GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ TƯ 8/8/2007 TUẦN 18 THƯỜNG NIÊN |
? Tông Huấn Evangelii Nuntiandi của Đức Thánh Cha Phaolô VI: I- TỪ CHÚA KITÔ, ĐẤNG TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA ĐẾN GIÁO HỘI TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA (15-16)
? Thông Điệp Redemptoris Missio của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: I- CHÚA GIÊSU KITÔ LÀ ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT (9-11)
? Ánh Sáng Thế Gian - Kitô Giáo Tại Á Châu: "Á Châu là một đại lục diễm phúc vì được Thiên Chúa dùng để mạc khải và hoàn thành dự án cứu độ của Ngài"
Tông Huấn Evangelii Nuntiandi của Đức Thánh Cha Phaolô VI: I- TỪ CHÚA KITÔ, ĐẤNG TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA ĐẾN GIÁO HỘI TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
15. Mối Tương Hệ giữa Giáo Hội và Việc Truyền Bá Phúc Âm Hóa
Bất cứ người nào đọc lại nguồn gốc của Giáo Hội trong Tân Ước, theo sát lịch sử của Giáo Hội và để ý đến việc Giáo Hội sống động, đều thấy rằng, tự bản chất sâu xa nhất của mình, Giáo Hội gắn liền với việc truyền bá phúc âm hóa:
® Giáo Hội được sinh ra bởi hoạt động truyền bá phúc âm hóa của Chúa Giêsu cũng như của 12 Vị. Giáo Hội là một hoa trái dĩ nhiên, cần có, điển hình nhất và trực tiếp nhất của hoạt động truyền bá phúc âm hóa này: “Vậy các con hãy đi tuyển mộ môn đồ nơi tất cả mọi quốc gia” (Mt.28:19). Bấy giờ “họ chấp nhận những gì Phêrô nói và chịu phép rửa. Có chừng ba ngàn người nữa thêm vào số của họ ngay ngày hôm ấy… Càng ngày Chúa lại thêm vào cộng đoàn của họ những người được cứu độ” (Acts 2:41,47).
® Vì Giáo Hội vào đời là do bởi được sai đi nên Giáo Hội đã được Chúa Giêsu sai đi. Giáo Hội ở lại thế gian khi Chúa vinh hiển về cùng Cha. Giáo Hội ở lại thế gian như là một dấu chỉ – vừa lu mờ vừa sáng tỏ – cho một sự hiện diện mới của Chúa Giêsu, cho việc Người ra đi và việc Người mãi mãi hiện diện. Giáo Hội nối dài và nối tiếp Người. Nhất là Giáo Hội được kêu gọi để tiếp tục (Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium về Giáo Hội, đoạn 8: AAS 57 –1965 – p. 11; Sắc Lệnh Ad Gentes về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội, đoạn 5: A A S 58 –1966 – pp. 951-952) sứ vụ của Người, cũng như tiếp tục thân phận là một Đấng truyền bá phúc âm hóa của Người. Cộng Đồng Kitô hữu không bao giờ tự khép kín mình lại. Đời sống nội tại của cộng đồng này – một đời sống lắng nghe Lời Chúa cùng với giáo huấn của các tông đồ, một đời sống bác ái được thể hiện bằng tình huynh đệ, một đời sống bẻ bánh (x. Acts 2:42-46, 4:32-35, 5:12-16) – một đời sống như vậy chỉ đạt được ý nghĩa trọn vẹn của mình khi nó trở thành một chứng từ, khi nó gợi lên lời ngợi khen và hoán cải, cũng như khi nó trở thành lời rao giảng và loan báo Tin Mừng. Như thế, cả Giáo Hội đã lãnh nhận sứ vụ truyền bá phúc âm hóa, và việc làm của mỗi phần tử riêng biệt đều quan trọng đối với toàn thể Giáo Hội.
