GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ SÁU 31/8/2007 TUẦN XXI THƯỜNG NIÊN |
? Thông Điệp Redemptoris Missio của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: Kết "Tôi thấy được rạng đông của một thời truyền giáo mới..." (92)
? Ánh Sáng Thế Gian - “Con Người Chuộng Tối Tăm Hơn Ánh Sáng” - Cuộc khủng hoảng hiện nay về văn hóa luân lý, ở tận gốc rễ của mình, là một cuộc khủng hoảng về hiểu biết bản tính của con người…
? Ánh Sáng Thế Gian - “Con Người Chuộng Tối Tăm Hơn Ánh Sáng” - Ánh Sáng Thế Gian - “Bóng Tối không át được Ánh Sáng”- Cuộc khủng hoảng hiện nay về văn hóa luân lý, ở tận gốc rễ của mình, là một cuộc khủng hoảng về hiểu biết bản tính của con người…
Thông Điệp Redemptoris Missio của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: Kết "Tôi thấy được rạng đông của một thời truyền giáo mới..." (92)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
92- Ngày hôm nay, Giáo Hội được một cơ hội, như chưa bao giờ có trước đây, dùng chứng từ và lời rao giảng của mình để mang Phúc Âm đến cho tất cả mọi dân tộc và mọi quốc gia. Tôi thấy được rạng đông của một thời truyền giáo mới, một rạng đông sẽ trở thành một ngày sống rạng ngời mang lại cả một mùa màng phì nhiêu, nếu tất cả mọi Kitô hữu, nhất là các nhà truyền giáo và các Giáo Hội trẻ, quảng đại và thánh thiện đáp ứng những mời gọi và thách đố trong thời đại của chúng ta đây.
Như các vị Tông Đồ sau khi Chúa Kitô Thăng Thiên, Giáo Hội cũng phải hợp nhau lại trên căn Thượng Lầu “cùng với Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu” (Acts 1:14), để cầu xin Thần Linh, cũng như để lấy sức lực và lòng can đảm trong việc thực thi mệnh lệnh truyền giáo. Cả chúng ta nữa, như các vị Tông Đồ, chúng ta cần phải được Thần Linh biến đổi và hướng dẫn.
Vào thời điểm sát cận Ngàn Năm thứ ba, toàn thể Giáo Hội được mời gọi sống tha thiết với mầu nhiệm của Chúa Kitô hơn nữa, bằng việc cộng tác với một lòng tri ân cảm mến vào công cuộc cứu độ. Giáo Hội làm việc này cùng với Mẹ Maria và theo gương Mẹ Maria, Mẹ của Giáo Hội và là mô phạm của Giáo Hội: Mẹ Maria là mô phạm của một thứ tình yêu mẫu tử làm cho tất cả mọi người hứng khởi cộng tác vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội trong việc tái sinh nhân loại. Thế nên, “được kiên cường bởi việc Chúa Kitô hiện diện, Giáo Hội hành trình qua thời gian, tiến về tột đỉnh của các thời đại, để nghênh đón Chúa đến. Thế nhưng, trong cuộc hành trình này... Giáo Hội tiến bước theo con đường được vạch vẽ dấu chân của Trinh Nữ Maria” (Thông Điệp Redemptoris Mater, ngày 25/3/1987, 2: AAS 79 năm 1987, 362f).
Tôi ký thác Giáo Hội, nhất là những ai đang dấn thân thực hiện mệnh lệnh truyền giáo trong thế giới hôm nay cho “vai trò trung gian của Đức Maria là vai trò hoàn toàn hướng về Chúa Kitô và hướng đến việc tỏ hiện quyền năng cứu độ của Người” (ibid. 22: loc. cit., 390). Như Chúa Kitô đã sai các Tông Đồ của Người đi nhân danh Cha và Con và Thánh Thần thế nào, để lập lại lệnh truyền này, Tôi cũng ban cho tất cả các con Phép Lành Tòa Thánh của Tôi, nhân danh Chúa Ba Ngôi Chí Thánh. Amen.
Ban hành tại Rôma, Đền Thờ Thánh Phêrô, ngày 7/12/1990, Kỷ Niệm 25 Năm Sắc Lệnh Công Đồng Ad Gentes, năm thứ 13 của Giáo Triều Tôi.
Gioan Phaolô II
(Dịch từ tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 28/1/1991)
Ánh Sáng Thế Gian - “Con Người Chuộng Tối Tăm Hơn Ánh Sáng” - Cuộc khủng hoảng hiện nay về văn hóa luân lý, ở tận gốc rễ của mình, là một cuộc khủng hoảng về hiểu biết bản tính của con người…
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Hội Nghị Dân Số Cairô diễn ra trên bình diện quốc tế năm 1994 là một trường hợp điển hình cho thấy ý hệ và xu hướng duy nhân bản của con người văn minh càng ngày càng lên đến tuyệt đỉnh nơi lịch sử hiện đại ngày nay. Ý hệ và khuynh hướng càng ngày càng duy nhân bản, hay nói cách khác, ý hệ và khuynh hướng duy nhân bản càng ngày càng hiện nguyên hình dạng của mình hơn, như thế cũng không có gì lạ và là một điều tự nhiên không thể nào không xẩy ra, một khi con người mỗi ngày một văn minh hơn, một thứ Văn Minh Bê Bối hay Be Bét (chữ bê bối hay be bét dịch theo âm của tên tháp babel, dù không thuận thanh cho lắm song cũng nói lên được tinh thần và hậu quả của việc xây tháp ấy), như thực tế cho thấy, đưa con người đến chia rẽ và đổ nát (xem Gen 11:1-9), chứ không phải một thứ “văn minh yêu thương” (thành ngữ này bắt nguồn từ Đức Thánh Cha Phaolô VI, như thành ngữ “văn hóa tử vong” bắt nguồn từ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II) cảm thông hiệp nhất của biến cố Thánh Thần Hiện Xuống (Acts 2:1-12).
Thật vậy, là người, theo tự nhiên, ai cũng muốn sống, và đã sống thì phải sống một sự sống trọn vẹn, một sự sống dồi dào. Đó là một thực tại, một thực tại hết sức hiển nhiên.
Không phải hay sao, cũng là một loài sinh vật như loài người, tức là, về hữu thể, cũng có vóc dáng (tuy khác hình thù) và khả năng sinh động (tuy khác cấp độ) như con người, song loài vật chỉ sống và vĩnh viễn sống ở mức độ bản năng, trước sau như một, chứ không tiến hóa như loài người. Đúng thế, văn minh của con người chính là dấu chứng tỏ tường nhất và là biểu hiệu hùng hồn nhất cho thấy sự sống của con người là loài "linh ư vạn vật" đã, đang và sẽ càng ngày càng trọn vẹn hơn, càng dồi dào hơn. Ở chỗ người ta không chỉ sống để ăn mà ăn để sống, và không phải chỉ sống cho mình mà còn sống với nhau cũng như cho nhau trong mối liên đới gia đình và xã hội nữa. Và điều chứng tỏ con người đã và đang thực sự đạt đến tầm vóc trưởng thành và trọn vẹn nhất của mình là ở chỗ, họ chẳng những đã ý thức được quyền làm người bất khả vi phạm của họ, mà còn tranh đấu để đòi hỏi quyền làm người theo bản tính của mình, nhất là dấn thân trong việc bảo vệ quyền làm người của nhau bị vi phạm nữa.
