GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ BA 7/8/2007 TUẦN 18 THƯỜNG NIÊN |
? Tông Huấn Evangelii Nuntiandi của Đức Thánh Cha Phaolô VI: I- TỪ CHÚA KITÔ, ĐẤNG TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA ĐẾN GIÁO HỘI TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA (6-14)
? Thông Điệp Redemptoris Missio của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: I- CHÚA GIÊSU KITÔ LÀ ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT (4-7)
? Ánh Sáng Thế Gian - Kitô Giáo Tại Âu Châu: "Kitô Giáo tại Âu Châu gắn liền với lịch sử và văn hóa của các nước Âu Châu, làm nên căn tính chung của dân Âu Châu"
Tông Huấn Evangelii Nuntiandi của Đức Thánh Cha Phaolô VI: I- TỪ CHÚA KITÔ, ĐẤNG TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA ĐẾN GIÁO HỘI TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
6- Chứng Từ và Sứ Vụ của Chúa Giêsu
Chứng từ Chúa Giêsu đã tỏ cho chúng ta thấy về chính mình Người và là chứng từ Thánh Luca đã thu thập lại trong Phúc Âm của mình – “Tôi phải loan báo Tin Mừng về nước Thiên Chúa” (Lk.4:43) – chắc chắn có những thành quả lớn lao, vì nó gồm tóm tất cả sứ vụ của Chúa Giêsu: “Đó là điều Tôi được sai đi để làm” (ibid.). Những lời này thật sự mang một tính cách quan trọng, nếu người ta liên kết chúng với các câu trước đó, tức với những lời của tiên tri Isaia được Chúa Giêsu dùng để chỉ áp dụng cho bản thân Người: “Thần Linh Chúa được ban cho Tôi, vì Ngài đã xức dầu cho Tôi. Ngài đã sai Tôi đi mang tin mừng cho người nghèo khó” (Lk.4:18; x.Is.61:1)
Việc đi từ tỉnh lị này tới thị xã kia, rao giảng cho người bần cùng nhất – thường là thành phần dễ chấp nhận lời Người rao giảng nhất – tin mừng về việc Thiên Chúa hoàn thành các lời hứa cũng như Giao Ước của Ngài, là một sứ vụ được Chúa Kitô công bố là do Cha đã sai Người đi để thực hiện. Tất cả mọi khía cạnh nơi mầu nhiệm của Người – chính việc Nhập Thể, các phép lạ Người làm, giáo thuyết Người dạy, việc Người qui tụ các môn đệ, việc Người sai 12 Vị đi, thập giá và phục sinh, việc Người luôn ở cùng thành phần riêng của Người – đều là những yếu tố của hoạt động truyền bá phúc âm hóa.
7- Chúa Giêsu là Đấng Truyền Bá Phúc Âm Hóa Tiên Khởi
Trong cuộc Thượng Hội, các vị giám mục rất thường hay nhắc đến chân lý này: chính Chúa Giêsu, Tin Mừng của Thiên Chúa (Mk.1:1; Rm. 1:1-3), là Đấng truyền bá phúc âm hóa tiên khởi và tuyệt nhất; Người đã hoàn tất mọi sự tới mức toàn hảo và cho đến độ hy hiến mạng sống trần gian của mình.
Đối với Chúa Giêsu, việc truyền bá phúc âm hóa thúc buộc này có nghĩa là gì? Chắc chắn, để diễn đạt cho thấy được tổng hợp đầy đủ cái ý nghĩa, nội dung và thể thức của việc truyền bá phúc âm hóa theo như Chúa Giêsu đã quan niệm và áp dụng không phải là một chuyện dễ. Dù có cố gắng để thực hiện một cuộc tổng luận đi chăng nữa cũng không bao giờ trọn vẹn. Chúng ta hãy tạm nhắc lại ở đây một vài khía cạnh thiết yếu.
8- Loan Báo Vương Quốc của Thiên Chúa
Là một nhà truyền bá phúc âm hóa, Chúa Kitô trước hết loan báo về một vương quốc, vương quốc của Thiên Chúa; việc này quan trọng đến nỗi, mọi sự khác so với nó chỉ là “phần còn lại”, phần “được ban cho thêm” (x.Mt.6:33). Bởi thế, chỉ có vương quốc của Thiên Chúa mới là tất cả, và vương quốc này làm cho mọi sự khác thành thứ yếu. Bằng nhiều cách thức, Chúa Giêsu đã thích diễn tả niềm hạnh phúc được thuộc về vương quốc này (một niềm hạnh phúc ngược ngạo được tạo nên bởi những thứ bị thế gian phủ nhận) (x.Mt.5:3-12), những đòi hỏi của vương quốc ấy cùng với bản Đại Hiến Chương của nó (Mt.5-7), những người loan báo vương quốc này (x.Mt.10), các mầu nhiệm của nó (x.Mt.13), các con trẻ nhỏ của nó (x.Mt.18), việc canh thức và trung thành cần thiết đối với những ai trông đợi vương quốc này vĩnh viễn trị đến (x.Mt.24-25).
9- Loan Báo Việc Giải Phóng Cứu Độ
Là cốt lõi và là tâm điểm Tin Mừng của mình, Chúa Kitô đã loan báo ơn cứu độ, một đại hồng ân của Thiên Chúa, đó là việc giải phóng con người khỏi mọi sự đè nén họ, nhưng trước hết là việc giải phóng họ khỏi tội lỗi và Tên Gian Ác, bằng niềm vui nhận biết Thiên Chúa và được Ngài biết đến, được chiêm ngưỡng Ngài, và được thuộc về Ngài. Tất cả tặng ân này đã được khởi sự trong cuộc sống của Chúa Kitô, rồi cuối cùng được hoàn tất nơi cuộc tử nạn và phục sinh của Người. Thế nhưng, tặng ân ấy cần phải được kiên nhẫn ban phát theo giòng lịch sử, để nó hoàn toàn được thể hiện vào ngày Chúa Kitô đến lần sau hết, một ngày không một ai biết được ngoại trừ Chúa Cha (x.Mt.24:36; Acts 1:7; 1Thess.5:1-2).
10. Bằng Giá Nỗ Lực Khổ Giá
Vương quốc này và ơn cứu độ này, những từ ngữ chính của việc Chúa Giêsu Kitô truyền bá phúc âm hoá, sẵn sàng ban cho mọi người như là một ân huệ và tình thương, tuy nhiên, mỗi một người đồng thời cũng phải mãnh liệt để chiếm lấy – vương quốc này và ơn cứu độ này thuộc về kẻ mạnh, như Chúa Giêsu nói (x.Mt.11:12; Lk.16:16), bằng khó nhọc và khổ đau, bằng một đời sống theo Phúc Âm, bằng bỏ mình và thập giá, bằng tinh thần các phúc đức thật. Thế nhưng, trên hết, mỗi người chiếm lấy vương quốc này và ơn cứu độ này bằng một cuộc hoàn toàn canh tân nội tâm mà Phúc Âm gọi là metanoia; nó là một cuộc hoán cải thực sự, một cuộc đổi thay trí lòng (x.Mt.4:17).