® Giáo Hội là một nhà truyền bá phúc âm hóa, song Giáo Hội lại được bắt đầu bằng việc được truyền bá phúc âm hóa. Giáo Hội là một cộng đồng tín hữu, một cộng đồng sống hy vọng và truyền đạt hy vọng, một cộng đồng yêu thương huynh đệ; Giáo Hội cần luôn luôn lắng nghe những gì Giáo Hội phải tin tưởng, lắng nghe những lý do Giáo Hội hy vọng, lắng nghe giới luật mới yêu thương nhau. Giáo Hội là Dân Chúa ngụp lặn trong thế gian và thường bị các ngẫu tượng lôi cuốn, Giáo Hội bao giờ cũng cần nghe loan báo về “những công cuộc quyền năng của Thiên Chúa” (x. Acts 2:11; 2Pt.2:9) để làm cho Giáo Hội quay về cùng Chúa; Giáo Hội luôn luôn cần được Người lên tiếng nhắc nhở chung và cần phải tái hiệp nhất lại với nhau. Tóm lại, nghĩa là Giáo Hội lúc nào cũng cần phải được truyền bá phúc âm hóa, nếu Giáo Hội muốn giữ được nét trẻ trung, vẻ cứng cát và sức tráng kiện để loan báo Phúc Âm. Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhắc nhở (x. Sắc Lệnh Ad Gentes về Hoạt Đồng Truyền Giáo của Giáo Hội, đoạn 5, 11-12: AAS 59 – 1966 – pp. 951-952, 959-961), rồi Thượng Hội Giám Mục Thế Giới năm 1974 cũng đã cương quyết tiếp tục, đề tài này về Giáo Hội, một Giáo Hội được truyền bá phúc âm hóa, bằng cách liên tục hoán cải và canh tân, để có uy tín thực hiện việc truyền bá phúc âm hóa thế giới.
® Giáo Hội là nơi chất chứa Tin Mừng cần phải được loan báo. Những lời hứa của cuộc Hợp Kết Mới nơi Chúa Giêsu Kitô, giáo huấn của Chúa và của các tông đồ, Lời sự sống, các nguồn ân sủng và lòng từ ái của Thiên Chúa, con đường cứu độ – tất cả những điều này đã được ký thác cho Giáo Hội. Chính nội dung của Phúc Âm, bởi đó cũng là nội dung của việc truyền bá phúc âm hóa, do Giáo Hội bảo trì như một di sản sống động quí báu, không phải là để giữ kín mà là để truyền đạt.
® Được sai đi và được truyền bá phúc âm hóa, chính Giáo Hội cũng sai các nhà truyền bá phúc âm hóa đi. Giáo Hội đặt nơi môi miệng của họ Lời cứu độ, Giáo Hội dẫn giải cho họ sứ điệp mà chính Giáo Hội là kho chất chứa, Giáo Hội trao cho họ mệnh lệnh tự Giáo Hội đã lãnh nhận và Giáo Hội sai họ đi rao giảng. Họ rao giảng không phải bản thân họ, hay những ý nghĩ tư riêng của họ, (x. 2Cor.4:5; Thánh Âu-Quốc-Tinh, sermo XLVI, De Patoribus: CCL XLI, pp. 529-530), song là Phúc Âm mà cả Giáo Hội cũng như riêng họ không có toàn quyền làm chủ hay nắm giữ, trình bày theo như ý của mình, là Phúc Âm mà họ là thừa tác viên, để họ truyền lại một cách hoàn toàn trung thực.
16. Giáo Hội bất khả phân ly với Chúa Kitô
Như thế có một liên hệ sâu xa giữa Chúa Kitô, Giáo Hội và việc truyền bá phúc âm hoá. Trong giai đoạn Giáo Hội chúng ta đang sống đây, chính Giáo Hội đang làm công việc truyền bá phúc âm hóa. Công việc đòi hỏi này không hoàn thành được, nếu thiếu Giáo Hội, càng không thể, nếu đi ngược lại với Giáo Hội.