Tuy nhiên, thực tế hết sức phũ phàng cũng cho thấy, chính khi con người đạt tới tầm mức trưởng thành của mình, ở chỗ nhận biết và đòi hưởng quyền làm người xứng đáng với thân phận của mình như thế, họ lại bị khủng hoảng hơn bao giờ hết. Nhìn vào thế giới văn minh hầu như tuyệt đỉnh ngày nay, (so với thời "xưa", 10 năm trước đây, thời mới từ đầu thập niên 1990, nhất là thời 40 năm trước đây, từ thập niên 1960, đặc biệt là thời hơn 50 năm trước đây, từ sau Thế Chiến Thứ Nhất vào cuối thập niên 1940, chứ chưa nói gì đến từ thời Cách Mạng Âu Châu vào thế kỷ 18 và 19), người ta thấy hiện lên một cách hết sức rõ ràng hình ảnh của một thế giới, trong đó, có một số rất đông (các nước đang tiến) đang hồ hởi tiến lên chóp đỉnh, cũng như một số không ít (các nước tân tiến Âu Châu và Bắc Mỹ) đã lên tới và đang reo hò ở trên một chóp đỉnh... Thế nhưng, cũng từ chính chóp đỉnh nhân quyền ấy, người ta đồng thời cũng thấy cơ cấu lập pháp, hành pháp và tư pháp của họ chẳng những reo hò mừng rỡ mà còn la lối nhau, quát tháo nhau, vì những va chạm quyền làm người, khiến cho những con người được “may phước” sống trong xã hội “đi giầy tây” văn minh song lại là một xã hội đang “đóng khố” về luân lý ấy quay ra giành giật nhau, xô lấn nhau, “ly dị” nhau, đến nỗi tình trạng “mạnh được yếu thua” (người khỏe được ‘quyền’ giết người bệnh), “cá lớn nuốt cá bé” (thai mẫu được ‘quyền’ giết thai nhi), “cá mè một lứa” (đồng tính được ‘quyền’ luyến ái và lập gia đình với nhau), của một thứ “luật rừng” còn tệ hơn cả thời con người tiền sử “ăn lông ở lỗ” ngày xưa, đã và đang hết sức phũ phàng và trắng trợn diễn tiến trên tháp đỉnh của lịch sử văn minh loài người ngày nay.
“’Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến và xin canh tân bộ mặt trái đất’. Câu đáp ca của ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống này có một ý nghĩa rất sâu xa, không phải vì lời khẩn nguyện này chứa đựng một niềm xác tín là chỉ có Thánh Thần Chúa mới là nguyên lý tối cao và là tác nhân chủ động trong việc ‘canh tân bộ mặt trái đất’ nhờ việc Giáo Hội truyền bá phúc âm hóa, mà còn vì câu này nói lên một ý nghĩa sâu xa huyền diệu của đối tượng cần phải được Thánh Thần Chúa ‘canh tân’, đó là ‘bộ mặt trái đất’ nữa.
“Phải chăng ‘Bộ mặt trái đất’ là chính văn hóa con người?
“Đúng thế. Nếu ‘từ khởi nguyên Thiên Chúa bắt đầu dựng nên trời đất’ (Gen.1:1) thì có thể hiểu là từ ban đầu ‘Thiên Chúa là Cha toàn năng’ đã dựng nên ‘muôn vật hữu hình và vô hình’, như tín điều đầu tiên của Kinh Tin Kính được Kitô hữu chúng ta vẫn tuyên xưng từ trước đến nay. Nếu ‘trời’ là biểu hiệu cho ‘vật vô hình’ thì ‘đất’ là biểu hiệu cho ‘vật hữu hình’.
“Tuy nhiên, trong ‘muôn vật hữu hình’ được dựng nên này, chỉ có tạo vật ‘được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa’ (Gen.1:27) mới thật sự là và xứng đáng là ‘bộ mặt trái đất’ mà thôi. Con người là ‘bộ mặt trái đất’, tức là đại diện, là thay mặt cho ‘muôn vật hữu hình’ trước nhan Thiên Chúa, Đấng đã đặt họ ‘làm chủ trái đất’ (Gen.1:28). Bởi vì, theo phẩm vị và bản tính bẩm sinh của mình, họ được Đấng Tạo Hóa ban cho khả năng và quyền năng ‘nhân linh ư vạn vật’: khả năng ‘nhân linh ư vạn vật’ của con người là luận biết và quyền năng ‘nhân linh ư vạn vật’ của con người là tự do.
“Thực tế cho thấy, chính nhờ khả năng và quyền năng ‘nhân linh ư vạn vật’ này, con người đã thực sự là một tác nhân làm thay đổi hoàn toàn ‘bộ mặt trái đất’, bằng đời sống càng ngày càng văn minh của mình, với những phát minh mỗi ngày một tân tiến khôn lường và tiện nghi hết sức, làm nên biết bao nhiêu là kỳ công nhân tạo, đến nỗi, chính lịch sử cũng không ghi nhận kịp và tiên đoán nổi mức độ văn minh đang gia tốc phát triển này sẽ đi về đâu, thậm chí, đa số con người ngày nay cũng không thể nào ngờ được, không thể nào hưởng hết, không thể nào biết hết, không thể nào sử dụng thông thạo như một chuyên viên nếu không được huấn luyện đặc biệt v.v.
“’Bộ mặt trái đất’ chẳng những được văn minh loài người trang điểm diễm tuyệt đến chói ngời bề ngoài như thế, nó còn được con người ‘linh ư vạn vật’ biến đổi sâu xa bằng chính văn hóa của họ nữa, để ‘bộ mặt trái đất’ cũng được vinh dự mang bộ mặt nhân bản, không phải như một chiếc mặt nạ giả tạo tạm bợ, mà là một bộ mặt nhập thể, tương tự như trường hợp con người tạo vật trần gian được thực sự mang dung nhan của Thiên Chúa nơi ‘Lời đã hóa thành nhục thể’ (Jn.1:14).
“Thật ra, văn minh cũng là một hình thức văn hóa của con người, song nó không phải là chính văn hóa và là tất cả văn hóa, vì văn hóa là tất cả những gì con người sống động theo quan niệm làm người của mình ở một thời điểm và địa điểm nào đó; nó bao gồm cũng như được diễn tả hay biểu lộ ở nhiều và qua nhiều phương diện khác nhau, như phương diện xã hội (nhân sinh và tập tục), chính trị (thể chế và luật lệ), văn học (văn chương và khoa học), nghệ thuật (cảm nhận và biểu hiện), kỹ thuật (phát minh và tiện nghi), gia đình (yêu thương và sự sống), giáo dục (phẩm giá và nhân cách), kinh tế (lao động và sản xuất), truyền thông (liên lạc và giao tiếp). “Đúng thế, tuy không phải là yếu tố ‘là người’ của con người, như bản tính tự nhiên tạo nên hữu thể con người, văn hóa cũng là bộ mặt của con người ‘linh ư vạn vật’, tức là tất cả những gì ‘làm người’ của con người. Lịch sử cho thấy, chỉ con người mới có tiến bộ, mới tiến từ chỗ lạc hậu đến chỗ văn minh, từ chỗ ăn lông ở lỗ đến chỗ ăn sang mặc đẹp, từ chỗ sống theo luật rừng mạnh được yếu thua đến chỗ công bằng bác ái vị tha, từ chỗ mê tín dị đoan đến chỗ khoa học thực nghiệm, từ chỗ đa thê lắm thiếp đến chỗ một vợ một chồng, từ chỗ quân chủ chuyên chế đến chỗ dân chủ cộng hòa, từ chỗ cha mẹ đặt đâu con ngồi đó đến chỗ chọn mặt gửi vàng, từ chỗ trọng nam khinh nữ đến chỗ nam nữ bình quyền, từ chỗ cầy sâu cuốc bẫm đến chỗ máy móc gia tăng năng xuất, từ chỗ làng mạc quê mùa mộc mạc đến chỗ thành thị phồn hoa đô hội, từ chỗ năm châu bốn bể xa cách đến chỗ gần gũi nhau hơn như cùng nhau sống trong một khu làng hoàn vũ (global village) v.v.