11. Miệt Mài Rao Giảng
Chúa Kitô đã hoàn tất việc loan báo vương quốc của Thiên Chúa bằng việc không ngừng rao giảng bằng lời nói, thứ ngôn từ mà, được dân cho rằng không ai bằng: “Đó là một thứ giáo thuyết mới, nói có quyền thế” (Mk.1:27). “Người đã được mọi người đón nhận, và họ ngỡ ngàng về những lời lẽ ân sủng phát ra từ môi miệng của Người” (Lk.4:22). “Chưa hề có ai nói năng như Người” (Jn.7:46). Những lời của Người mạc khải cho thấy bí mật sâu nhiệm của Thiên Chúa, dự án của Ngài và lời hứa của Ngài, nhờ đó Người làm thay đổi tâm can và định mệnh của con người.
12. Bằng Những Dấu Chỉ Phúc Âm
Thế nhưng, Chúa Kitô cũng thực hiện việc loan báo này bằng vô số những dấu chỉ, khiến đám đông dân chúng lạ lùng, đồng thời Người cũng kéo họ đến cùng Người, để thấy Người, nghe Người và để Người biến đổi họ: bệnh nhân được chữa lành, nước lã hoá thành rượu, bánh hóa ra nhiều, kẻ chết sống lại. Trong số tất cả những dấu chỉ này, có một dấu chỉ rất quan trọng gắn liền với Người, đó là thành phần thấp hèn và nghèo khó được truyền bá phúc âm hóa, thành phần trở nên môn đệ của Người và “nhân danh Người” qui tụ nhau lại thành một cộng đoàn lớn của những ai tin vào Người. Chúa Giêsu, Đấng đã công bố “Tôi phải rao giảng Tin Mừng của Nước Thiên Chúa” (Lk.4:43) cho thành phần này, cũng là Chúa Giêsu được Thánh Ký Gioan nói rằng Người đã đến và chết đi “để qui tụ con cái Thiên Chúa bị phân tán lại với nhau” (Jn.11:52). Như thế là Người đã đạt thành mạc khải của Người, bằng cách hoàn tất nó và chứng thực nó bằng tất cả việc Người tỏ Mình ra, qua lời nói và việc làm, qua dấu chỉ và phép lạ, nhất là qua cuộc tử nạn, qua việc phục sinh và qua việc sai Thần Chân Lý đến (x. Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Mạc Khải Dei Verbum, đoạn 4: AAS 58 –1966 – pp 818-819).
13. Cho Cộng Đồng được Truyền Bá Phúc Âm Hóa và làm Việc Truyền Bá Phúc Âm Hóa thấy
Những ai thành tâm chấp nhận Tin Mừng, thì nhờ quyền năng của việc chấp nhận này cũng như của niềm tin chung, qui tụ nhau lại vì danh Chúa Giêsu, để cùng nhau tìm kiếm vương quốc ấy, xây dựng và sống vương quốc ấy. Họ làm nên một cộng đồng lãnh trách nhiệm truyền bá phúc âm hóa. Lệnh truyền cho 12 Vị ra đi loan báo Tin Mừng cũng áp dụng cho tất cả mọi Kitô hữu, cho dù theo cách thức khác nhau. Chính vì lý do này Thánh Phêrô đã gọi Kitô hữu là “một dân được tách biệt ra để chúc tụng Thiên Chúa” (1Pt.2:9), để ca ngợi những điều kỳ diệu mà mỗi một người có thể nghe thấy bằng ngôn ngữ riêng của mình (x.Acts 2:11). Hơn thế nữa, Tin Mừng về vương quốc đang đến và đã được khởi sự này còn nhắm đến tất cả mọi dân nước qua giòng thời gian. Những ai đã lãnh nhận Tin Mừng, cũng là những ai được Tin Mừng qui tụ lại thành một cộng đồng cứu độ, có thể và buộc phải thông đạt cùng truyền bá Tin Mừng ấy nữa.
14. Truyền Bá Phúc Âm Hóa là Ơn Gọi Xứng Hợp với Giáo Hội
Giáo Hội biết được điều này. Giáo Hội vẫn nhận thức một cách sống động được rằng những lời Chúa Cứu Thế nói “Tôi phải loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa” (Lk.4:43) cũng hoàn toàn áp dụng cho chính Giáo Hội nữa. Cùng với Thánh Phaolô, Giáo Hội còn muốn thêm là: “Tôi không vênh vang về việc rao giảng phúc âm, vì việc này là một nhiệm vụ buộc tôi phải làm; khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng phúc âm!” (1Cor.9:16). Thật là một niềm vui mừng và ủi an khi chúng ta nghe thấy những lời ngời sáng được phát biểu vào lúc kết thúc Cuộc Thượng Hội Giám Mục năm 1974: “Chúng tôi một lần nữa muốn xác nhận công việc truyền bá phúc âm hóa tất cả mọi dân nước là công việc làm nên sứ vụ chính yếu của Giáo Hội” (Tuyên Ngôn của các vị Nghị Phụ Thượng Hội Giám Mục, đoạn 4: tuần san L’O sservatore Romano, 27/10/1974, p.6). Đó là một công việc và là một sứ vụ khẩn trương hơn bao giờ hết trước những đổi thay rộng lớn và sâu xa nơi xã hội hiện đại. Việc truyền bá phúc âm hóa thực là một ân huệ và là một ơn gọi xứng hợp với Giáo Hội, với căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu là để truyền bá phúc âm hóa, tức là, để rao giảng và chỉ dạy, để làm máng thông ơn, để hoà giải tội nhân với Thiên Chúa, và để kéo dài hy tế của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.
(còn tiếp)
Thông Điệp Redemptoris Missio của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: I- CHÚA GIÊSU KITÔ LÀ ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT (4-7)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
Trong Bức Thông Điệp đầu tiên, Tôi đã đề ra một dự án cho Giáo Triều của mình, Tôi đã nói rằng, “phận sự trọng yếu của Giáo Hội trong mọi thời đại, nhất là trong thời của chúng ta đây, là hướng cái nhìn của con người, là hướng dẫn việc nhận thức và cảm nghiệm của toàn thể nhân loại qui về mầu nhiệm Chúa Kitô” (Ibid.: loc. cit., 275).
Việc truyền giáo phổ quát của Giáo Hội được phát sinh từ niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, như đã được phát biểu trong bản tuyên xưng đức tin Chúa Ba Ngôi: “Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời ... Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi Người đã từ trời xuống thế: bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người” (Kinh Tin Kính của Hai Công Đồng Chung Nicêa và Contantinôpôli: DS 150). Biến cố Cứu Chuộc đã mang lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người, “vì mỗi một người đều được bao gồm trong mầu nhiệm Cứu Chuộc, và Chúa Kitô đã vĩnh viễn hiệp nhất chính mình với từng người nơi mầu nhiệm này” (Thông Điệp Redemptor Hominis, đoạn 13: loc. cit., 283). Việc truyền giáo của Giáo Hội chỉ có ý nghĩa trong niềm tin và việc truyền giáo này bắt nguồn từ niềm tin.