Cần phải nhắc lại sự kiện là, vào một thời điểm như lúc này đây, chúng ta không khỏi đau lòng nghe thấy người ta – những người chúng ta tin là có chủ ý rõ ràng song chắc chắn thái độ của họ đã bị hướng dẫn đi lệch hướng – tiếp tục cho rằng mình yêu mến Chúa Kitô mà không cần yêu mến Giáo Hội, lắng nghe Chúa Kitô chứ không phải Giáo Hội, thuộc về Chúa Kitô song ở ngoài Giáo Hội. Cái vô lý buồn cười nơi việc phân rẽ này là bằng chứng rõ ràng cho câu Phúc Âm: “Ai phủ nhận các con là phủ nhận Thày” (Lk.10:16; xem Thánh Cyprianô De Unitate Ecclesiae, 14: PL 4, 527; Thánh Âu-Quốc-Tinh, Enarrat, 88, Sermo, 2, 14: PL 37, 1140; Thánh Gioan Kim Khẩu, Hom. de capto Eutropio, 6: PG 52, 462). Nếu Thánh Phaolô đã chứng tỏ cho thấy Chúa Kitô rõ ràng nhất ở chỗ: “Chúa Kitô đã yêu thương Giáo Hội và đã hy hiến mình vì Giáo Hội” (Eph.5:25), thì người ta làm sao có thể yêu mến Chúa Kitô mà lại không mến yêu Giáo Hội được.
(còn tiếp)
Thông Điệp Redemptoris Missio của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: I- CHÚA GIÊSU KITÔ LÀ ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT (9-11)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
Giáo Hội là Dấu Hiệu và là Phương Tiện Cứu Độ
9- Thừa hưởng viên đầu tiên của ơn cứu chuộc là Giáo Hội. Chúa Kitô đã chiếm được Giáo Hội bằng giá máu của mình, và làm cho Giáo Hội thành cộng sự viên của mình trong việc cứu độ thế giới. Thật vậy, Chúa Kitô ở trong Giáo Hội. Giáo Hội là Hiền Thê của Người. Chính Người là Đấng khiến cho Giáo Hội lớn lên. Người thực hiện sứ mệnh của Người qua Giáo Hội.
Công Đồng thường nhắc đến vai trò của Giáo Hội trong việc cứu độ nhân loại. Nhận thức được Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, và ban cho họ cơ hội lãnh nhận ơn cứu độ (x.1Tim.2:4; xem Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 14-17; Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 3), Giáo Hội tin rằng Thiên Chúa đã thiết lập Chúa Kitô như vị trung gian duy nhất, và chính Giáo Hội cũng được thiết lập như một bí tích cứu độ phổ quát (xem Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 48; Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, đoạn 43; Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 7, 21). “Bởi thế, tất cả mọi người được kêu gọi tham dự vào mối hiệp nhất công giáo này của dân Chúa, họ thuộc về mối hiệp nhất này, hay hướng về mối hiệp nhất này bằng nhiều cách khác nhau, dù họ là tín hữu Công Giáo, hay là các người tin vào Đức Kitô, và sau hết dù họ là tất cả mọi người ở khắp nơi nhờ ơn Chúa được kêu gọi đến ơn cứu độ” (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 13). Cần phải giữ lấy cả hai chân lý này, tức là chân lý mọi người thực sự có cơ hội được cứu độ nơi Chúa Kitô, và chân lý Giáo Hội cần thiết cho ơn cứu độ. Cả hai chân lý này giúp chúng ta hiểu được một mầu nhiệm cứu độ duy nhất, để chúng ta có thể nhận biết tình thương của Thiên Chúa, cũng như biết được trách nhiệm của riêng mình. Ơn cứu độ, một ơn bao giờ cũng là do Thần Linh ban tặng, đòi con người phải cộng tác, cả trong việc cứu lấy mình và cứu lấy cả người khác nữa. Đó là ý muốn của Thiên Chúa, và đó là lý do tại sao Ngài đã thiết lập Giáo Hội và làm cho Giáo Hội trở thành một phần thuộc dự án cứu độ của Ngài. Đối với “dân thiên sai này”, Công Đồng nói: “Dân này đã được Chúa Kitô thiết lập như một hiệp thông sự sống, yêu thương và chân lý; Người cũng muốn dùng dân này như dụng cụ cứu độ tất cả mọi người, và sai đi truyền giáo khắp thế giới như ánh sáng thế gian và như muối đất” (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 13).
