, chúng ta phải hoàn toàn giảm bớt đi những loại cắt nghĩa theo mệnh thuyết về ‘bí mật’ này, chẳng hạn như việc cho rằng cuộc ám sát phải xẩy ra ngày 13/5/1981 chỉ là phương tiện của dự án thần linh do Đấng Quan Phòng điều khiến... Thật ra thị kiến nói về những nguy hiểm và cách thức chúng ta phải làm thế nào để có thể được cứu khỏi những hiểm nguy ấy...

 

Địa điểm xẩy ra được diễn tả bằng ba biểu tượng, đó là một ngọn núi dốc đứng, một thành phố lớn bị tan hoang và sau cùng là một cây thập giá to bị nứt nẻ. Ngọn núi và thành phố biểu hiệu cho đấu trường của lịch sử nhân loại, một lịch sử như là một cuộc khổ công leo lên tới chóp đỉnh, một lịch sử như là một đấu trường giữa óc sáng tạo của con người với tình trạng an vui thái hòa của xã hội, đồng thời cũng là một nơi của hủy hoại, nơi con người thực sự hủy hoại đi những hoa trái của việc mình làm ra... Trên ngọn núi có cây thập giá, đích điểm và là hướng đạo cho lịch sử. Thập giá biến đổi tình trạng hủy hoại thành ơn cứu độ; cây thập giá chẳng những như là một dấu hiệu cùng khốn của lịch sử mà còn là một hứa hẹn cho lịch sử nữa.

 

“Đến đây thì thấy có những con người xuất hiện, đó là vị Giám Mục mặc áo trắng (‘chúng con có cảm nhận đó là Đức Thánh Cha’), ngoài ra còn có các vị Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ, cùng với những người nam nữ thuộc các tầng lớp và vai trò khác nhau. Vị Giáo Hoàng dường như đi trước những người khác, run rẩy và khổ đau vì tất cả những rùng rợn xẩy ra chung quanh mình. Ngài chẳng những đi ngang qua một nửa số nhà cửa của thành phố bị sụp đổ mà còn tiến bước giữa những thi thể của kẻ chết nữa. Thế nên con đường của Giáo Hội mới được diễn tả như là một ‘Con Đường Thập Giá’, một cuộc hành trình trải qua thời gian bị tấn công, hủy diệt và bách hại. Lịch sử của cả một thế kỷ có thể được thấy tiêu biểu nơi hình ảnh này. Như các vị trí của trái đất đã được phác tả đúc kết lại nơi hình ảnh ngọn núi và thành phố hướng về cây thập giá thế nào, thì thời gian cũng được trình bày cho thấy bằng một đường lối thu gọn như vậy.

 

“Trong thị kiến, chúng ta có thể nhận thấy thế kỷ vừa qua là một thế kỷ của các vị tử đạo, một thế kỷ Giáo Hội trải qua đau thương và bị bắt bớ, một thế kỷ của các Cuộc Thế Chiến cùng với những trận chiến địa phương kéo dài 50 năm qua, gieo rắc những hình thức dã man tàn nhẫn chưa từng thấy. Qua ‘tấm gương soi’ của thị kiến này, chúng ta thấy băng ngang qua trước mắt chúng ta những vị nhân chứng đức tin từ thập niên này đến thập niên khác...

 

“Trên Con Đường Thập Giá của cả một thế kỷ, nhân vật Giáo Hoàng đóng một vai trò đặc biệt. Trong việc khó nhọc tiến lên ngọn núi của Ngài, chúng ta rõ ràng thấy được qui điểm của các vị Giáo Hoàng khác nhau. Bắt đầu từ Đức Piô X cho tới vị Giáo Hoàng hiện tại, tất cả các Ngài đều chia sẻ các thương đau của thế kỷ và nỗ vượt qua tất cả mọi khổ ải trên con đường tiến tới cây Thập Giá. Trong thị kiến, Đức Giáo Hoàng cũng bị sát hại cùng với các vị tử đạo. Sau cuộc bị ám sát xẩy ra vào ngày 13/5/1981, nhận được bản văn của phần ‘bí mật’ thứ ba đem tới cho mình, Ngài không nhận ra số phận của mình trong đó hay sao? Ngài tí nữa đã bị chết, và chính Ngài đã cắt nghĩa việc sống còn của mình bằng những lời sau đây: ‘... chính bàn tay của người mẹ đã lái viên đạn và Vị Giáo Hoàng thống khổ đã khựng lại trước cửa miệng tử thần’ (13/5/1994). Ở đây ‘bàn tay của một người mẹ’ làm trệch đi viên đạn định mệnh một lần nữa đã cho thấy rằng định mệnh không phải là bất dịch, đức tin và lời cầu nguyện có mãnh lực chi phối lịch sử, và kết cuộc thì lời cầu nguyện còn mãnh liệt hơn cả đạn bắn và đức tin còn mãnh lực hơn cả các đạo binh nữa.