Tuy nhiên, cũng căn cứ vào những đổi thay đã xẩy ra trong thời đại tân tiến ngày nay, cũng như căn cứ vào việc phát triển những tư tưởng mới về thần học, một số người đã ngẫm nghĩ rằng: “Công việc truyền giáo nơi những người ngoài Kitô giáo có còn thích ứng nữa hay chăng?” Nó chẳng phải đã được thay thế bằng việc đối thoại liên tôn rồi sao? Việc tiến bộ của nhân loại không phải là mục tiêu xứng hợp của việc Giáo Hội truyền giáo ư? Việc tôn trọng lương tâm và tự do của con người đã không loại trừ đi tất cả mọi nỗ lực để làm cho con người hoán cải rồi sao? Chẳng lẽ không thể nào đạt được ơn cứu độ nơi các tôn giáo khác à? Vậy thì tại sao lại cần phải thực hiện hoạt động truyền giáo?
“Không ai đến với Cha mà không qua Thày”
5- Nếu chúng ta trở về với thuở ban đầu của Giáo Hội, chúng ta sẽ thấy được niềm xác tín rõ ràng, Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất của tất cả mọi người, là Đấng duy nhất có thể tỏ Thiên Chúa ra và dẫn tất cả mọi người đến cùng Thiên Chúa. Để trả lời cho giáo quyền Do Thái vặn hỏi các Tông Đồ về việc chữa lành một người bị què, Thánh Phêrô đã nói: “Nhờ danh Chúa Giêsu Kitô Nazarét là Đấng quí vị đóng đanh, Đấng Thiên Chúa đã làm cho sống lại từ trong kẻ chết, Đấng mà nhờ Người người này đang lành mạnh đứng ở trước quí vị đây ... Không có ơn cứu độ nơi một người nào khác, vì không có một danh hiệu nào dưới gầm trời này được ban cho con người làm cho chúng ta được cứu độ” (Acts 4:10,12). Câu phát biểu ngỏ với Hội Đồng Do Thái ấy có một giá trị phổ quát, vì đối với tất cả mọi dân nước – Do Thái cũng như Dân Ngoại – ơn cứu độ chỉ có thể phát xuất từ Chúa Giêsu Kitô mà thôi.
Tính cách phổ quát của ơn cứu độ nơi Chúa Kitô được cả Thánh Kinh Tân Ước nhắc đến. Thánh Phaolô đã công nhận Chúa Kitô Phục Sinh là Chúa. Thánh nhân viết: “Mặc dù có nhiều vị được gọi là thần trên trời dưới đất – như thật sự đã có nhiều ‘thần’ và nhiều ‘chúa’ – nhưng đối với chúng ta chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Cha, nhờ Ngài tất cả mọi sự có, và vì Ngài mà chúng ta hiện hữu, cũng như chỉ có một Chúa duy nhất là Đức Giêsu Kitô, nhờ Người tất cả mọi sự có và bởi Người chúng ta sống động” (1Cor.8:5-6). Một Thiên Chúa duy nhất và một Chúa duy nhất được Thánh Phaolô nhắc đến một cách tương phản với số đông “thần linh” và “chúa tể” được chung chung chấp nhận. Thánh Phaolô tỏ ra phản lại với thuyết đa thần nơi hoàn cảnh tôn giáo thời của thánh nhân, và nhấn mạnh đến cái làm nên đặc tính của niềm tin Kitô giáo, đó là niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất và vào một Chúa duy nhất được Thiên Chúa sai đến.
Trong Phúc Âm Thánh Gioan, tính cách phổ quát cứu độ này của Chúa Kitô bao gồm tất cả mọi khía cạnh thuộc sứ mệnh về ân sủng, chân lý và mạc khải của Người: Lời là “ánh sáng thật đã chiếu soi mọi người” (Jn.1:9). Còn nữa, “chưa ai đã từng thấy Thiên Chúa; duy Người Con một là Đấng ở trong lòng Cha mới là vị tỏ Cha ra” (Jn.1:18; x. Mt.11:27). Việc Thiên Chúa mạc khải được chấm dứt và hoàn tất nơi Người Con duy nhất của Ngài: “Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta trong quá khứ bằng nhiều cách thức khác nhau; nhưng trong những ngày sau hết này, Ngài đã nói với chúng ta nơi Người Con, Đấng Ngài định cho thừa hưởng tất cả mọi sự, và bởi Đấng này Ngài đã dựng nên thế gian” (Heb.1:1-2; x. Jn.14:6).
Nơi Lời mạc khải cuối cùng này của Ngài, Thiên Chúa đã tỏ mình ra một cách khả dĩ trọn vẹn nhất. Ngài đã mạc khải cho con người biết Ngài là ai. Việc mạc khải mình ra sau hết này của Thiên Chúa là lý do sâu xa tại sao tự bản tính Giáo Hội là truyền giáo. Giáo Hội không thể làm gì khác hơn là loan truyền Phúc Âm, tức là loan truyền trọn vẹn chân lý Thiên Chúa đã giúp chúng ta biết về Ngài.
Chúa Kitô là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại: “Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và một trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người, đó là con người Đức Giêsu Kitô, Đấng đã hiến mình làm giá chuộc cho tất cả mọi người, một sự thật đã được chứng thực vào thời điểm của mình. Đối với sự thật này, cha đã được chỉ định để làm người rao giảng và làm tông đồ (cha nói thật chứ không nói dối), làm thày dạy Dân Ngoại trong đức tin và chân lý” (1Tim.2:5-7; x. Heb.4:14-16). Bởi thế, không ai có thể được hiệp thông với Thiên Chúa mà không qua Chúa Kitô, nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Vai trò trung gian duy nhất phổ quát của Chúa Kitô, không hề làm ngăn cản hành trình tiến đến với Thiên Chúa, là đường lối chính Thiên Chúa thiết lập, một sự kiện Chúa Kitô đã thừa biết. Mặc dầu cũng có những hình thức dự phần vào việc làm trung gian khác thể loại và khác cấp độ, chúng chỉ có ý nghĩa và giá trị là do vai trò trung gian riêng của Chúa Kitô mà thôi, và không được nghĩ rằng chúng song song với hay bổ khuyết cho vai trò trung gian của Người.