“Thế nhưng, tất cả những tiến bộ về mọi mặt của con người đó, từ thời tiền sử và thượng cổ đến thời khoa học kỹ thuật tối tân tiến trước ngưỡng cửa của ngàn năm thứ hai Kitô giáo hiện nay, con người đã thực sự tỏ ra mình càng ‘làm người’, đúng như bản chất của văn hóa đích thực, hay chưa?
“Xét về mặt nổi, việc tiến bộ của con người trong việc càng ngày càng ‘làm người’ hơn có thể bắt đầu từ cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16, với phong trào thám hiểm thế giới, một phong trào chẳng những đã giúp con người khám phá ra toàn diện ‘bộ mặt trái đất’ của mình ở khắp nơi trên thế giới, mà còn đem văn minh Âu Châu, trong đó có cả văn hóa Kitô giáo, đi trang điểm ‘bộ mặt trái đất’. Việc tiến bộ trong việc ‘làm người’ của con người kể từ phong trào thám hiểm thế giới này có thể được tóm trong chữ ‘quyền’ và được diễn tả bằng bộ ba danh từ kép: quyền lực hay quyền năng (power), quyền hành hay quyền bính (authority) và quyền lợi hay quyền hạn (right).
“Quyền lực hay quyền năng là tất cả những gì con người có thể thực hiện theo khả năng sinh hoạt tự nhiên của mình, đặc biệt về cả phương diện khoa học lẫn kỹ thuật: về khoa học, được mở màn từ năm 1512 khi Copernicus công bố thực tại trái đất và các hành tinh quay chung quanh mặt trời, và về kỹ thuật, được bắt đầu từ năm 1698 khi Thomas Suvery sản xuất máy chạy bằng hơi nước.
“Quyền hành hay quyền bính là tất cả những gì con người có thể hành sự trong trách nhiệm lãnh đạo của mình, đặc biệt về phương diện chính trị, được mở màn với chế độ dân chủ bằng cuộc cách mạng Pháp 1789, và với chế độ xã hội chủ nghĩa bằng cuộc cách mạng Nga năm 1917.
“Quyền lợi hay quyền hạn là tất cả những gì con người có thể thừa hưởng theo bản tính bẩm sinh là người của mình, đặc biệt về phương diện xã hội, được đánh dấu bằng cuộc đấu tranh nhân quyền đầu tiên ở Hoa Kỳ chống lại chế độ thuộc địa để giành độc lập vào năm 1776, nhất là đã đạt đến tột đỉnh của nó nơi bản Hiến Chương Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc sau Thế Chiến Thứ Hai, vào cuối năm 1948.
“Thế nhưng, thực tế cho thấy, càng tân tiến con người càng đi đến chỗ bị khủng hoảng về quyền lực, quyền hành và quyền hạn của mình, qua thái độ con người tỏ ra tự phụ, tự mãn và tự nhiên thái quá.
“Trước hết, con người tân tiến bị khủng hoảng ở chỗ tỏ ra tự phụ về quyền lực nơi các khám phá khoa học và phát minh kỹ thuật của mình, khi gạt Đấng Tạo Hóa ra ngoài bằng chủ nghĩa duy lý (rationalism/idealism) hay duy vật (materialism/communism).
“Sau nữa, con người tân tiến bị khủng hoảng ở chỗ tỏ ra tự mãn khi lấy quyền hành chính trị để giải quyết mọi sự như ý riêng của mình theo trào lưu tục hóa (secularism) và thực dụng (consequentialism), bằng cách ban bố các khoản luật phi nhân bản phản luân thường đạo lý làm người.
“Sau hết, con người tân tiến bị khủng hoảng ở chỗ tỏ ra chỉ biết sống tự nhiên theo khuynh hướng hưởng thụ (consumerism) và buông thả (nihilism), bất xứng với phẩm vị làm người.
“Như thế, thực tế hiện lên cho thấy hết sức rõ ràng ‘bộ mặt trái đất’ ở vào thời điểm Mùa Đông Lịch Sử ngay trước ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba Kitô giáo này đã hoàn toàn bị méo dạng, đã thực sự bị biến dạng, thậm chí đã trở thành quái dạng nữa là đàng khác.
“’Bộ mặt trái đất’ hiện nay không méo dạng là gì, với chủ thuyết duy nhân bản (secular humanism), một chủ trương tôn sùng con người hơn cả Đấng đã dựng nên con người? ‘Bộ mặt trái đất’ hiện nay cũng không biến dạng là gì, với khuynh hướng luân lý tương đối (moral/ethical relativism), một khuynh hướng biến dữ thành quyền lợi theo chủ quan phi chân lý của mình?? ‘Bộ mặt trái đất’ hiện nay thậm chí còn trở thành quái dạng nữa, với những luật lệ chẳng những phi nhân bản mà còn phản luân thường đạo lý làm người, như luật cho phép phá thai, hợp thức hôn nhân đồng tính luyến ái v.v.???
“Để có thể nhìn thẳng và nhìn kỹ ‘bộ mặt trái đất’ đã bị méo dạng, biến dạng và quái dạng này, chúng ta hãy lắng nghe Vị Chủ Chiên Tối Cao của Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ đã chia sẻ nhận định của một người nhìn từ trên cao xuống như ngài, (tất nhiên sẽ là cái nhìn tổng quát, rõ hơn và chính xác hơn những nhận định của người ở dưới và ở trong cuộc là cái nhìn dễ bị chi phối lệch lạc của con người chúng ta). Cái nhìn của ngài cho chúng ta thấy căn nguyên sâu xa của một thứ văn hóa ngài đã đặt tên cho nó là ‘văn hóa tử vong’...
“Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vào ngày 27-6-1998, đã chia sẻ với các vị giám mục Hoa Kỳ sang Rôma đợt 9 dịp ad limina của các ngài, như sau:
· Chúng ta phải nhận diện cuộc khủng hoảng văn hóa về luân lý này như thế nào đây? Chúng ta có thể thoáng nhìn thấy giai đoạn đầu tiên của nó theo những gì Đức Hồng Y Gioan Henry Newman viết qua bức Thư gửi cho Duke Norfolk: ‘Trong thế kỷ này, (lương tâm) đã bị thay thế bởi cái giả tạo, cái giả tạo chưa hề có ở 18 thế kỷ trước đó và nếu có chăng nữa cũng không thể nào lẫn lộn với nó. Đó là quyền tự ý (self-will). Những gì xẩy ra đúng ở thế kỷ 19 của đức hồng y Newman thì càng đúng hơn ở lúc này đây. Những quyền lực mạnh mẽ về luân lý nhấn mạnh rằng, các thứ quyền của lương tâm bị vi phạm bởi chính ý tưởng là có một thứ luật luân lý được ghi khắc nơi nhân tính của chúng ta, một thứ luật luân lý mà chúng ta có thể biết được bằng việc phản tỉnh về bản tính của mình cũng như về các việc làm của mình, và là một thứ luật áp đặt một số trách nhiệm trên chúng ta, vì chúng ta công nhận chúng có tính cách thắt buộc và chân thực phổ quát. Điều này thường được nói là một việc hủy hoại tự do. Thế nhưng ý niệm về ‘tự do’ thực sự ở đây là gì? Phải chăng tự do chỉ là việc làm theo ý mình – ‘tôi phải được phép làm điều này vì tôi muốn làm như vậy’? Hay phải chăng tự do là quyền làm những gì tôi phải làm, phải tự nguyện liên kết với điều tốt lành và chân thực (xem Bài Giảng tại Baltimore ngày 8-12-1995)?