Ơn Cứu Độ Nơi Chúa Kitô được Hiến Ban cho Tất Cả Mọi Người
10- Tính cách phổ quát của ơn cứu độ có nghĩa là ơn cứu độ không phải chỉ được ban cho những ai tuyên xưng tin vào Chúa Kitô và đã gia nhập Giáo Hội. Vì được ban cho tất cả mọi người, ơn cứu độ phải thuận lợi một cách cụ thể đối với mọi người. Thế nhưng, thực tế cho thấy, hôm nay đây, cũng như trong quá khứ, nhiều người không có cơ hội biết đến hay chấp nhận mạc khải Phúc Âm hoặc gia nhập Giáo Hội. Những điều kiện về xã hội và văn hóa họ sống không cho phép họ thực hiện được điều này, và họ thường được dưỡng dục theo các truyền thống tôn giáo khác. Đối với những người như vậy, mặc dù họ có liên hệ một cách mầu nhiệm nào đó với Giáo Hội, ơn cứu độ nơi Chúa Kitô bởi ân sủng cũng không làm cho họ chính thức trở thành phần tử của Giáo Hội, song chỉ soi sáng cho họ bằng một đường lối hợp với tình trạng tinh thần và thể chất của họ mà thôi. Ân sủng này là do Chúa Kitô ban cho; ân sủng ấy là hoa trái của việc Người Hiến Tế và được Thánh Linh thông ban cho. Ân sủng ấy giúp cho mỗi người đạt đến ơn cứu độ bằng việc tự do cộng tác của họ.
Vì lý do này, sau khi xác nhận vai trò chính yếu của Mầu Nhiệm Vượt Qua, Công Đồng liền tuyên bố rằng: “Mầu Nhiệm Vượt Qua không chỉ áp dụng cho Kitô hữu thôi, mà còn cho tất cả mọi người thiện chí được ân sủng âm thầm tác động trong lòng họ nữa. Vì Chúa Kitô chết cho mọi người, và vì ơn gọi tối thượng của mỗi người chúng ta phát xuất từ Thiên Chúa, do đó, ơn gọi này là một ơn gọi phổ quát, mà chúng ta buộc phải tin rằng Chúa Thánh Thần hiến cho mọi người cơ hội được thông phần vào Mầu Nhiệm Vượt Qua một cách nào đó chỉ một mình Thiên Chúa biết” (Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, đoạn 22).
“Chúng Tôi không thể nào không nói”
11- Vậy thì chúng ta phải nói làm sao về những chống đối đã được đề cập đến liên quan tới việc truyền giáo ad gentes đây? Cho dù tôn trọng niềm tin và cảm nhận của tất cả mọi người, chúng ta trước hết cũng phải tỏ tường xác nhận đức tin của mình nơi Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc duy nhất của loài người, một đức tin chúng ta đã lãnh nhận như một tặng ân bởi trời, chứ không phải như thành quả của công lênh riêng mình. Cùng với Thánh Phaolô chúng ta hãy nói rằng “tôi không hổ thẹn vì Phúc Âm: Phúc Âm là quyền năng của Thiên Chúa đối với phần rỗi cho những ai tin tưởng” (Rm.1:16). Các vị tử đạo Kitô giáo qua khắp mọi đời – kể cả thời của chúng ta đây – đã hiến mạng sống và tiếp tục hiến mạng sống của mình để minh chứng cho đức tin này, với niềm xác tín là, hết mọi con người đều cần đến Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chiến thắng tội lỗi cùng sự chết, và đã hòa giải loài người với Thiên Chúa.
Xác nhận lời của mình bằng các phép lạ và bằng việc Phục Sinh từ cõi chết, Chúa Kitô công bố Người là Con Thiên Chúa, mật thiết hiệp nhất với Cha, các môn đệ của Người cũng nhận thức được như thế. Giáo Hội cung hiến cho loài người Phúc Âm, một sứ điệp ngôn sứ đáp ứng các nhu cầu cùng với các ước vọng của tâm can con người, một sứ điệp bao giờ cũng là “Tin Mừng”. Giáo Hội không thể không loan truyền việc Chúa Giêsu đã đến để tỏ cho con người thấy dung nhan của Thiên Chúa, cũng như để lập công cứu độ cho toàn thể nhân loại, bằng Thập Tự Giá và Cuộc Phục Sinh của Người.