6- Làm bất cứ điều gì đưa đến việc phân rẽ Lời và Đức Giêsu Kitô là phản với đức tin Kitô giáo. Thánh Gioan đã minh bạch nói rằng Lời, Đấng “từ ban đầu đã ở nơi Thiên Chúa” cũng chính là Đấng “đã hóa thành nhục thể” (Jn.1:2,14). Chúa Giêsu là Lời Nhập Thể – một ngôi vị duy nhất bất phân. Người ta không thể phân tách Chúa Giêsu khỏi Đức Kitô, hay nói về một “Chúa Giêsu lịch sử” khác với “Đức Kitô của đức tin”. Giáo Hội công nhận và tuyên xưng Chúa Giêsu là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt.16:16): Đức Kitô này chính là Chúa Giêsu Nazarét; Người là Lời Thiên Chúa làm người vì phần rỗi của tất cả mọi người. Nơi Đức Kitô “trọn vẹn thần tính ngự trị một cách thể lý” (Col.2:9) và “tất cả chúng ta đã nhận lãnh từ sự viên mãn của Người” (Jn.1:16). “Người Con duy nhất, Đấng ở trong lòng Cha” (Jn.1:18) là “Người Con yêu dấu, nơi Người chúng ta được ơn cứu chuộc... Vì trong Người tất cả những gì viên mãn của Thiên Chúa muốn ngự trị, và qua Người Thiên Chúa hòa giải tất cả mọi sự dưới đất cũng như trên trời, bằng việc làm hòa nơi máu của thập giá Người” (Col.1:13-14, 19-20). Chính tính cách độc nhất vô nhị này nơi Đức Kitô đã làm cho Người có một tầm quan trọng tuyệt đối và phổ quát, nhờ đó, dù thuộc về lịch sử, Người vẫn là tâm điểm và mục đích của lịch sử (xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, đoạn 2): “Ta là Alpha và là Omega, là trước hết và là sau cùng, là nguyên thủy và là cùng đích” (Rev.22:13).
Như thế, cho dù được phép và cần xét đến những khía cạnh khác nhau này nơi mầu nhiệm của Chúa Kitô, chúng ta cũng không bao giờ được đánh mất tính cách hiệp nhất của mầu nhiệm ấy. Trong tiến trình nhận thức và cảm nhận những tặng ân đa diện – nhất là những kho tàng thiêng liêng – Thiên Chúa đã đổ xuống trên mọi người, chúng ta không thể phân rẽ những tặng ân này khỏi Chúa Giêsu Kitô, Đấng là tâm điểm của dự án Thiên Chúa cứu độ. Như “nhờ việc nhập thể của mình, Con Thiên Chúa, ở một nghĩa nào đó, đã liên kết mình với hết mọi người”, cũng thế, “chúng ta buộc phải tin rằng, Chúa Thánh Thần ban cho mọi người cơ hội để thông phần vào Mầu Nhiệm Vượt Qua một cách nào đó chỉ có Thiên Chúa biết” (Ibid., đoạn 22). Dự án của Thiên Chúa là ở chỗ “kết hiệp tất cả mọi sự trong Đức Kitô, những sự trên trời cũng như những sự dưới đất” (Eph.1:10).
Tin Tưởng vào Chúa Kitô dẫn đến Việc Con Người được Tự Do
7- Việc khẩn thiết của hoạt động truyền giáo được bắt nguồn từ sự sống thực sự tươi mới do Chúa Kitô mang đến, cũng như được các môn đồ của Người mặc lấy. Sự sống mới này là một tặng ân của Thiên Chúa, và con người cần phải chấp nhận và phát triển nó, nếu họ muốn hiện thực trọn vẹn ơn gọi của mình hợp với Chúa Kitô. Toàn thể Tân Ước là một bản thánh ca hát lên sự sống mới này nơi những ai tin vào Đức Kitô và sống trong Giáo Hội của Người. Ơn cứu độ trong Chúa Kitô, như Giáo Hội làm chứng và loan truyền, là việc Thiên Chúa thông mình ra: “Chính tình yêu chẳng những dựng nên sự lành mà còn ban cả việc được tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần nữa. Vì Ngài là Đấng yêu thích những ước muốn trao ban chính mình” (Thông Điệp Dives in Mesericordia – 30/11/1980 – đoạn 7: AAS 72 – 1980 – 1202).
Thiên Chúa ban cho con người sự sống mới này. “Người ta có thể phủ nhận Đức Kitô và mọi sự Người đã thực hiện trong lịch sử loài người được chăng? Dĩ nhiên là người ta có thể. Con người có tự do mà. Họ có thể nói ‘không’ với Thiên Chúa. Họ có thể nói ‘không’ với Đức Kitô. Thế nhưng, vấn đề chính yếu vẫn còn đó: Làm điều này có hợp lý hay chăng? Nếu hợp lý thì hợp lý ở chỗ nào?” (Bài Giảng trong Thánh Lễ ở Krakow ngày 10-6-1979: AAS 71 – 1979 – 873).
Trong thế giới tân tiến ngày nay có một khuynh hướng làm con người giảm xuống chiều kích theo chiều ngang mà thôi. Thế nhưng, nếu không hướng đến Tuyệt Đối Thể thì con người sẽ ra sao? Câu trả lời cho vấn nạn này được tìm thấy nơi kinh nghiệm sống của mọi người, song nó cũng được lịch sử nhân loại ghi nhận, bằng những cuộc máu đổ nhân danh các ý thức hệ, hay bằng các chế độ chính trị chỉ tìm cách xây dựng một “tân nhân loại” ở ngoài Thiên Chúa (xem Đức Gioan XXIII, Thông Điệp Mater et Magistra – 15/5/1961 – đoạn IV: AAS 53 – 1961 – 451-453).
Ngoài ra, Công Đồng Chung Vaticanô II cũng đã trả lời cho những ai quan tâm đến việc bảo toàn quyền tự do lương tâm rằng: “Con người có quyền tự do tôn giáo... tất cả mọi người đều phải được bảo vệ cho khỏi bị cá nhân, phái nhóm hay bất cứ quyền lực nào của con người cưỡng ép, bắt họ phải tác hành ngược lại với lương tâm của mình về vấn đề tôn giáo, hay ngăn cản họ tác hành theo lương tâm của mình, ở nơi riêng cũng như công cộng, làm một mình hay hợp với người khác, trong một giới hạn thích hợp” (Tuyên Ngôn về Quyền Tự Do Tôn Giáo Dignitatis Humanae, đoạn 2).
Việc loan truyền Chúa Kitô và làm chứng cho Người, một khi được thực hiện theo chiều hướng tôn trọng lương tâm con người, thì không vi phạm đến quyền tự do của con người. Đức tin đòi con người phải được tự do chấp nhận, thế nhưng, đồng thời đức tin cũng cần phải được cống hiến cho họ, vì “những nhóm người này có quyền biết đến nguồn phong phú của mầu nhiệm Chúa Kitô (x.Eph.3:8) - những phong phú chúng ta tin rằng toàn thể nhân loại có thể tìm thấy, trong một mức độ trọn đầy thật sự, mọi sự mà họ đang mò mẫm tìm kiếm những gì liên quan đến Thiên Chúa, đến con người và đến định mệnh của họ, đến sự sống và sự chết, đến chân lý... Đó là lý do tại sao Giáo Hội giữ tinh thần truyền giáo của mình sống động, thậm chí còn muốn làm cho nó tăng thêm trong giây phút lịch sử chúng ta đang sống đây” (Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi – 8/12/1975 – đoạn 53: AAS 68 – 1976 -, 42). Thế nhưng, cũng cần phải cùng với Công Đồng mà nói rằng, “theo phẩm vị làm người của mình, được trang bị bởi lý trí và ý muốn tự do, cũng như mang bên mình trách nhiệm bản thân, tất cả mọi người được thúc đẩy bởi bản tính tự nhiên của mình, cũng như bị bó buộc bởi những đòi hởi về luân lý, phải tìm kiếm chân lý, trên hết là chân lý về đạo giáo. Họ còn phải tin vào chân lý một khi nhận biết chân lý, và phải điều hành cả cuộc sống của mình theo đòi hỏi của chân lý nữa” (Tuyên Ngôn về Quyền Tự Do Tôn Giáo Dignitatis Humanae, đoạn 2).