Quan niệm về tự do như là vấn đề tự quyết theo cá nhân hấp dẫn con người; được mớm cho bởi giới trí thức, bởi phương tiện truyền thông, bởi ngành lập pháp và tư pháp, quan niệm tự do này trở nên một lực lượng văn hóa mãnh liệt. Tuy nhiên, cuối cùng nó hủy diệt sự thiện riêng tư của cá nhân cũng như hủy diệt công ích của xã hội. Tự-do-là-tự-quyết, bởi việc nhấn mạnh một chiều đến ý muốn tự quyết của cá nhân như là nguyên lý cấu tạo duy nhất của đời sống công cộng, làm phân ly các mối giây ràng buộc giữa nam và nữ, giữa cha mẹ và con cái, giữa người mạnh và kẻ yếu, giữa đa số và thiểu số. Kết qủa gây ra là việc đổ vỡ nơi xã hội dân sự, và là một cuộc sống công cộng chỉ có các diễn viên còn lại đó là việc tự quyết của cá nhân và chính quyền. Như thế kỷ 20 đã dạy cho chúng ta thấy, đóù là một liều thuốc mạnh cho bạo quyền bạo lực.
Cuộc khủng hoảng hiện nay về văn hóa luân lý, ở tận gốc rễ của mình, là một cuộc khủng hoảng về hiểu biết bản tính của con người…
(xin xem tiếp dưới đây)
Ánh Sáng Thế Gian - “Bóng Tối không át được Ánh Sáng”- Cuộc khủng hoảng hiện nay về văn hóa luân lý, ở tận gốc rễ của mình, là một cuộc khủng hoảng về hiểu biết bản tính của con người…
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Chiều hướng “con người chuộng tối tăm hơn ánh sáng” (Jn 3:19), có thể nói đã hiện diện nơi con người ngay trước cả nguyên tội, cho đến nay, càng văn minh chiều hướng này mới càng có môi trường thuận lợi để hiện nguyên hình dạng “vô thần” của mình thôi, đúng hơn, hiện nguyên hình tượng của một thứ “duy nhân vô thần”, phản ảnh mộng ước ban đầu của nữ nguyên tổ loài người (xem Gen 3:1-6). Hiện tượng “duy nhân vô thần” này đã được Christopher Dawson, một sử gia Công giáo Anh quốc nói đến từ năm 1938: “Một xã hội mất đạo nghĩa không sớm thì muộn cũng sẽ thành một xã hội mất văn hóa”. Sau đây là những nhận định của ông từ năm 1932 (được tờ Nguyệt San Công Giáo nổi tiếng nhất thế giới là Inside The Vatican 12/1999, trang 53-55 trích lại).
· “Đa số con người, bất kể theo chủ trương chính trị nào, đều sẵn lòng chấp nhận khoa học, chế độ dân chủ và chủ nghĩa nhân bản như là những yếu tố nơi nền văn minh tân tiến, thế nhưng họ lại khó lòng chấp nhận tầm quan trọng của đạo giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng. Họ cho Kitô giáo ra rìa cuộc sống tân tiến và là những gì không nhất trí với kiến thức tân kỳ. Theo họ, cuộc sống tân tiến đối diện với sự kiện, trong khi đó Kitô giáo bàn về những tín điều thiếu minh chứng và bất khả thấu. Con người có thể trục lợi nơi các niềm tin tưởng về đạo nghĩa, bao lâu họ coi chúng như là một thứ xa xỉ phẩm riêng tư của mình; thế nhưng những niềm tin tưởng này không có trách nhiệm gì với đời sống xã hội cả, và xã hội dù không có chúng cũng vẫn có thể sinh hoạt một cách rất ngon lành. Chưa hết, ngoài xu hướng mập mờ đối với đạo nghĩa được coi như một vấn đề ngoài lề như thế, còn có một cơ cấu tư tưởng mạnh mẽ chủ động tỏ ra hận thù Kitô giáo và coi việc hủy diệt tôn giáo là việc tuyệt đối cần phải làm cho lợi ích của việc tiến triển nền văn hóa tân tiến. Điển hình nhất của thái độ này là ở Nga Sô, nơi mà lần đầu tiên trong lịch sử loài người, chúng ta chứng kiến thấy được cả một chính quyền to lớn, hay là cả một đế quốc hoàn vũ, chính thức chối bỏ bất cứ một chi tiết nào về đạo giáo, thay vào đó lại chấp nhận một chính sách về xã hội cũng như giáo dục theo chiều hướng vô thần ác nghiệt.
“Thế nhưng, khuynh hướng ấy không phải chỉ hạn hẹp ở Nga hay nơi những người theo cộng sản. Cả ở Âu Châu và Mỹ Châu cũng có những trào lưu phản đạo, trong đó có cả nhiều cây viết tân thời chuyên nghiệp nhất của chúng ta cùng với một ít con người thuộc ngành khoa học. Trào lưu này chẳng những tìm cách tiêu diệt đạo giáo mà còn tìm cách cách mạng cả luân thường và hạ giá các lý tưởng đạo lý đã từng chi phối xã hội Tây phương cho tới nay.
“Theo tôi thì đây là một trong những đặc tính nổi bật nhất của tình trạng hiện nay. Nếu Âu châu loại trừ Kitô giáo thì nó cũng phải loại trừ cả bộ luật luân lý của mình nữa. Ngược lại, khuynh hướng tân tiến muốn loại trừ tính chất luân lý truyền thống sẽ càng tăng sức cho cuộc nổi loạn về tri thức phản chống lại với niềm tin về đạo nghĩa.
“Thoạt thấy thì dường như những tác lực làm đổi thay trong thế giới tân tiến này thực sự tỏ ra thù ghét đạo giáo, và chúng ta đang tiến nhanh đến một tình trạng văn minh hoàn toàn bị tục hóa. Thế nhưng không dễ gì loại trừ được đạo nghĩa như chúng ta tưởng đâu. Cá nhân có thể dễ dàng chiều theo thái độ tiêu cực của chủ nghĩa lập luận hoài nghi. Song nếu toàn khối xã hội loại trừ đi tất cả các niềm tin tốt lành, nó sẽ không thể nào chống cự lại được những hậu quả tan nát của vị kỷ và tư ích. Hết mọi xã hội đều cậy nhờ vào phương tiện cứu giúp cuối cùng là việc nhận thức được những nguyên tắc chung cũng như những lý tưởng chung, và nếu nó không kêu gọi lòng trung thành nơi các phần tử của mình về vấn đề luân lý cũng như tâm linh thì nó chắc chắn không thể nào không tan tành sụp đổ.