“... Bên dưới hai cánh của cây thập giá có các vị thiên thần thu lại máu của những vị tử đạo và dùng máu ấy để hiến sự sống cho các linh hồn đang tìm đường đến với Thiên Chúa. Ở đây, máu của Chúa Kitô và máu của các vị tử đạo được coi như là một, ở chỗ, máu của các vị tử đạo chảy xuống từ hai cánh của cây thập giá. Các vị tử đạo chết trong mối hiệp thông với Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô bởi thế cái chết của các vị đã được nên một với cái chết của Người.

 

“Thi kiến của phần ‘bí mật’ thứ ba, mở màn rất buồn nản, đã kết lại bằng một hình ảnh hy vọng, đó là không có một đau khổ nào lại luống công vô ích, và chính Giáo Hội thương đau, một Giáo Hội của các vị tử đạo, đã trở nên một bảng chỉ đường cho con người trên con đường họ tìm kiếm Thiên Chúa... Quyền năng thanh tẩy và canh tân được phát xuất từ nỗi khổ đau của các vị nhân chứng, vì khổ đau của họ là việc hiện thực hóa khổ đau của chính Chúa Kitô và là việc truyền đạt hiện đại công hiệu cứu độ của khổ đau Người.

 

“Toàn thể ‘bí mật’ Fatima (cả ba phần) có ý nghĩa gì? Trước hết, chúng ta phải cùng với Đức Hồng Y Sodano xác nhận rằng: ‘... các biến cố được phần bí mật Fatima thứ ba nói đến giờ đây đã thuộc về quá khứ’. Ở chỗ những biến cố riêng rẽ được nói đến chúng đã thuộc về quá khứ. Những ai mong đợi đọc thấy những mạc khải thị kiến hào hứng về ngày tận thế hay về tương lai của giòng lịch sử đành phải ôm hận. Fatima không làm thỏa mãn óc tò mò của chúng ta là ở chỗ đó, như đức tin Kitô Giáo nói chung không thể nào bị giảm xuống thành một đối tượng cho óc tò mò thuần túy. Điều còn lại, khi chúng ta bắt đầu suy nghĩ về bản văn của ‘bí mật’, đã rõ ràng đó là việc huấn dụ nguyện cầu như con đường ‘cứu độ các linh hồn’, cùng với những lời kêu gọi ăn năn đền tội và cải thiện đời sống...”

 

 

TOP

 

 

? Bí Mật Fatima - Dự Án Thần Linh: Những gì chưa được sáng tỏ…

 

Đọc xong những lời dẫn giải trên đây của Đức Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin Joseph Ratzinger, chúng ta thực sự cảm nhận được rằng ngài đã trình bày những hình ảnh tiêu biểu rất sâu xa và đầy ý nghĩa của thị kiến thuộc phần thứ ba Bí Mật Fatima chẳng những theo chiều hướng tín lý đức tin và tu đức Kitô Giáo, mà còn phản ảnh lịch sử Kitô Giáo và lịch sử thế giới hiện đại.

 

Riêng ở phần giữa của thị kiến là phần liên quan tới những gì được ngài cho biết là “địa điểm xẩy ra được diễn tả bằng ba biểu tượng, đó là một ngọn núi dốc đứng, một thành phố lớn bị tan hoang và sau cùng là một cây thập giá to bị nứt nẻ”. Và theo ngài thì ý nghĩa của ba biểu tượng ấy là như thế này: “Ngọn núi và thành phố biểu hiệu cho đấu trường của lịch sử nhân loại, một lịch sử như là một cuộc khổ công leo lên tới chóp đỉnh, một lịch sử như là một đấu trường giữa óc sáng tạo của con người với tình trạng an vui thái hòa của xã hội, đồng thời cũng là một nơi của hủy hoại, nơi con người thực sự hủy hoại đi những hoa trái của việc mình làm ra... Trên ngọn núi có cây thập giá, đích điểm và là hướng đạo cho lịch sử. Thập giá biến đổi tình trạng hủy hoại thành ơn cứu độ; cây thập giá chẳng những như là một dấu hiệu cùng khốn của lịch sử mà còn là một hứa hẹn cho lịch sử nữa… Như các vị trí của trái đất đã được phác tả đúc kết lại nơi hình ảnh ngọn núi và thành phố hướng về cây thập giá thế nào, thì thời gian cũng được trình bày cho thấy bằng một đường lối thu gọn như vậy”.