(còn tiếp)
Ánh Sáng Thế Gian - Kitô Giáo Tại Âu Châu: "Kitô Giáo tại Âu Châu gắn liền với lịch sử và văn hóa của các nước Âu Châu, làm nên căn tính chung của dân Âu Châu"
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
K |
itô Giáo tại Âu Châu gắn liền với lịch sử và văn hóa của các nước Âu Châu, làm nên căn tính chung của dân Âu Châu.
Sau đây là những lời nhận định của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Bức Tông Thư ban hành ngày 1/10/1999, ngày khai mạc Thượng Hội Giám Mục Âu Châu lần hai, một văn kiện “Motu Proprio” để tuyên bố 3 vị Thánh Nữ, Thánh Brigita người Thụy Điển, Thánh Catarina Sienna và Thánh Têrêsa Bênêđicta Thánh Giá, những vị đồng Quan Thày của Âu Châu (với 3 Thánh Nam là Thánh Bênêđictô, Cyrilô và Mêthôđiô):
Tuy nhiên, mặc dù tân tiến về khoa học, kỹ thuật và kinh tế cũng như thăng tiến về nhân bản, nhân sinh và nhân quyền, Âu Châu ngày nay đã hoàn toàn thay đổi, không còn như ngày xưa nữa, đã tỏ ra thiên về tiêu cực hơn là tích cực, tiêu cực về đủ mọi phương diện, tâm lý, luân lý lẫn đạo lý.
· “Chúng ta cũng nhận thấy có một số tình trạng làm suy yếu đời sống Giáo Hội ở Âu Châu hôm nay đây, những tình trạng không cho phép Giáo Hội thực hiện một việc rất khẩn trương là minh chứng Chúa Kitô và Phúc Âm của Ngài.
Trước hết, chúng ta không thể không nhìn nhận rằng, chính Kitô hữu, nhất là ở phía Tây Âu, nhiều lúc đã bị nhập nhiễm bởi tinh thần nhân bản nhất thời, bỏ đức tin sống động, thậm chí còn đi xa hơn nữa, đến độ, không phải là ít trường hợp xẩy ra, đã hoàn toàn mất đức tin một cách đáng tiếc. Chúng ta cũng không tỏ ra cho thấy là chúng ta đã thắng được khuynh hướng giải thích đức tin Kitô giáo theo đường lối thế gian như là một chính sách cần thiết cho việc tổ chức tốt đẹp hơn những sự thuộc về thế gian này.
...…Thật vậy, hầu hết mọi vấn đề căng thẳng Giáo Hội phải đối diện vào lúc này đây tại Âu Châu được bắt nguồn từ tình trạng khủng hoảng về Sự Thật và đức tin. Tình trạng khủng hoảng này lại gây ra tình trạng phân mảnh trầm trọng về tín lý, ảnh hưởng đến cả lương tâm tín hữu.
Cuộc khủng hoảng về ơn gọi linh mục cũng như tu sĩ vẫn chưa vượt qua được. Âu Châu, một Âu Châu không xưa lắm, đã sai các linh mục. đan sĩ nam nữ đi đến các xứ truyền giáo cũng như đến các Giáo Hội trẻ trên khắp thế giới, ngày nay lại có ít ơn gọi hơn các đại lục khác. Đồng thời, đại lục này còn đang đương đầu với những khó khăn hơn trong việc cung cấp các vị thừa tác viên có chức thánh cho các cộng đoàn địa phương của mình. Nhiều đan viện bị bỏ hoang và đang biến mất. Công việc truyền bá phúc âm hóa và giáo dục lớn lao của các dòng tu cũng như các hội dòng thì, hoặc là bị giảm sút trầm trọng, hay là bị giảm sút tới chỗ làm những gì có thể trong việc cộng tác với cá nhân giáo dân hay với các tổ chức giáo dân, hoặc là theo nhau biến mất ở một số miền hay ở một số lãnh vực. Chắc chắn những lý do về tình trạng báo động này có nhiều và phức tạp. Tuy nhiên, căn nguyên sâu xa nhất của nó thực sự được thấy nơi tình trạng tục hóa trong Giáo Hội, tức là nơi việc giảm sút hay bỏ mất Chân Lý đức tin trong đời sống riêng tư cũng như trong các dấn thân hoạt động về mục vụ.
Sau nữa, chúng ta phải nhìn nhận rằng, tình trạng tục hóa đời sống Kitô hữu trong Giáo Hội, ngoài việc trống rỗng Chân Lý về đức tin được đề cập đến trên đây làm suy giảm sâu nặng đời sống của Giáo Hội, còn có cả một cuộc khủng hoảng nặng nề về lương tâm cũng như về các nguyên tắc luân lý Kitô giáo, làm nguy hại đến việc hiệp nhất của giáo hội và làm cho việc truyền bá phúc âm hóa trở thành bất khả dĩ...
Một số người Công Giáo cảm thấy rằng, việc kêu gọi tuân giữ các giá trị tuyệt đối về luân lý không còn xứng hợp với tâm thức về con người nữa, một tâm thức thiên về bản tính tự do và trách nhiệm của con người, cũng như thiên về việc tôn trọng lương tâm cá nhân. Bị ảnh hưởng bởi khuynh hướng tương đối về lịch sử và quan niệm hẹp hòi về lý trí con người, còn có nhiều người, ít là trong thực hành, chối bỏ Huấn Quyền của Giáo Hội thực sự là mẫu mực về các vấn đề luân lý. Trái lại, họ ghép cho Giáo Hội vai trò kêu gọi vậy thôi, một vai trò chỉ thêm vào công việc cơ bản về luân lý, thứ luân lý mà, đối với một số người, là công việc tranh luận thuần lý sự.
Với những chủ trương như vậy, không lạ gì việc giảng dạy về thần học, mâu thuẫn một cách trắng trợn với tín lý của Giáo Hội, đang được cổ võ, nhất là về những vấn đề liên quan đến các quyền lợi căn bản của con người cũng như đến việc đồng hiện hữu chính đáng của nhân loại. Một tình trạng như vậy là một tình trạng đáng lo ngại và thậm chí càng gây thêm bất đồng trong giáo hội (x. Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, Donum Veriatatis năm 1990, nhất là các đoạn 32, 38).