“Trong quá khứ, xã hội đã có được một nguyên tắc liên kết trong các niềm tin về đạo giáo, đạo giáo thực sự là tâm điểm sống còn của cả cơ cấu xã hội. Nếu một quốc gia chưa có căn bản chung về đạo giáo thì nó nỗ lực tạo nên một cách nhân tạo, như việc chính thức tôn thờ Cê-Sa đã trở thành một quốc giáo của Đế quốc Rôma vậy. Bởi thế, ngày nay, nếu quốc gia không còn thể nào nại đến các nguyên tắc luân lý cổ xưa là những gì thuộc về truyền thông Kitô giáo, thì nó buộc phải tạo nên một niềm tin chính thức mới cũng như các nguyên tắc luân lý mới là những gì ràng buộc thành phần công dân của mình.
“Việc cộng sản loại trừ tôn giáo và luân lý Kitô giáo đã không dẫn đến việc bỏ bê kiểm soát xã hội cũng như dẫn đến việc mặc cho tự do buông thả về ý nghĩ liên quan đến các vấn đề tin tưởng. Trái lại, nó đã gắn liền với tình trạng tăng cường việc kiểm soát của xã hội đối với các niềm tin tưởng và cuộc sống tâm linh của mỗi người công dân. Thật vậy, điều những người Cộng sản đã thực hiện không phải là loại trừ tôn giáo mà chỉ là thay thế niềm tin chính thức cổ truyền bằng đạo giáo Cộng sản mới mẻ và ngặt nghèo hơn. Đảng Cộng Sản là một môn phái đạo giáo hiện hữu để truyền bá đức tin chân thật. Đảng này có Tòa Tra Vấn để theo dõi và trừng trị lạc giáo. Nó sử dụng vũ khí ra vạ tuyệt thông đối với những phần tử bội giáo hay bất chính giáo. Nó lấy các bản viết của Mác làm thánh kính vô ngộ của mình, và nó tôn kính Lêninh nếu không phải là một vị Thiên Chúa thì cũng là một vị cứu thế và là một vị tiên tri…
“Lúc mà xã hội đòi buộc các phần tử của mình phải hoàn toàn trung thành với mình là lúc nó mặc lấy một quyền bính mang tính cách tôn giáo. Vì con người chính yếu là loài tâm linh nên bất cứ một quyền lực nào đòi kiểm soát toàn thể con người đều buộc phải biến đổi những mục tiêu tương đối và riêng biệt để tiến đến lãnh vực của những giá trị tuyệt đối thuộc lãnh giới tôn giáo. Ngược lại, nếu chính quyền đồng ý giới hạn các mục tiêu của mình ở lãnh vực chính trị, thì chắc chắn nó đã công nhận lý tưởng của nó chỉ là một lý tưởng tương đối và nó phải chấp nhận tính cách tối thượng của các lý tưởng linh thiêng vượt ra ngoài tầm tay của nó.
“Đây là một giải pháp đã được xã hội Tây phương chọn lựa cho đến nay, song là một giải pháp chất chứa việc hiện hữu của một quyền linh độc lập, dù quyền linh này là một niềm tin về đạo giáo hay là một lý tưởng luân lý chung. Nếu vắng bóng những điều này thì chính phủ chắc chắn sẽ nắm quyền hành tuyệt đối hầu như thuộc về lãnh vực tôn giáo vậy, mặc dù không nhất thiết phải cùng một đường lối như chính quyền Cộng sản đã thực hiện. Chúng ta có thể dễ nhận thấy một kiểu cách tục hóa khác hợp với các nhu cầu của xã hội tư bản: thật vậy, chúng ta đang chứng kiến việc nổi dậy của một cái gì đó theo loại này ở Hiệp Chủng quốc, cho dù nó mới chỉ có mầu sắc của những gì tồn tại nơi truyền thống Cải Cách cổ xưa.
"Cũng thế, ở Tây Âu tất cả
khuynh hướng này hình như đang theo chiều hướng phát triển của một mẫu thức
văn hóa hoàn toàn trần tục, một mẫu thức làm cho toàn thể sự sống bị lệ
thuộc vào các mục đích thực tiễn và kinh tế, không còn chỗ cho sinh hoạt
thiêng liêng chuyên biệt nữa. Tuy nhiên một thứ văn hóa không làm cho nhu
cầu của bản tính thiêng liêng con người thỏa mãn không thể nào vĩnh viễn
thành công tốt đẹp được… Quí bạn có thể cung cấp cho con người thực phẩm,
giải trí, vui chơi cùng với các hoàn cảnh tốt lành song họ vẫn không thỏa
mãn. Quí bạn có thể từ chối họ tất cả những thứ ấy, họ sẽ không phàn nàn
than trách bao lâu họ cảm thấy rằng họ sống chết cho một cái gì đó.
“Cho dù chúng ta có coi con
người như là một con vật đi nữa, chúng ta cũng phải công nhận họ là một loại
thú vật có một không hai biết hy sinh thiện ích của mình cho lý tưởng – một
loài vật có khả năng tử đạo. Nhà cầm quyền thấy được điều này, nên lên tiếng
kêu gọi con người bình thường hãy bỏ nhà cửa và gia đình họ để ra đi chết
một cách đau thương trong hầm hố cho quê hương đất nước của mình; và con
người bình thường ấy cũng không ngần ngại ra đi. Người Cộng sản biết được
điều này, nên họ kêu gọi thợ thuyền làm việc vất vả hơn và ăn uống ít hơn
cho chương trình năm năm và cho việc cách mạng thế giới. Thế nhưng, đến khi
người lính chinh chiến trở về, cũng là lúc Cộng sản đã hiện thực được Lý
tưởng của mình, họ đành phải cảm nhận cái không tương xứng giữa những hy
sinh của họ với những thành quả do họ gặt hái được.
“Thế nên chính vì cái tương
khắc nồng cốt của chủ nghĩa duy vật này, là những gì vừa đề cao những thành
quả của việc con người gắt hái được đồng thời lại vừa chối bỏ thực tại của
các quyền lực thiêng liêng làm cho những gặt hái này được khả dĩ. Tất cả
những thành đạt cao cả nhất của tinh thần con người, nơi cấp trật tư tưởng
hoặc tác hành, hay nơi bản chất về luân lý, đều được dựa vào một tuyệt đối
thể linh thiêng, chứ không thể nào lại xẩy ra nơi một thế giới thuần túy về
kinh tế hay ngay cả nơi các giá trị thuần nhân bản. Bản tính của con người
có thể nhận biết được tính cách cao cả riêng của mình và nhận ra những khả
năng cao hơn nữa của mình chỉ ở trong chiều hướng của cảm nghiệm về đạo lý
cũng như của những nguyên tắc thiêng liêng tuyết đối mà thôi.