 

Tuy nhiên, ở đây ngài không nói gì đến ý nghĩa liên quan tới hình ảnh về “một nhóm lính” xuất hiện trên đỉnh núi đã hạsát đoàn Kitô hữu tử đạo, từ giáo hoàng trở xuống tới giáo dân, ở trên đỉnh núi và dưới chân cây thập tự giá bấy giờ, bằng cả “đạn” lẫn “tên” bắn tới, chứ không nguyên bằng đạn. 1) Nhóm lính này tiêu biểu cho thành phần nào? 2) Tại sao họ lại lên được tới đỉnh núi là nơi có cây thập tự giá linh thiêng này? 3) Tại sao họ không hạ sát đoàn tử đạo Kitô Giáo bằng súng đạn mà còn bằng cả cung tên? 4) Nếu vị giám mục mặc áo trắng là chính đức giáo hoàng đã bị ám sát chết, thì phần bí mật này đã hoàn toàn ứng nghiệm hay chưa nơi trường hợp bị mưu sát nhưng thoát chết của Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chiều ngày 13/5/1981 ở Quảng Trường Thánh Phêrô?

 

Ngoài ra, 5) hình ảnh về thành phố và đỉnh núi còn có một ý nghĩa nào khác nữa hay chăng, vì theo thị kiến thì đây là một thành phố “lớn” chứ không nhỏ, và ngọn núi đây là một ngọn núi “dốc đứng” chứ không xoai xoải dễ leo? 6) Đâu là ý nghĩa của tính chất “lớn” nơi thành phố và tính chất “dốc đứng” nơi ngọn núi? 7) Riêng về hình ảnh thành phố thì “một nửa đã bị tàn rụi, còn nửa kia thì đang lẩy bẩy dừng bước, với đầy những đớn đau và buồn khổ” nghĩa là gì? 8) Tại sao thành phố lớn này lại được chia làm hai phần như thế và mỗi phần của nó mang một ý nghĩa tiêu biểu ra sao?

 

Chưa hết, 9) hình ảnh “một vị Giám Mục mặc Áo Trắng, ‘mà chúng con có cảm nhận đó là Đức Thánh Cha’, trong một vùng sáng mênh mông là Thiên Chúa, ‘giống như người ta thấy mình đi ngang qua trước một tấm gương soi’” đây nghĩa là gì, một hình ảnh xẩy ra trước khi ngài băng qua thành phố lớn và leo tới đỉnh núi để bị sát hại dưới chân cây thập tự giá? 10) Tại sao toán lính không sát hại ngài và đoàn Kitô hữu theo ngài ở khu vực thuộc thành phố lớn khi ngài đang băng ngang qua có phải dễ dàng hơn không, mà lại ở trên đỉnh núi dốc đứng và dưới chân cậy thập tự giá? 

 

Tất cả 10 vấn nạn vừa được nêu lên trên đây không phải là không quan trọng và hoàn toàn vô nghĩa. Chắc chắn chúng phải có một ý nghĩa sâu xa nào đó, ít là theo tu đức và lịch sử. Để có thể phần nào hiểu được ý nghĩa của những gì chưa được thẩm quyền Giáo Hội, qua Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, dẫn giải trong văn kiện ngày 26/6/2000, chúng ta nên lưu ý tới một yếu tố rất quan trọng liên quan tới thời điểm mà phần bí mật còn lại này được Tòa Thánh chính thức phổ biến cho biết. Vấn đề tại sao Bí Mật Fatima phần thứ ba không được Tòa Thánh phổ biến sớm hơn hay muộn hơn năm 2000 là ở chỗ năm 2000 là lúc giao thời, vừa chấm dứt thế kỷ 20 vừa mở màn cho thế kỷ 21. Thế kỷ 20 là thế kỷ của hai trận Thế Chiến I và II xẩy ra ở Âu Châu (Thế Chiến I) và từ Âu Châu (Thế Chiến II), một châu lục Kitô giáo, cũng là thế kỷ của hai chủ nghĩa cộng sản và tư bản. Thế kỷ 21 đã được mở màn với cuộc khủng bố tấn công ngày 11/9/2001 vào đệ nhất cường quốc Hoa Kỳ ngay giữa thanh thiên bạch nhật, để rồi từ đó, có thể nói, Thế Chiến III đã bùng nổ ở khắp nơi, giữa văn minh Tây phương và Hồi giáo.