Căn nguyên của tình trạng này cũng là việc suy giảm nơi quan niệm về nhân loại học, một khoa nhân loại học rất xa cách với quan niệm của Kitô giáo về nhân loại. Tình trạng lu mờ về Thiên Chúa nơi lương tâm tân tiến ngày nay đã dẫn con người đến việc chấp nhận quá trớn cái tính cách chủ quan như là một nguồn mạch và là nền tảng của chân lý. Từ quan điểm này, tự do, được quan niệm như nguồn mạch tối hậu của tất cả mọi sự thật, để rồi cuối cùng nó được coi như là một bà chủ và là nữ hoàng của thế giới; bà chủ này tự ý đặt ra những thứ lề luật để điền khuyết cho tất cả mọi lề luật. Như thế, chúng ta có lấy làm lạ lùng hay chăng khi thấy xẩy ra là, chẳng những việc cá nhân vi phạm đến quyền lợi của con người, mà còn cả việc ‘Chính Quyền tàn bạo’ dùng kiểu cách và hoạt động để tạo nên các giá trị hay tiêu chuẩn theo ‘quyền chủ trị’ của mình nữa? Chủ nghĩa quốc gia và cộng sản đã là những tiêu biểu của loại tổ chức Chính Quyền này...
Sau hết, việc suy yếu về Chân Lý đức tin và lương tâm luân lý Kitô giáo tự nhiên làm phát xuất ra một tình trạng yếu kém về khả năng truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội”.
· “Tôi thấy nhiều người Công Giáo Âu Châu, và cả những người Công Giáo ở Bắc Mỹ Châu với một con số ít hơn, ngần ngại nói về đức tin của mình – không phải là một ngần ngại của cá nhân khiêm tốn, hay của người tránh né không dám xâm phạm đến phạm vi tư riêng của người khác, mà hầu hết là vì xấu hổ, một thái độ cho rằng đức tin của đạo đã lỗi thời và tốt nhất là nên giữ lấy cho mình thôi”.
· “Tây Âu đang trải qua một cuộc khủng hoảng thiêng liêng, và Đông Âu, thay vì được tái sinh thiêng liêng cần có, lại bị ô nhiễm bởi trào lưu hưởng thụ, lập lại những khía cạnh tồi tệ nhất của Tây Âu, cũng như bị nhập nhiễm bởi những xung khắc về liên tín và liên tôn. Giữa việc phát triển về văn minh và các giá trị về tinh thần có một khoảng cách lớn. Âu Châu phải chọn lựa những gì cho thấy tương lai của mình. Thượng Hội Giám Mục này phải đặt ra những vấn nạn như: ‘Hỡi Âu Châu, ngươi phải nói gì về mình đây? Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế duy nhất, Đấng đang có, đã có và mãi có, có còn hiện diện trên con đường ngươi đi nữa chăng? Đức tin của ngươi có còn chuyên chính và chủ động nữa chăng?”
· “Âu Châu ngày nay cho thấy nhiều thắng lợi trong ngành khoa học mang lại an sinh cho một số quốc gia, một nền an sinh do chính dân chúng xây dựng lên, có khả năng và khôn ngoan, thế nhưng, Âu Châu cũng đang chết đi bởi tình trạng xuống dốc về dân số vì nhiều gia đình không còn tỏ ra muốn có sự sống nữa. Phải chăng đây là hoa trái của một kiểu sống buông trôi, hay của một dự án có chiến thuật theo một ý hệ muốn tìm cách khai thác cái tôi của con người, khi gieo rắc những lý tưởng sai lầm làm tê bại đến cả việc truyền bá phúc âm hóa nữa?”
· “Theo quan điểm tôn giáo, Âu Châu càng ngày càng trở nên đa dạng. Âu Châu không còn là một Âu Châu ngày xưa nữa, bởi dân chúng từ Đông Âu cũng như từ các quốc gia Phi Châu và Á Châu càng ngày càng tuôn đến Tây Âu tạo nên tình trạng đa dạng về chủng tộc, văn hóa nhất là về tôn giáo. Đặc biệt đáng kể là việc hiện diện của các người Hồi Giáo. Còn có cả những người Ấn Giáo, Phật Giáo và những người thuộc các tôn giáo khác nữa. Hình ảnh này còn phức tạp ở việc xuất hiện những giáo phái, những nhóm tôn giáo mờ ám, những phong trào tôn giáo tương tự như vậy, những phong trào trình bày một đường lối sống đạo mập mờ hay cho thấy việc hứa hẹn hiện thực bản thân mình, hoặc chỉ là những phong trào dung hợp từ những tôn giáo hay giáo phái có sẵn... Âu Châu theo truyền thống là một Âu Châu Kitô Giáo. Nay Âu Châu càng ngày càng trở nên một Âu Châu đa dạng về tôn giáo”.
· “Thảm cảnh đặc biệt xẩy ra nơi đại lục của chúng ta là có hai thể chế độc quyền đã phát hiện tại Âu Châu trong thế kỷ của chúng ta đây. Theo ý nghĩ của tôi, thảm cảnh này là do hai yếu tố căn bản:
1. Chủ trương về lý thuyết của những thể chế này coi trọng nhất là các giá trị tương đối, như cộng đồng chủng tộc hay xã hội vô giai cấp. Bởi thế, các tân ngẫu tượng mới xuất hiện ở xã hội Châu Âu; những ngẫu tượng cần có những con vật tế thần bởi các cuộc diệt chủng chưa hề xẩy ra trước đó.
· “Âu Châu trong thế kỷ này đã bị đóng đanh bởi những thứ lý thuyết tôn sùng các chủ nghĩa hưởng thụ, quốc gia quá khích và Đức Quốc Xã. Một xã hội đa văn hóa không chấp nhận những chủ trương như vậy... Trong một xã hội đa văn hóa, chúng ta lựa chọn các giá trị từ các quầy hàng ở trên thị trường. Tại sao chúng ta lại không thể đặt Chúa Kitô lên trên hết?”
· “Việc di dân Hồi Giáo ở Âu Châu là một yếu tố mới: nguyên ở Pháp đã có từ bốn đến năm triệu người, một con số tương đương với những người Công Giáo Pháp sống đạo. Lịch sử cho chúng ta thấy rằng việc sống liên kết thuận hòa giữa Hồi Giáo và Kitô Giáo là một việc bấp bênh (như ở Bắc Phi, Cận Đông, Tây Ban Nha, Balkans). Một Giáo Hội không vững niềm tin của mình (như những người theo bè rối Nestoriô, bè rối Monophysite ở Syria và Ai Cập, bè rối Donatism ở Magreb, bè rối Ariô ở Tây Ban Nha) sẽ gặp nguy hiểm ở chỗ đi theo Hồi Giáo. Ngày nay, có một số tác giả Công Giáo đã ca tụng các giá trị của Hồi Giáo tới độ làm mất đi giới tuyến giữa Thánh Kinh và Koran. Ngoài ra, tại những miền ngoại ô toàn tòng Hồi Giáo, nhiều Kitô hữu cảm thấy bị đe dọa, ở chỗ có thể đi đến những phản ứng bất lợi...”.