Đối với vấn nạn “tại sao lại truyền giáo?”, cùng với đức tin và kinh nghiệm của Giáo Hội, câu giải đáp của chúng ta đó là, việc giải phóng thực sự hệ tại việc mở lòng mình ra cho tình yêu của Chúa Kitô. Chúng ta được giải thoát khỏi mọi xa cách và ngờ vực, khỏi mọi thứ nô lệ cho quyền lực tội lỗi và sự chết, trong Người và chỉ trong Người mà thôi. Chúa Kitô thực sự là “bình an của chúng ta” (Eph.2:14); “tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta” (2Cor.5:14), ban cho đời sống chúng ta ý nghĩa và niềm vui. Truyền giáo là một vấn đề của đức tin, một chứng tỏ xác thực cho thấy niềm tin của chúng ta nơi Chúa Kitô và nơi tình Người yêu thương chúng ta.
Hôm nay đây có một khuynh hướng muốn kéo Kitô giáo xuống tầm mức khôn ngoan thuần túy loài người, một ngụy khoa học về vấn đề an sinh. Trong một thế giới bị tục hóa trầm trọng của chúng ta đây vẫn đang diễn ra một “cuộc tục hóa dần dần ơn cứu chuộc”, trong việc người ta tranh đấu cho thiện ích của con người, thế nhưng, bị cắt xén, con người đã tụt xuống chiều kích hoàn toàn theo chiều ngang. Thế mà, như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu đến để mang lại ơn cứu độ chân chính, một ơn cứu độ bao gồm trọn vẹn con người và toàn thể loài người, một ơn cứu độ mở ra một viễn ảnh tuyệt vời, hướng tới việc làm con cái thần linh. Tại sao lại truyền giáo? Bởi vì, chúng ta cũng như Thánh Phaolô “được ân sủng là để rao giảng cho Dân Ngoại các kho tàng khôn lường của Chúa Kitô” (Eph.3:8). Sự sống mới trong Chúa Kitô là một “Tin Mừng” cho con người nam nữ ở mọi thời đại: tất cả mọi người được kêu gọi đến sự sống mới này và được ấn định để thừa hưởng sự sống ấy. Thật vậy, tất cả mọi người đang tìm kiếm sự sống ấy, mặc dù có những lúc tìm kiếm bằng một đường lối lầm lẫn, và mọi người đều có quyền biết đến giá trị của tặng ân này, cũng như được tự do tiến đến với tặng ân ấy. Giáo Hội cũng như mọi người Kitô hữu ở trong Giáo Hội không được giữ kín hay độc quyền trên sự sống mới và trên kho tàng họ đã lãnh nhận bởi lòng lành Thiên Chúa là để thông truyền cho toàn thể loài người ấy.
Đó là lý do tại sao việc truyền giáo của Giáo Hội phát xuất chẳng những từ lệnh Chúa truyền, mà còn từ những đòi hỏi sâu xa nơi sự sống của Thiên Chúa ở trong chúng ta nữa. Những ai được tháp nhập vào Giáo Hội Công Giáo phải cảm nhận được đặc ân này, và chính vì lý do đó, họ càng buộc phải làm chứng cho đức tin cũng như cho đời sống Kitô giáo, như là một việc phục vụ anh chị em của mình và như là một đáp ứng tương xứng với Thiên Chúa. Họ luôn luôn phải nhớ rằng, “họ có được vị trí nổi nang không phải là do công lênh của họ, mà là do ân sủng đặc biệt của Chúa Kitô; và nếu họ không đáp ứng ân sủng này trong tử tưởng, lời nói và việc làm, thì chẳng những họ sẽ không được cứu độ, họ còn bị phán xét nghiêm ngặt hơn nữa” (Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 14).