 

Nếu Biến Cố Fatima xẩy ra năm 1917 là thời điểm chẳng những liên quan tới Thế Chiến I ở thế giới Tây phương và hiện tượng cộng sản xuất hiện ở Nga, mà còn tới cả cuộc sụp đổ của đế quốc Hồi giáo Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ theo sau Thế Chiến I, thì những hình ảnh về một “thành phố lớn” được chia làm hai khu vực và về “nhóm lính” trên đỉnh núi dốc đứng đã trở nên phần nào sáng tỏ.

 

Phải chăng hình ảnh “thành phố lớn” trong thị kiến ở phần ba của Bí Mật Fatima là những gì tượng trưng cho thế giới Tây phương (“lớn” đây tượng trưng cho nền văn minh của Tây phương)? Và phải chăng hai khu vực của “thành phố lớn” này là tiêu biểu cho hai chủ nghĩa cộng sản và tư bản ở thế giới Tây phương?

 

Một nửa thành phố đã bị tàn rụi trong thị kiến phải chăng là chủ nghĩa và chế độ cộng sản ở Tây phương đã hoàn toàn tự động giải thể vào năm 1989 ở Đông Âu và 1991 ở Liên Sô, (tất nhiên không kể dấu vết cộng sản ở các nơi khác ngoài Tây phương như ở Á Châu có Trung Hoa, Việt Nam, và Bắc Hàn, hay ở Mỹ Châu có Cuba)?

 

Rồi một nửa còn lại của “thành phố lớn” này “đang lẩy bẩy dừng bước, với đầy những đớn đau và buồn khổ” phải chăng là chủ nghĩa tư bản ở Tây phương, một chủ nghĩa duy tư bản hưởng thụ và duy thực dụng, chẳng những không mang lại hạnh phúc cho dân chúng mà còn sát hại họ nữa, bằng những khoản luật phản luân lý và phi nhân bản, như ly dị, phá thai, đồng tính hôn nhân, triệt sinh an tử, triệt sinh trợ tử v.v., đến nỗi, có thể khẳng định mà không sợ sai lầm về thế giới Tây phương duy tư bản và duy thực dụng toàn pro-choice này là “thế giới càng văn minh con người càng bạo loạn”? Ngoài ra, một nửa còn lại của “thành phố lớn” này “đang lẩy bẩy dừng bước, với đầy những đớn đau và buồn khổ” phải chăng còn là hình ảnh của một Khối Hiệp Nhất Âu Châu đang dậm chân tại chỗ và gặp lung củng đủ thứ trong nội bộ, chỉ vì đã dứt khoát và trắng trợn gạt bỏ đi căn tính Kitô giáo Âu Châu của mình?

 

Trong chuyến tông du Ba Tây để khai mạc biến cố Đệ Ngũ Tổng Nghị Hàng Giáo Phẩm Mỹ Châu La Tinh và Caribbean ngày 13/5/2007 ở Ba Tây, Vị Giáo Hoàng xuất thân từ một quốc gia gây ra hai Thế Chiến I và II đã nhận định về tính cách sai lầm và hậu quả tai hại của hai chủ nghĩa cộng sản và tư bản liên quan tới vấn đề an sinh xã hội như thế này:

 

       ’Thực tại’ ấy là gì? Đâu là thực? Phải chăng chỉ có các sản vật về thể lý, chỉ có các vấn đề về xã hội, kinh tế và chính trị là ‘thực tại’? Đây chính là cái sai lầm cả thể của những chủ nghĩa then chốt trong thế kỷ vừa qua, một sai lầm tai hại nhất, như chúng ta đã có thể thấy nơi những hậu quả của cả các thể chế Mát-Xít và tư bản. Chúng làm sai lạc ý niệm về thực tại, bằng cách tách nó ra khỏi thực tại nồng cốt và trọng yếu là Thiên Chúa. Bất cứ ai loại trừ Thiên Chúa ra khỏi chân trời của mình đều làm sai lầm đi ý niệm về ‘thực tại’, bởi thế, chỉ có thể đâm đầu vào những ngõ tối tăm mù mịt hay theo những chỉ đạo hủy hoại mà thôi” (diễn từ khai mạc, đoạn 3, “Những Người Môn Đệ và Thừa Sai”). 