· “Tiếc thay, ở Bosnia và Hercegovina, luật mạnh được yếu thua vẫn còn đó. Hầu như tất cả mọi quyền lợi và quyền tự do căn bản của con người đều bị vi phạm. Về phía những vị chức trách đối với vấn đề chính trị quốc tế hay đối với việc giải quyết nội bộ lại không muốn làm gì cả. Đối với nhiều nhà chính trị này, họ không coi những người bị tước đoạt quyền lợi ấy là người nữa! Đây thực là một hổ nhục cho dân Châu Âu ở vào cuối thế kỷ 20 này! ... Chiến tranh ở xứ Yugoslavia trước kia là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy tình trạng khủng hoảng nơi các giá trị của Châu Âu”.
· “Trong thập niên này, hình ảnh con người, ở Đông Âu cũng như Tây Âu, đã bị hư hại nặng nề. Di sản Kitô giáo được chôn vùi kỹ lưỡng. Tình trạng tách lìa truyền thống là một việc hiển nhiên, cả Đông Âu cũng như Tây Âu. Nhiều người không còn biết đến đức tin và Giáo Hội từ bên trong nữa; họ không sâu xa nắm vững đức tin và Giáo Hội nữa, đặc biệt là vì bị tuyên truyền sai lạc. Bởi thế, trước hết cần phải dấn thân nhiều hơn nữa cho việc huấn luyện Kitô hữu, để một lần nữa làm cho các giá trị đức tin được sáng tỏ và không ngừng vun xới chúng.
Hào hứng chạy theo chiều hướng cá nhân chủ nghĩa quá trớn, cả ở Đông Âu cũng như Tây Âu, trong mấy năm gần đây, người ta đã đi tìm ẩn náu nơi những quan niệm và lỗ hổng chủ quan về tôn giáo, là những gì có vẻ sẽ giúp cho họ tiến đến chỗ mãn thân, cũng như đến đặc tính riêng trong việc đương đầu với các áp lực bên ngoài cùng với những nỗ lực khác nhau để thắng vượt các áp lực ấy. Thực tế cho thấy, tình trạng này không hiến cho con người cái cảm giác của một cuộc sống vững chắc, của một căn tính bản vị bền chặt, của một hướng dẫn giá trị. Nếu con người buông thả theo chiều hướng lan tràn của cá nhân chủ nghĩa, họ sẽ không tìm thấy bản thân mình mà chỉ tìm thấy một bản sao của những xu hướng xã hội chung vậy thôi. Những thay thế này chỉ càng cho con người thêm thất vọng”.
· “Âu Châu, lục địa đầu tiên được truyền bá phúc âm hóa, là một quan niệm về văn hóa và lịch sử hơn là một vị thế thuần túy về địa dư. Nó được sinh ra từ việc Kitô Giáo hóa các dân tộc Đức và Slav, cũng như từ việc kết nạp với nhiều dân tộc của miền Địa Trung Hải. Chúng ta phải nhớ rằng, trong lịch sử Châu Âu có ba cuộc phân rẽ xẩy ra và chúng ta còn thấy các thương tích của nó: đó là cuộc phân rẽ năm 1054 để giải quyết lưỡng tính hiện hữu trong một đức tin duy nhất giữa Byzantine và Rôma; phong trào Cải Cách phân rẽ Giáo Hội Tây Phương; Thời Minh Tri phân rẽ lý trí khỏi Mạc Khải và đặt khoa học chống lại đức tin. Cuộc tự mình xâu xé xẩy ra qua hai cuộc thế chiến cũng cần phải được thêm vào những phân rẽ trên đây. Âu Châu được sinh ra và phát triển trong việc nắm giữ cùng một đức tin chung, ngày nay, đang chịu đựng vì việc phân rẽ Kitô Giáo ấy”.
· “Âu Châu là một mẫu phòng thí nghiệm để xem diễn tiến đối chọi giữa đức tin và tình trạng tân tiến...
Vấn đề đức tin ở Âu Châu trước hết là một vấn đề về Kitô học. Chúa Kitô có thực sự là Con Thiên Chúa hay không? Người cũng có phải là Đấng Cứu Thế của chúng ta chăng?”.
Để phục hồi một Âu Châu Kitô Giáo mẫu mực và sinh động, Âu Châu cần phải được tái truyền bá phúc âm hóa, qua những việc làm được cho rằng cần thiết và hiệu nghiệm tiêu biểu sau đây:
“Ngày nay, việc hiệp nhất không thể nào chỉ được đặt trên những yếu tố về giao thương hay trên những qui chế về cục bộ. Chúng ta cần đến một bậc thang giá trị, trên đó, con người, loài được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc, ở cao hơn bất cứ một giá trị về chính trị hay kinh tế nào. Để có được một tình trạng hiệp nhất vững bền và liên tục cho một tương lai Châu Âu, chúng ta phải minh định những nền tảng về nhân loại học của nó, về các yếu tố đạo đức của nó, về cấp trật giá trị tinh thần của nó. Không có căn bản này sẽ không có hiệp nhất. Qua hai ngàn năm, Kitô Giáo đã hình thành di sản tinh thần cho địa lục của chúng ta, chia sẻ hy vọng cũng như thảm kịch của nó. Nhiệm vụ của chúng ta là tiếp tục sứ mệnh này, bằng việc tìm kiếm một khoa nhân bản con người và bằng việc giảng dạy cùng một Phúc Âm hy vọng trong một tương quan sâu xa mới mẻ của cuộc tân truyền bá phúc âm hóa”.
tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 13/10/1999, trang 21-22)
· “Ở Tây Âu, đời sống chúng ta bị vây bọc bởi một nền văn hóa giống như một khu vườn mọc nhiều loại cây độc hại, như chủ nghĩa hưởng thụ buông thả, chủ nghĩa duy lạc, niềm kiêu hãnh bất cần phục vụ ai.
Thế nhưng, mỗi một thứ cây độc hại này lại có một chất kháng độc riêng. Tất cả những chất kháng độc này không phải là bất lợi.
1. Dân Âu Châu hiện đại có một nỗi khao khát khôn thỏa đối với hạnh phúc, đó là một tuyệt phúc theo vật chất, cả về số lượng cũng như về cấp thời. Thế nhưng, nỗi khao khát này là một kêu cầu mãnh liệt lên cùng Giáo Hội trong việc ‘hát lên Phúc Âm theo âm điệu hạnh phúc’. Những giáo phái đã thừa biết được điều này. Nếu đáp ứng của con người hiện đại đối với nỗi khao khát hạnh phúc này thường sai lầm thì thật sự sứ điệp của Chúa Kitô chính là phương dược trị liệu và phải là sứ điệp làm cho chúng ta được hạnh phúc.