“Thế giới loài người hiện
hữu trong và cho một thứ thế giới thực tại thiêng liêng vĩnh cửu. Cái trực
giác căn bản này nằm ở cốt lõi của tất cả mọi tôn giáo, cho dù là một thứ
tôn giáo sơ khai nhất. Có một hôm tôi thấy được một dẫn chứng rất hay về
điều này, hoàn toàn bất ngờ, nơi một đoạn tiểu thuyết của Edgar Wallace, một
đoạn tiểu thuyết ông đang diễn tả về một cuộc bàn bạc liên quan đến tôn giáo.
giữa một viên chức da trắng và một vị y sĩ Tây Phi. Viên chức da trắng nói
‘Trên thế gian này có những vị thần linh mà anh cứ luôn luôn nói tới hay
chăng?’, và con người quê mùa đáp lại: ‘Ôi con người, hãy biết rằng các Vị
Thần Linh không có ở trong thế gian này đâu; mà chính là thế gian này ở
trong các Vị Thần Linh đó’.
“Trong thế giới văn minh tân
tiến của chúng ta đây thì sự thật ấy không còn minh tường nữa; nó đã trở nên
lu mờ và huyền ảo. Tuy nhiên, nó không thể nào bị coi thường mà có thể tránh
thoát được hậu hoạn. Thứ văn minh chối bỏ Thiên Chúa là chối bỏ nền tảng của
mình. Vì vinh quang của con người là phản ánh mờ mờ vinh quang của Thiên
Chúa, và một khi vinh quang của Thiên Chúa bị chối bỏ thì vinh quang của con
người cũng biến mất.
“Tóm lại, tình trạng mất đi
cảm quan về đạo nghĩa, được chứng tỏ qua việc thế giới tân tiến khô đạo hay
hận thù đối với Kitô giáo, là một trong những điểm yếu nơi nền văn minh của
chúng ta, bao gồm cả mối nguy hiểm thực sự đối với tính chất sống động
thiêng liêng của nền văn minh này, cũng như đối với tính cách vững chắc của
xã hội. Tuy nhiên, nếu những nhu cầu thiêng liêng của con người không được
công nhận một cách mạnh mẽ, và nếu chúng không được thỏa nguyện bằng tôn
giáo thì chúng sẽ tìm kiếm bù đắp ở nơi khác, thường là ở những sinh hoạt
phá hoại và chống lại xã hội… Nền văn minh không có chỗ cho đạo giáo là một
thứ văn hóa què quặt, mất gốc thiêng liêng của mình, phải chịu hậu quả cằn
cỗi và thui chột”.
Theo Tông Hiến Pastor Bonus
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II về công việc của Tòa Thánh Rôma, ban hành
ngày 28-06-88, trong đó, ở khoản 141.3 có nói đến “nỗ lực làm cho các
quyền lợi của gia đình được công nhận và bênh vực trong sinh hoạt xã hội và
chính trị, cũng như bảo trì và phối kết những sáng kiến bảo vệ sự sống con
người từ lúc thụ thai và yêu chuộng trách nhiệm sinh sản”, Hội Đồng Giáo
Hoàng về Gia Đình đã tổ chức những cuộc họp quốc tế với sự tham dự của những
nhà lập pháp và những chính trị gia thế giới, như những lần sau đây:
Cuộc Họp Quốc Tế Thứ Nhất của
Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập Pháp ở Âu Châu diễn ra tại Varese, Nước
Ý, ngày 8-10/3/1993, về “Các Quyền Lợi của Gia Đình trước Ngưỡng Cửa của
Ngàn Năm Thứ Ba”, đề tài này cũng là đề tài cho Cuộc Họp Thứ Nhất của
Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập Pháp ở Mỹ Châu, diễn ra tại Rio de
Janeiro ngày 28-31/8/1993.
Cuộc Họp Quốc Tế Thứ Hai của
Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập Pháp ở Mỹ Châu diễn ra tại Mexico City
ngày 6-8/6/1996 về “Phẩm Giá của Gia Đình và Sự Sống trong Lãnh Vực Chính
Trị và Ngành Lập Pháp ở Mỹ Châu theo Chiều Hướng của Thông Điệp Phúc Âm Sự
Sống”, và Cuộc Họp Quốc Tế Thứ Hai của Những Chính Trị Gia và Các Nhà
Lập Pháp ở Âu Châu diễn ra tại Vatican ngày 22-24/10/1998 về “Mối Liên Hệ
giữa Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền Năm 1948 và Hiến Chương Nhân Quyền
về Gia Đình Năm 1983 của Tòa Thánh Rôma”.
Sau đây là nguyên văn những
nhận định của Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập Pháp ở Mỹ Châu, cũng như ở
Âu Châu, trong Cuộc Họp Quốc Tế Lần Hai, về não trạng của con người ngày nay
đối với cơ cấu gia đình cùng giá trị của sự sống con người.
Những nhận định của Cuộc
Họp Quốc Tế Lần Hai của Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập Pháp ở Mỹ Châu.
“Bất chấp tất cả mọi biến động
lung tung xẩy ra nơi địa lục to lớn của chúng ta, một thực tại vẫn còn đó ở
ngay tâm điểm của mọi quốc gia, đó là gia đình, một tế bào căn bản, nguyên
khởi và sống còn của xã hội. Trong đời sống gia đình làm nên bởi hôn nhân,
sự sống con người đã được thụ thai, sinh nở và nuôi dưỡng. Vì gia đình là
cung thánh của sự sống, do đó, những vấn nạn nghiêm trọng liên quan đến sự
sống của con người, như phá thai, trợ tử cũng như các mối đe đọa và các cuộc
tấn công sự sống không thể là những vấn nạn chẳng có liên quan gì tới gia
đình. Vì gia đình là yếu tố chính yếu tiên khởi của xã hội mà những qui chế
về kinh tế và xã hội phải góp phần xây dựng gia đình và phải làm cho gia
đình thêm vững chắc.
“Ngày nay, chúng ta được báo
động trước tình trạng sự sống của con người và gia đình đang bị tấn công
trong tất cả mọi xứ sở của chúng ta. Bởi thế, họp nhau lại tại Thành Phố Mễ
Tây Cơ này, chúng tôi muốn gửi đến các chính trị gia và các nhà lập luật
đồng nghiệp lời kêu gọi của chúng tôi đây.
“Vào giây phút này chúng tôi
muốn phác tả cho thấy những đặc tính chính của cuộc khủng hoảng...
Cuộc Khủng Hoảng
“Vấn đề dân số
xẩy ra theo chiều hướng khác nhau tại các quốc gia. Việc di dân tăng phát đã
gây ra những thách đố khác nhau. Tiến trình của việc làm giảm bớt và nắm
vững tình trạng tăng nhân số, được các chuyên gia coi như là vấn đề
chuyển tiếp về dân số, cũng đang được tiến triển tốt đẹp nơi nhiều
vùng đất của chúng ta. Tuy nhiên, bởi hiểu lầm về những dữ kiện dân số, tân
ý hệ Malthusian đã hào hứng phác họa ra các qui chế kiểm soát dân số tại rất
nhiều quốc gia của chúng ta, qua việc ngừa thai, chặn thai, thậm chí phá
thai. Được các quốc gia giầu có nâng đỡ, các tác nhân thuộc ý hệ hủy hoại và
lầm lạc này đã trở thành những tổ chức quốc tế giầu tiền lắm của dấn
thân vào việc, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi là, ‘âm mưu chống lại
sự sống’ (Thông
Điệp Sự Sống Con Người, đoạn 17).
Vì họ mâu thuẫn với quyền lợi của dân chúng mà các tổ chức quốc tế phải nhắm
vào việc phục vụ công ích phổ quát và phải tránh những hoạt động không xứng
hợp với sứ vụ nguyên thủy của mình.