 

Cả chủ nghĩa tư bản và Mát-Xít đều đã hứa hẹn vạch ra con đường kiến tạo nên những cấu trúc chính đáng, và họ đã tuyên bố rằng, một khi được thiết lập, những cấu trúc ấy sẽ tự mình hoạt động; họ công bố là chẳng những các cấu trúc ấy không cần đến bất cứ một thứ luân lý cá nhân nào trước đó, mà chúng còn phát động một thứ luân lý chung. Và lời hứa hẹn có tính cách ý hệ này đã cho thấy là sai lầm. Các sự kiện đã rõ ràng minh chứng điều ấy. Thể chế Mát-Xít, nơi nào được chính quyền thi hành áp dụng, chẳng những để lại một gia sản buồn thảm nơi tình trạng hủy hoại về kinh tế và môi sinh, mà còn là một thứ đau thương áp bức các linh hồn nữa. Và chúng ta có thể thấy được cũng một điều như thế xẩy ra ở cả Tây Phương, nơi mà khoảng cách giầu nghèo đang liên tục gia tăng, gây ra một tình trạng suy thoái đáng lo ngại về phẩm vị con người bởi những thứ thuốc phiện, rượu chè cùng những thứ ảo tưởng dối trá về hạnh phúc” (cùng nguồn vừa dẫn, đoạn 4 “Để Nơi Người họ được sự sống”. Cũng có thể xem những ý tưởng về hai chủ nghĩa kinh tế xã hội này trong tác phẩm “Jesus of Nazareth” của tác giả Joseph Ratzinger Giáo Hoàng Biển Đức XVI, ấn bản Anh ngữ phát hành ngày 15/5/2007, Doubleday, 2007, trang 33-34).

 

Thật vậy, thực tế cho thấy nền văn minh Tây phương càng ngày càng mất gốc vì lìa xa Thiên Chúa của Kitô giáo, như vị Giáo Hoàng xuất thân từ một nước cộng sản Ba Lan vào cuối thập niên 1970, và sau 26 năm rưỡi dẫn dắt Giáo Hội, đã để lại tác phẩm cuối cùng của mình về Âu Châu như một di chúc “Hồi Niệm và Căn Tính” cho châu lục Kitô giáo này, đã xót xa nhận định:

 

       Tôi muốn đề cập đặc biệt đến cái mất mát về ký ức và di sản Kitô Giáo của Châu Âu, một mất mát được đi kèm theo bởi một thứ khuynh hướng bất khả thần tri và thái độ lạnh lùng dưng dưng về đạo nghĩa là những gì làm cho nhiều người Âu Châu cảm thấy sống thiếu gốc gác thiêng liêng và một cái gì đó như là thành phần thừa hưởng đã làm phung phí đi một gia sản được lịch sử ký thác cho họ” (Tông Huấn “Giáo Hội ở Âu Châu, đoạn 7).

 

Phải chăng vì thế, vì văn minh Tây phương đang bị khủng hoảng và phá sản như thế, mới xuất hiện một “nhóm lính”, biểu hiệu cho lực lượng Hồi giáo nói chung, một tôn giáo có nguồn gốc chủ trương tích cực cải cách xã hội suy đồi, cũng như cho thành phần khủng bố quá khích nói riêng, thành phần chủ trương sử dụng võ lực (trong đó ngoài súng đạn còn có cả  phi đạn tầm xa, được tiêu biểu nơi mũi tên bắn tới), và thậm chí dám liều mạng ôm bom tự vận vì danh Thiên Chúa (tiêu biểu cho hình ảnh nhóm lính xuất hiện trên đỉnh núi)?

 

Để trả lời cho câu hỏi “Việc Hồi giáo liên kết toàn cầu có nghĩa là gì đối với Kitô Giáo?”, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, trong cuốn “Salt of The Earth” (Muối Đất), ấn bản Anh ngữ do Ignatius xuất bản năm 1997, trang 245-246, ở chương “Priorities of the Church’s Development – Những điều ưu tiên trong Việc Phát Triển của Giáo Hội”, đã nhận định:

 

       Việc liên kết này là một hiện tượng muôn mặt. Về một phương diện thì các yếu tố tài chính góp phần vào việc này. Quyền lực về tài chính có được nơi các quốc gia Ả Rập là một quyền lực giúp cho họ có thể xây dựng các đền thờ lớn lao khắp nơi, để bảo đảm về sự hiện diện của các cơ cấu văn hóa Hồi Giáo cùng với những điều khác đại loại như thế. Thế nhưng, chắc chắn đó không phải là một yếu tố duy nhất. Yếu tố khác nữa đó là một căn tính được gia tăng, một tâm thức mới về mình.