2. Địa lục của chúng ta đang loại trừ đi những phản kỵ của khổ đau và sự chết. Thế nhưng, nhân loại lại vẫn cứ hết sức tiếp tục đè nén tiếng kêu âm thầm muốn sống và muốn sống muôn đời này. Giáo Hội sẽ được lợi điểm để mạnh mẽ nói lên tính cách cánh chung về sự sống đời đời và về cuộc phục sinh...
4. Đối với những người đương thời của chúng ta thì tất cả mọi tôn giáo đều xứng đáng như nhau, và Chúa Kitô chỉ là một trong những vị tiên tri cao cả nhất mà thôi. Nói đến bản tính chân thực của Người mà nói như thế thì thật là thiếu sót. Chưa bao giờ trong giòng lịch sử thần học lại xẩy ra vấn đề về duy nhất tính của Chúa Kitô được trình bày một cách nhức nhối như vậy. Điều này sẽ thôi thúc chúng ta cần phải suy nghĩ và xác nhận sâu xa hơn niềm tin của chúng ta vào Vị Thiên Chúa Làm Người này.
5. Tình trạng trống rỗng về đạo nghĩa, một đặc tính của thời đại chúng ta, được tỏ ra qua nỗi khao khát của nó hướng về nội tâm và tĩnh niệm, là một dấu hiệu tốt. Tình trạng này thường biến việc cầu nguyện và phụng thờ trở thành một thứ văn hóa bản ngã. Thế nhưng, nó cũng là một thứ trạm phóng để thăng tiến, hướng đến một sự thật mầu nhiệm không tự khép mình lại mà là vươn mình lên Thiên Chúa.
6. Hồi giáo đã hiện diện ở Âu Châu nhiều hơn bao giờ hết. Kiểu Hồi Giáo có những độc đoán về niềm tin, về ngôn ngữ, văn hóa, và quyền lực kinh tế cũng như về chính trị, là một thực thể khó cho việc nói chuyện để trao đổi, thậm chí không thể nói chuyện gì được. Cũng có kiểu Hồi Giáo giúp chúng ta tái nhận thức cảm quan về siêu việt tính của Thiên Chúa, của việc cầu nguyện và chay tịnh, cũng như của tác dụng đạo giáo trên đời sống xã hội.
Trong nhiều xứ sở, Giáo Hội đang trở thành thiểu số và thiếu nhân sự, phương tiện tài chính, quyền hành và thế lực. Thiên Chúa có thể đang dẫn chúng ta tới một loại ‘lưu đầy Babylon’ tân thời, để dạy chúng ta biết khiêm tốn hơn và sống tín lý về quyền toàn năng của ân sủng hơn. Đối với ‘những ai ngồi ở bờ sông Babylon’ thì không có gì là bất lợi cả.
Nếu quả thực ‘đêm tối thiêng liêng’ có lẽ đang phủ xuống khắp cả Châu Âu, thì chúng ta hãy bắt chước các cô trinh nữ khôn ngoan và hãy canh thức, vì chàng rể đang tới. Thế nhưng, canh thức không có nghĩa là sợ hãi hay đào thoát. Chúng ta hãy cầm lấy đèn của mình cùng với dầu. Chúa Kitô sẽ cung cấp dầu (Phúc Âm) cho chúng ta. Chúng ta hãy chúc tụng Người. Tuy nhiên, những ngọn đèn (hội nhập văn hóa) là dân chúng của hết mọi thời sử, thành phần ngày ngày hiến mình làm cơ hội cho chúng ta. Chúng ta cũng phải biết ơn cả thời đoạn của chúng ta nữa, vì mọi sự không quá bất lợi đâu”.
· “Ở Âu Châu ngày nay người ta đang tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống và niềm hy vọng, cho dù ngày ngày họ sống ‘như không có Thiên Chúa’. Việc rao giảng về ‘bốn sự sau hết’ có thể nói lên một số những vấn đề cùng với những nỗi lo âu sâu xa nhất đang thách đố ở thời buổi ngày nay: nghi ngại và sợ hãi sự chết; khúc mắc về việc phán xét; ham muốn về thiên đàng; kinh khiếp trước hỏa ngục... Dân Âu Châu chúng ta là những chuyên viên khéo kiến tạo nên hỏa ngục trên trái đất này, qua những cuộc chiến tranh và những trại tập trung... Việc rao giảng về ‘bốn sự sau hết’, bằng một cách thức mới mẻ, chứ không sử dụng chúng để gây nên sợ hãi hay khiến phải giữ luật, là một phần quan trọng trong việc tân truyền bá phúc âm hóa. Những sự thật này là sứ điệp hy vọng và có ý nghĩa cho cuộc sống mà dân chúng ngày nay hết sức mong ước”.
· “Ngày nay, theo báo chí, dân số trên trái đất này đã tiến đến con số sáu tỉ người. Hôm nay đây có chừng một tỉ người Công Giáo trên thế giới và quãng cùng một con số người Kitô hữu khác, thế nhưng, hai phần ba loài người vẫn chưa biết đến Chúa Giêsu Kitô theo đức tin.
Còn một ít ngày nữa thôi chúng ta sẽ cử hành hai ngàn năm kỷ niệm việc giáng sinh của Đấng ‘vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi đã từ trời xuống thế trong lòng Trinh Nữ’, như lời tuyên xưng của Kinh Tin Kính. Bởi thế, Cuộc Kỷ Niệm Mừng Chúa Giáng Sinh chính là cuộc kỷ niệm của việc truyền giáo vậy.
Âu Châu được Thiên Chúa ưu ái đặc biệt, vì nó thực sự đã được truyền bá phúc âm hóa hoàn toàn, và từ xa xưa đã nhận được sứ điệp cứu độ. Ngày nay Âu Châu này có quên mất tặng ân đức tin của mình hay chăng? Nó có bỏ qua không thực hiện việc ban tặng ân đức tin ấy cho các dân tộc khác chưa biết đến Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, chính Đấng đã phán ‘Ngài muốn mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý’ (1Tim 2:4) hay chăng?
Trong quá khứ, Âu Châu đã liên tục và hăng say đóng góp vào việc truyền bá phúc âm hóa cho các địa lục khác. Nhờ các nhà thừa sai nam nữ của Âu Châu này, Mỹ Châu Latinh đã có 90% Công Giáo. Phi Châu cho biết con số tăng từ 2 triệu tới 110 triệu tín hữu trong một thời gian ngắn của thế kỷ chúng ta đây. Đại Dương Châu đạt tới con số chừng 30% trong tổng số dân, và Á Châu đã bị đẫm mồ hôi cùng máu đào của rất nhiều vị thừa sai sẽ sinh hoa kết trái trong tương lai. Vấn đề truyền giáo ad gentes (cho các dân tộc) cũng cần phải được tiếp tục cả ở Âu Châu nữa...”
(còn tiếp)