(còn tiếp)
Ánh Sáng Thế Gian - Kitô Giáo Tại Á Châu: "Á Châu là một đại lục diễm phúc vì được Thiên Chúa dùng để mạc khải và hoàn thành dự án cứu độ của Ngài"
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Á |
Châu là một đại lục diễm phúc vì được Thiên Chúa dùng để mạc khải và hoàn thành dự án cứu độ của Ngài.
· “Giáo Hội Tại Á Châu hát lên những lời chúc tụng ‘Thiên Chúa cứu độ’ (Ps 68:20), vì miền đất Á Châu, qua những con người nam nữ của mình, đã được Ngài chọn làm nơi khởi sự dự án cứu độ của Ngài. Thực vậy, chính ở tại Á Châu, Thiên Chúa đã tỏ mình ra và đã hoàn thành mục đích cứu độ của Ngài ngay từ ban đầu. Ngài đã hướng dẫn các tổ phụ (x. Gen 12) và đã kêu gọi Moisen trong việc giải phóng dân của Ngài (x. Ex 3:10). Ngài đã nói với dân tuyển chọn của Ngài qua nhiều vị tiên tri, quan án, vua chúa và các nữ lưu có một niềm tin dũng cảm. Vào ‘thời điểm viên trọn’ (Gal 4:4), Ngài đã sai Người Con duy nhất của Ngài đến là Chúa Giêsu Kitô Cứu Thế, Đấng mặc lấy xác thịt như là một người dân Á Châu! Hân hoan trong sự tốt lành nơi dân chúng, nơi văn hóa và nơi sức sống đạo đức thuộc đại lục của mình, đồng thời cũng ý thức được tặng ân đặc thù của đức tin đã lãnh nhận cho lợi ích của tất cả mọi người, Giáo Hội Tại Á Châu không thể nào không lên tiếng ‘Cảm tạ Chúa vì Ngài nhân lành, vì tình yêu Ngài muôn đời bền vững’ (Ps 118:1).
Bởi Chúa Giêsu được sinh ra, sinh sống, chết đi và sống lại từ cõi chết ở Thánh Địa mà phần đất nhỏ bé Tây Á đó đã trở nên một mảnh đất hứa hẹn và hy vọng cho toàn thể loài người. Chúa Giêsu nhìn nhận và yêu thương mảnh đất này. Người đã biến lịch sử của nó thành lịch sử của mình, những khổ đau và niềm hy vọng của dân ấy thành khổ đau và niềm hy vọng của mình. Người đã yêu thương dân ấy và đã tuân giữ các truyền thống và di sản Do Thái. Thật thế, từ xa xưa Thiên Chúa đã chọn dân này và đã tỏ mình ra cho họ để dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Và rồi từ mảnh đất này, qua việc rao giảng Phúc Âm bằng quyền năng Chúa Thánh Thần, Giáo Hội đã ra đi chiêu mộ ‘các môn đồ nơi mọi dân tộc’ (Mt 28:19). Cùng với Giáo Hội khắp thế giới, Giáo Hội Tại Á Châu bước qua ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba Kitô Giáo, chiêm ngưỡng tất cả những gì Thiên Chúa đã thực hiện từ ban đầu cho tới nay, với một nhận thức mạnh mẽ là: ‘Thánh Giá được trồng trên đất Âu Châu trong thiên niên thứ nhất, và trong thiên niên thứ hai trên đất Mỹ Châu và Phi Châu thế nào, thì chúng ta cũng có thể nguyện cầu để trong ngàn năm thứ ba sẽ gặt hái một vụ mùa đức tin dồi dào nơi đại lục rộng lớn và sinh động này’ (ĐTC Gioan Phaolô II, Diễn Tử ngỏ cùng Hội Nghị Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu ngày 15/1/1995, đoạn 11: Insegnamenti XVIII, 1/1995, 159)”.