 

Trong bối cảnh về văn hóa của thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, cho đến thập niên 1960, cái trổi vượt của các quốc gia Kitô Giáo về kinh tế, văn hóa, chính trị và quân sự quá lớn mạnh đến nỗi thực sự đẩy Hồi Giáo vào hạng thứ yếu, và Kitô Giáo, có thể nói, các nền văn minh theo căn gốc Kitô Giáo có thể tỏ ra mình như là một quyền lực chiến thắng trong lịch sử thế giới. Thế nhưng, vào lúc ấy lại xẩy ra một cuộc khủng hoảng đại thể về luân lý nơi thế giới Tây phương, một thế giới mang tính cách là một thế giới Kitô Giáo. Trước những tương phản sâu xa về luân lý nơi Tây phương cùng với sự bất lực nội tại của nó – một nỗi bất lực đột nhiên nghịch lại với một quyền lực mới về kinh tế của các quốc gia Ả Rập – hồn sống của Hồi Giáo đã bừng lên. Chúng tôi cũng là một nhân vật nào đó nữa chứ; chúng tôi biết được mình là ai mà; tôn giáo của chúng tôi đang vững mạnh đây; các người không còn thứ tôn giáo như thế nữa. 

 

Đó thực sự là cái cảm thức hôm nay nơi thế giới Hồi Giáo: ở chỗ, các quốc gia Tây phương không còn khả năng giảng dạy một sứ điệp về luân lý nữa, mà chỉ có một thứ kiến thức về kỹ thuật để cống hiến cho thế giới mà thôi. Kitô Giáo đã bị lịm tắt mất rồi; nó thực sự không còn hiện hữu như là một tôn giáo nữa; thành phần Kitô hữu không còn luân lý hay đức tin nữa; tất cả những gì còn lại đó là một ít vết tích của vài ý nghĩ minh tri tân thời mà thôi; chúng tôi có một thứ tôn giáo vững vàng chắc chắn.

 

Bởi vậy thành phần tín đồ Hồi Giáo giờ đây đã ý thức rằng thực sự Hồi Giáo cuối cùng trở thành một tôn giáo cường tráng hơn, và họ có một cái gì đó để nói với thế giới, thực sự họ là một lực lượng về tôn giáo chính yếu cho tương lai. Trước đây, sharia (luật Hồi Giáo - chú thích của người dịch) và tất cả những thứ ấy đã biến mất trên hiện trường ở một nghĩa nào đó; giờ đây trở thành một niềm hãnh diện mới. Thế là một nhiệt tình mới, một cường độ mới về nhu cầu sống Hồi Giáo đã bừng lên. Đó là một quyền lực mạnh mẽ nơi Hồi Giáo: Chúng tôi có một sứ điệp về luân lý đã từng hiện hữu mà không bị lũng đoạn từ hồi các vị tiên tri, và chúng tôi sẽ nói cho thế giới biết cách sống sứ điệp này, trong khi Kitô Giáo chắc chắc không thể nào làm nổi. Dĩ  nhiên là cờ đã đến tay chúng tôi nhờ ở quyền lực nội tại này của Hồi Giáo, một thứ quyền lực thậm chí thu hút cả những lãnh vực về hàn lâm nữa”.

 

Thực tế đã hiển nhiên cho thấy thành phần Kitô hữu đang bị bách hại và sát hại rất nhiều ở thế giới Hồi giáo. Thậm chí cả vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội Công giáo cũng bị một tín đồ Hồi giáo người Thổ Nhĩ Kỳ là Ali Agca mưu sát (hụt), (khi đang mặc chiếc áo choàng trắng, đúng như trong thị kiến của phần ba Bí Mật Fatima), tại ngay cung lòng của thế giới Công Giáo là thành Vatican ngày 13/5/1981. Thế giới nói chung và Giáo Hội Công giáo nói riêng đã tỏ ra rất hồi hộp về chuyến tông du Thổ Nhĩ Kỳ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI vào những ngày 28/11 đến 1/12/2006, một chuyến tông du đã bị nhóm khủng bố quốc tế Al Qaeda lên tiếng hăm dọa ra tay; bởi đó, thậm chí đã có người tưởng rằng vị giám mục mặc áo trắng bị chết thực sự bởi vừa đạn và tên (phi đạn tầm xa) có thể sẽ là vị Giáo Hoàng đã (vô ý dám) nói động tới Hồi giáo trong bài diễn văn của ngài ở Đại Học Đường Regensburg ngày 12/9/2006 trong chuyến tông du Bavaria Đức quốc của ngài trước đó. Nếu Bí Mật Fatima phần 3 quả thực là những gì đã xẩy ra và ứng nghiệm, thì vị giáo hoàng bị ám sát chết thật không thể không xẩy ra cho một vị nào đó trong tương lai.