“Trợ tử
cũng vào
hùa với phá thai trong việc khinh thường sự sống. Ở Bắc Mỹ Châu,
những nỗ lực sử dụng việc trợ tử đang đe dọa mạng sống của hằng triệu con
người không có khả năng tự vệ, nhất là thành phần già yếu và tật nguyền,
những người có quyền được yêu thương và chăm sóc trong gia đình.
“Chính luật lệ
là nguyên tắc của quyền
lợi cũng đang bị bại hoại. Ở đằng sau những cuộc tấn công hủy diệt sự sống,
chúng ta thấy được chủ nghĩa pháp lý tích cực và duy lợi, qua việc hạ bệ
quyền sống vốn có từ đầu xuống theo ý muốn tuyệt đối của các nhà lập pháp,
chuyên viên pháp luật hay vị lãnh thủ quốc gia. Gắn liền với những lực lượng
này là các hình thức tàn nhẫn của chủ nghĩa tư bản (x
Thông Điệp Bách Niên, đoạn 33)
cùng với chủ nghĩa cá nhân và hưởng thụ, làm suy giảm, thậm chí hủy diệt đi
cả giá trị lẫn trách nhiệm của dục tính, hôn nhân và đời sống gia đình. Như
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhận định, những lực lượng như vậy đang soi
mòn đến tận gốc rễ của nền dân chủ đích thực (x.
Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống, đoạn 20).
“Phương tiện truyền thông
xã hội thường bị
lạm dụng để cổ võ ‘nền văn hóa tử vong’ cũng như cổ võ quan niệm duy vật và
duy lạc của con người, phản khắc với các giá trị của hôn nhân và gia đình.
“Qui chế về kinh tế của
các quốc gia chúng ta
thường không thiên về gia đình.
Phụ nữ bị buộc phải làm việc ngoài nhà và không được nâng đỡ để thực hiện sứ
vụ làm mẹ của họ. Ở một số quốc gia, những nạn xã hội như tình trạng gia
đình bần cùng túng thiếu, cảnh nhiều nhà chỉ có một cha hay một mẹ, tình
trạng thiếu niên bê tha, nghiện hút và tội ác bạo lực trở nên tệ hại bởi các
chương trình an sinh thất sách. Ở một số quốc gia khác lại thiếu những khoản
an sinh đầy đủ khiến cho các gia đình nghèo phải sống trong một tình trạng
rất thiếu kém và thê thảm.
“Các quyền căn bản của
cha mẹ về vấn đề giáo dục
không luôn luôn được công nhận.
Các chương trình dạy tính dục, do Chính Phủ bó buộc và thường bởi các tổ
chức kiểm soát dân số điều khiển, vi phạm đến quyền lợi của phụ huynh và cổ
võ các lối sống hưởng lạc. Nhiều cha mẹ không được tự do chọn cho con cái
một chương trình giáo dục hợp với đức tin và lương tâm của mình, hay họ phải
trả nhiều tiền cho một chương trình giáo dục như vậy.
“Trẻ em
ở nhiều miền đất đã trở thành
nạn nhân của những khai thác vô loài, qua việc lao động trẻ em, mãi dâm trẻ
em và hình ảnh trẻ em khiêu dâm. Nỗi khổ của ‘các trẻ em bụi đời’, nạn nhân
của tình trạng thiếu kỷ cương gia đình, là một gương mù và là một nỗi hổ
ngươi cho nhiều thành phố lớn nhất của chúng ta.
“Nữ giới
phần lớn phải sống trong cảnh bần cùng. Họ thường bị tổn hại vì thiếu học
hành. Cùng với con cái, họ là những nạn nhân chính của cảnh tan vỡ gia đình.
Ở một số xã hội, họ là những nạn nhân cho quyền lực dục tính của nam giới.
Trái lại, phong trào nữ giới cấp tiến, bằng việc phát động ý niệm sai lầm về
‘giống tính’, đồng thời đã làm hại họ ở hết mọi quốc gia thuộc Mỹ
Châu, làm thấm nhập từ từ những thành kiến phản lại chủ nghĩa nữ giới chân
chính là chủ nghĩa bảo vệ phẩm vị của nữ giới.
“Sau hết, chúng tôi muốn nói
lên nỗi quan tâm sâu xa nhất của chúng tôi về một tân ‘kiểu mẫu sức khỏe’
nhắm đến việc làm cho quyền sống khỏe mạnh bị lệ thuộc vào việc giải quyết
của cá nhân hay của xã hội”.
(tuần san L’O
sservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 10/7/1996)
“Chúng tôi, từ tất cả mọi quốc
gia ở Âu Châu, đến đây để suy nghĩ về đề tài nhân quyền và các quyền lợi của
gia đình, và chúng tôi đã trao đổi về Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền
đối với mọi vấn đề liên quan đến gia đình, một tế bào căn bản của xã hội,
một tế bào rất cần cho xã hội ở sứ vụ không thể thay thế của nó, ở việc phát
triển của nó, ở những khó khăn thử thách của nó cũng như ở những chịu đựng
của nó.
“Chúng tôi đã suy nghĩ về mối
liên hệ giữa Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền Năm 1948 và Bản
Hiến Chương về Quyền Lợi Gia Đình được Tòa Thánh ban hành năm 1983. Đây
là một số những kết luận tổng kết đã được Hội Nghị chúng tôi nhất trí chuẩn
nhận, chúng xin được chia sẻ đặc biệt với những vị như chúng tôi làm việc
phục vụ xã hội để mưu cầu công ích.
1.1 “Bản Tuyên Ngôn
Chung về Nhân Quyền, được long trọng công bố ngày 10 tháng 12 năm 1948,
đã ban cho Hiệp Chủng Quốc thẩm quyền về luân lý trong việc thi hành sứ vụ
đã được ủy nhiệm cho nó, đó là sứ vụ hoạt động cho hòa bình, cho việc phát
triển và bảo vệ quyền lợi của mọi người. Các Chính Quyền đã được mời gọi để
đưa những quyền lợi này vào việc lập pháp nghiêm cẩn của mình. Việc lập pháp
này liên quan đến vấn đề bảo vệ sự sống của mọi người (khoản 3), vấn đề tôn
trọng quyền tự do của mọi người, và vấn đề công nhận những quyền lợi nồng
cốt khác nhau, bao gồm cả ‘quyền kết hôn và lập gia đình’ (khoản
16.1) là cơ cấu được coi như ‘một đơn vị nhóm tự nhiên và căn bản của xã
hội’ và ‘được xã hội và Chính Quyền bảo vệ’ (khoản 16.3). Hơn nữa, tất
cả mọi quyền lợi về xã hội, dân sự, chính trị, kinh tế và văn hóa được tuyên
bố trong Bản Tuyên Ngôn còn nhắm đến thiện ích của con người, của
những cơ cấu môi giới, cũng như của toàn thể cộng đồng nhân loại.
1.2 “Người ta không
phải chỉ được tôn trọng như là ‘những hữu thể cá nhân’ mà là như những con
người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, có khả năng nhận biết sự
thật và hòa hợp việc mình làm cho đúng với sự thật, cũng như sống thuận hòa
với những người khác trong xã hội (x.
ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Đức Tin và Lý Trí, đoạn 3, 24).
Bản Tuyên Ngôn Năm 1948 hợp với quan điểm về con người này và đã cho
thấy những thành quả của mình.