 

Chính vì thế giới không thể nào tự cứu được mình, trái lại, càng văn minh càng bạo loạn, mà Giáo Hội Công giáo nói chung và thành phần thiểu số Kitô hữu đích thực của Chúa Kitô nói riêng mới được sai đến để trở thành một lực lượng cứu nguy phần rỗi của nhân loại, bằng chính chứng từ tử đạo của mình. Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort), từ đầu thế kỷ 18, đã tiên báo về sự xuất hiện của thành phần này trong tác phẩm Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính của ngài, ở đoạn 58 và 59 như sau:

 

       Họ sẽ là những vị tông đồ đích thực của những thời buổi sau này, thành phần mà Chúa các Đạo Binh sẽ ban cho họ lời nói và sức mạnh để họ thực hiện những điều kỳ diệu và vinh thắng tước đoạt các chiến lợi phẩm từ tay quân thù của Người...” (đoạn 58).

 

Họ sẽ là thành phần môn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô, bước theo gót chân nghèo hèn, khiêm hạ, bị thế gian khinh chê, yêu thương bác ái của Người; họ giảng dạy con đường hẹp của Thiên Chúa bằng sự thật nguyên vẹn của Thiên Chúa theo Phúc Âm thánh hảo, chứ không theo những tâm niệm của thế gian... Họ sẽ ngậm nơi miệng của mình thanh gươm hai lưỡi Lời Thiên Chúa. Họ sẽ vác trên vai mình một thứ Thánh Giá đẫm máu, tay phải của họ cầm Tượng Chuộc Tội, tay trái của họ nắm Tràng Kinh Mân Côi, con tim của họ ghi Thánh Danh Chúa Giêsu và Mẹ Maria, hành vi cử chỉ của họ bộc lộ đức hạnh và khổ hạnh của Chúa Giêsu Kitô. Họ là những con người cao cả sẽ phải đến; còn Mẹ Maria, theo lệnh của Đấng Tối Cao, chính là vị sẽ trang bị cho họ, để vương quốc của Ngài bao trùm trên vương quốc của người vô đạo, vương quốc của kẻ tôn thờ ngẫu tượng và vương quốc của Tín Đồ Hồi Giáo” (đoạn 59).

 

Như đã suy luận, ba vương quốc sẽ bị Vương Quốc của Thiên Chúa, qua đạo binh dàn trận được Mẹ Maria là “Đức Bà Thắng Trận” – “Đức Mẹ Mân Côi” ở Fatima, huấn luyện đây, (được Thánh Long Mộng Phố nói tới và được người dịch in đậm trên đây), có thể được hiểu theo thứ tự bại trận trước hết là cộng sản (“vô đạo”), như lịch sử cho thấy quả thực đã xẩy ra từ cuối thế kỷ 20, rồi tới tư bản (“tôn thờ ngẫu tượng”), như lịch sử cũng cho thấy đang đi đến chỗ tự diệt bằng những cuộc tàn sát sự sống, và sau hết mới tới vương quốc liên quan tới “tín đồ Hồi giáo”. Có thể văn minh Tây phương cho dù có mạnh về chính trị, quân sự và kinh tế cũng sẽ bị văn minh Hồi giáo được Đấng Quan Phòng Thần Linh sử dụng để thanh tẩy thế giới Kitô giáo, một thế giới văn minh đang quay cuồng tự diệt. 

 

Thật vậy, những gì vị giáo hoàng này đã nhận định về loài người liên quan đến “những hủy hoại lớn lao”, “những tàn phá vĩ đại” từ năm 1978, trước khi ngài vĩnh viễn ra đi, đã biến thành một hiện tượng diễn tiến như cuộc biển động sóng thần Nam Á xẩy ra vào ngày 26/12/2004, một thiên tai đã kinh hoàng tàn sát trên 200 ngàn người cách đột ngột trong một thời gian rất ngắn. Ngài viết trong tác phẩm cuối cùng của mình, “Hồi Niệm và Căn Tính”, ở Chương 2 về “Những Ý Hệ của Sự Dữ”, ấn bản Anh ngữ, trang 11, như sau:

 

       Đến đây, chúng ta không thể câm lặng trước vấn đề ngày nay trở nên thảm khốc hơn bao giờ hết. Cuộc sụp đổ của các chế độ được xây dựng trên các ý hệ sự dữ (biệt chú của người dịch: theo tác giả nhận định ở phần trước đó là ‘ý hệ Xã Hội Quốc Gia’ ở Đức theo nguyên lý duy chủng tộc, và ‘ý hệ Mát Xít’ Cộng sản đặc biệt ở Nga) đã đi đến chỗ chấm dứt những hình thức diệt chủng vừa được đề cập tới ở những xứ sở liên hệ (biệt chú của người dịch: được tác giả liệt kê là ‘diệt chủng Do Thái, cùng các nhóm khác như nhân dân Romania, thành phần dân quê xứ Ukraine, và hàng giáo sĩ Chính Thống lẫn Công Giáo ở Nga, ở Belarus và ở bên ngoài rặng núi Urals’).

 

"Tuy nhiên, vẫn còn có một cuộc diệt chủng về pháp lý đối với những con người đang được cưu mang nhưng chưa vào đời. Trong trường hợp này, cuộc diệt chủng ấy được ban bố bởi những thứ quốc hội được chọn bầu theo dân chủ (biệt chú của người dịch: ở đây vị tác giả muốn nhấn mạnh đến tính cách khác biệt giữa những chế độ chuyên chế độc tài sắt máu trong thế kỷ 20 với thể chế được gọi là tự do dân chủ nhân quyền), những thứ quốc hội nhân danh quan niệm tiến bộ về dân sự cho xã hội và cho toàn thể nhân loại.

 

"Chúng ta cũng không thể thinh lặng trước những vi phạm trầm trọng khác đến việc làm hụt hẫng đi lề luật của Thiên Chúa. Tôi đang nghĩ tới, chẳng hạn, áp lực mãnh liệt của Quốc Hội Âu Châu trong việc nhìn nhận các cuộc hợp hôn đồng tính như là một loại gia đình khác, có quyền nhận con nuôi. Thật là hợp lý, thậm chí cần phải đặt vấn đề phải chăng đó không phải là công cuộc của một thứ ý hệ sự dữ khác hay sao, có lẽ còn tinh xảo và kín đáo hơn, có ý muốn khai thác chính nhân quyền để chống lại con người và đời sống gia đình”.

 

Nếu bí mt Fatima phn th ba là mt th kiến t đạo, (một hành động tử đạo cần phải có một đức tin cao cả mãnh liệt được tiêu biểu như leo lên được một đỉnh núi “dốc đứng”, một hành động chỉ thực hiện được bởi thành phần chứng nhân đích thực của Chúa Kitô, theo Người đến bất cứ nơi nào Người đến – Rev 14:4, cho dù dưới chân cây Thập Tự Giá như ở phần cuối thị kiến Bí Mật Fatima phần ba cho thấy), bao gm mi thành phn Kitô hu trong Giáo Hi, k t Đức Giáo Hoàng tr xung cho ti giáo dân, thì phi chăng đó là hình nh v Giáo Hi vào thi đim trước khi Chúa Kitô đến ln th hai, như được Sách Giáo Lý Giáo Hi Công Giáo nói ti s 675:

 

       Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy ‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”.

 

Nếu qu thc Bí Mt Fatima phn th ba là hình nh Giáo Hi trước khi Chúa Kitô đến ln th hai như thế, thì phi chăng M Maria là v đến sa son Giáo Hi tr thành dim l để nghênh đón v lang quân ca Giáo Hi, như Sách Khi Huyn nói ti đon 21 câu 2.

 

Căn cứ vào tất cả những diễn giải trên, có thể nói Biến Cố Fatima là một Dấu Chỉ Thời Đại cho thấy Dự Án Thần Linh, một dự án cứu độ Thiên Chúa muốn thực hiện vào Thời Điểm Maria, một dự án được tiết lộ tất cả trong Bí Mật Fatima, cũng là một dự án được đáp ứng bởi Sứ Điệp Fatima phản ảnh Linh Đạo Thánh Mẫu và được hiện thực nơi Thiếu Nhi Fatima.

 

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