1.3 “Bản Tuyên Ngôn
đã hơn một lần giúp vào việc ngăn ngừa những xung khắc, vào việc đối đầu với
những hình thức chuyên chế độc tài mới, vào việc đề cao lòng trọng kính các
quyền lợi của con người, vào việc cổ võ bãi bỏ chế độ thuộc địa đế quốc,
cũng như vào việc khích lệ phát triển và hòa bình. Nó đã cho thấy thành quả
của mình qua những việc thực hiện như vậy.
1.4 “Tuy nhiên, chúng tôi,
những con người nam nữ hoạt động trong lãnh vực chính trị và lập pháp đang
tham dự buổi họp này, muốn đồng thanh nói lên rằng, Bản Tuyên Ngôn
này thường bị bỏ qua trong thực hành, thậm chí bị khinh thị, hay bị bóp méo
bằng những kiểu cắt nghĩa lại những thứ quyền lợi đã được nó công bố. Những
méo mó như vậy đặc biệt là đã làm giảm mất giá trị của cơ cấu gia đình.
Những Quyền Lợi của Gia Đình và Quyền Sống Bị Khinh Miệt
2.1 “Các quyền lợi của
con người mà tầm quan trọng phổ quát của chúng được nhấn mạnh năm
1948 không được công nhận một cách hoàn toàn hay được tôn trọng ở mọi nơi,
bởi chính quyền hay bởi các cơ cấu tổ chức riêng tư. Đây là một số trường
hợp liên quan đặc biệt đến gia đình và sự sống mà bất hạnh thay cũng xẩy ra
ngay cả ở Âu Châu nữa.
2.2 “Khoản 3:
Quyền sống bị chối bỏ bởi những khoản luật cho phép – thực ra là khuyến
khích – phá thai, hủy thai, và trợ tử ở nơi một số xứ sở.
2.3 “Khoản 12:
Quyền tôn trọng tính cách riêng tư và danh thơm tiếng tốt của con người,
qua những vận động về báo chí, những tố giác xảo quyệt, những ‘nhãn
hiệu’ có tính cách kỳ thị (như ‘những tên thủ cựu’, ‘những người hùng luân
lý’, ‘những kẻ cuồng nhiệt ủng hộ sự sống’); thái độ cười nhạo thành phần
giới trẻ tỏ ra chống lại tính cách bi quan về dục tính v.v.
2.4 “Khoản 16:
Quyền kết hôn và lập gia đình, qua việc hạ giá cơ cấu hôn nhân; việc các
vị chính quyền không màng chi tới tình trạng lệch lạc về đạo lý của xã hội (như
tính cách hỗn độn của giới trẻ, sống chung mà không hề có ý dấn thân hay cảm
quan trách nhiệm, tình trạng phát triển về bạo lực, ngay cả trong việc chiêu
mộ đồng tính luyến ái mà không tôn trọng kẻ khác và những tổ chức hiện hữu),
việc thu thuế gia đình và các qui chế ác cảm với gia đình.
2.5 “Khoản 26:
Quyền lợi của cha mẹ trong việc chọn chương trình giáo dục được cung cấp cho
con cái họ, qua việc lạm dụng việc dạy tính dục cho con cái họ ở nhà
trường hay nơi những chương trình chăm sóc sức khỏe, việc ngừa thai và đôi
khi phá thai cho vị thành niên đã được tách khỏi quyền bảo vệ của cha mẹ họ,
việc giới hạn tự do của phụ huynh trong việc chọn chương trình giáo dục và
học đường cho con cái hợp với những niềm xác tín của họ.
Những Nỗ Lực Bóp Méo Nhân Quyền
3.1 “Những thứ lệch
lạc này thực sự chỉ là ‘việc cắt nghĩa lại’ Bản Tuyên Ngôn Năm 1948,
một việc cắt nghĩa làm xoay chuyển tận gốc rễ cái ý nghĩa của nó. Vượt qua
mặt và vượt lên trên những quyền lợi được Bản Tuyên Ngôn công nhận,
tuyên xưng và công bố là một số ‘những quyền lợi nhân bản mới’ đang được đề
ra bởi những khuynh hướng văn hóa, những điều đình, những áp lực và những
phương sách đồng thuận, theo hoạch định của các hoạt động liên quốc gia.
3.2 “Sau Hội Nghị ở Cairô
(1994) và ở Bắc Kinh (1995), nhiều cơ quan Liên Hiệp Quốc, thường được hỗ
trợ bởi Hiệp Hội Âu Châu, đang cố gắng để chiếm được một sự đồng thuận quốc
tế về một số quyền được gọi là ‘các thứ quyền mới’ này. Những quyền mới này
đặc biệt bao gồm ‘vấn đề sức khỏe sinh sản’ (một phát biểu thực sự cho thấy
bao gồm cả việc phá thai), và quyền của vị thành niên trong việc thực hiện
tác động tính dục với cả người khác phái tính hay đồng phái tính với mình,
kèm theo việc họ được sử dụng những dụng cụ ngừa thai.
3.3 “Những lệch lạc
này hay những lệch lạc khác, như trợ tử, việc phát triển đồng tính luyến ái
và paedophilia, đều được bộc phát bởi các thứ triết lý duy lợi, ngộ thức, kể
cả bởi các thứ triết lý thực tiễn, buông thả và khoa học (x.
ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Đức Tin và Lý Trí, đoạn 46, 88, 89,
90, 91), cũng như bởi ý
hệ về ‘giống tính’. Bởi thế, vấn đề ở đây không phải chỉ là việc thêm thắt
vào những quyền phổ quát được công bố năm 1948 ‘những thứ quyền lợi mới’, mà
là việc làm mất đi ý nghĩa nơi quyền lợi của con người cũng như việc làm đảo
lộn ý nghĩa chính yếu của chúng. ‘Những tác nhân’ của chiều hướng mới này
hiểu ý nghĩa nơi quyền lợi con người chẳng những theo quan niệm về con người
mà còn theo những chính sách được gọi là đồng thỏa thuận nữa. Con người, gia
đình và cả Chính Quyền cần phải được điều chỉnh theo quan niệm ‘đồng thỏa
thuận’ này, một việc vừa theo chiều hướng tích cực vừa theo chiều hướng
tương đối.
3.4 “Đối với một số người
thì tình trạng lệch lạc này cũng còn do bởi ảnh hưởng về ý hệ của phong trào
‘Thời Mới’ ngày nay, qua việc họ ‘linh thánh hóa’ thiên nhiên, đặc biệt hơn
nữa là ‘trái đất’. Theo quan điểm này thì con người không được coi như là
trung tâm của lịch sử, là chủ thể của quyền lợi và nghĩa vụ, mà chỉ là một
tùy thể ngắn hạn của thiên nhiên, cần phải được điều chỉnh theo ‘khả năng
nắm giữ’ của hành tinh này.
3.5 “Ngược lại với
những chiều hướng tương đối và buông thả này, Bản Tuyên Ngôn Chung
Năm 1948 chủ trương lề luật tự nhiên một cách đặc biệt, đó là chủ trương khả
năng bẩm sinh của con người là để tìm kiếm những gì chân thật, ngay lành và
thiện hảo. Chúng tôi chấp nhận quan niệm về con người này, và thấy nơi quan
niệm ấy có một nền tảng luân lý để xác nhận phẩm vị cùng với các quyền lợi
của hết mọi người, kể cả những quyền lợi của cộng đồng nhân loại căn bản là
gia đình”.
(tuần san L’O
sservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 20/1/1999)