(ĐTC Gioan Phaolô II, Tông Thư Giáo Hội Tại Á Châu Ecclesia In Asia, đoạn 1:
tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 10/11/1999)
Á Châu là một đại lục lớn nhất thế giới và đông dân nhất hoàn cầu, một dân thiên về đạo nghĩa, nơi phát xuất ra mọi thứ đạo giáo lớn chính yếu trên thế giới:
· “Á Châu là một địa lục lớn nhất trái đất và là nơi cư ngụ của gần hai phần ba dân số thế giới, nguyên Trung Hoa và Ấn Độ đã chiếm gần nửa tổng số dân trên hoàn vũ. Đặc tính nổi bật nhất của địa lục này là những nét khác nhau của dân chúng, thành phần là ‘con cháu thừa hưởng các nền văn hóa, tôn giáo và truyền thống cổ kính’ (Propositio, đoạn 3). Chúng ta không khỏi lạ lùng trước toàn khối dân Á Châu cũng như trước một bức họa phức hợp cấu tạo nên bởi nhiều thứ văn hóa, ngôn ngữ, niềm tin và truyền thống, là tất cả những gì bao gồm cả một phần trọng yếu nơi lịch sử cũng như truyền thống của gia đình nhân loại như thế.
Á Châu cũng là một cái nôi của các tôn giáo chính trên thế giới, như Do Thái Giáo, Kitô Giáo, Hồi Giáo và Ấn Giáo. Nó là nơi sinh trưởng của nhiều truyền thống về tâm linh khác nữa, như Phật Giáo, Lão Giáo, Khổng Giáo, Zoroastrianism, Jainism, Sikhism và Nhật Giáo. Nhiều triệu người cũng theo các đạo giáo cổ truyền hay đạo giáo bộ lạc, ở mức độ khác nhau về lễ nghi được ấn định cũng như về giáo huấn chính thức của đạo giáo. Giáo Hội hết sức tôn trọng những truyền thống này và tìm cách để đối thoại chân thành với các môn đồ của các truyền thống ấy. Các gía trị về đạo nghĩa nơi những truyền thống này đang đợi chờ để được nên trọn nơi Chúa Giêsu Kitô.
Dân Á Châu hãnh diện về các gía trị đạo nghĩa và văn hóa của mình, như gíá trị về việc yêu thích thinh lặng và chiêm niệm, về tính chất đơn thành, thuận hòa, thanh thoát, bất bạo động, tinh thần cần cù làm việc, kỷ cương, sống tiết kiệm, khao khát học hỏi và tìm hiểu triết lý (x. Lineamenta, đoạn 3). Họ tha thiết giữ các gía trị về việc tôn trọng sự sống, về lòng thương cảm đối với hết mọi sự vật, về việc sống gần gũi với thiên nhiên, về lòng hiếu kính đối với cha mẹ, với người già cả và với ông bà tổ tiên, cũng như về cảm quan cộng đồng cao độ (x. ibid.). Họ đặc biệt coi gia đình chính là nguồn sinh lực sống còn, là một cộng đoàn quyện chặt lấy nhau bằng một cảm quan liên kết mạnh mẽ (x. Propositio, đoạn 32). Các người dân Á Châu nổi tiếng về tinh thần khoan hòa theo tôn giáo và về việc chung sống thuận hòa. Tuy không thể phủ nhận được là có những căng thẳng gay cấn và những xung khắc nẩy lửa đã xẩy ra, người ta vẫn có thể nói rằng, Á Châu thường tỏ ra cho thấy nó có một khả năng đặc biệt trong việc dung hợp, cũng như có một tính cách cởi mở tự nhiên, đối với việc hỗ tương làm cho các dân được phong phú trong một tình trạng đa dạng về tôn giáo và văn hóa. Ngoài ra, mặc dù bị ảnh hưởng bởi trào lưu tân tiến hóa và thế tục hóa, các tôn giáo Á Châu vẫn đang tỏ ra cho thấy những dấu hiệu sinh động cả thể, cũng như cho thấy có khả năng canh tân cải tiến, như được thấy xẩy ra nơi những phong trào đổi mới thuộc các nhóm tôn giáo khác nhau. Nhiều người, nhất là giới trẻ, đang thực sự cảm nghiệm thấy một nỗi khát khao những giá trị thiêng liêng, như rõ ràng chứng tỏ nơi việc xuất hiện của các phong trào đạo giáo mới mẻ.
Tất cả những điều này nói lên một minh thức thiêng liêng bẩm sinh và khôn ngoan về luân lý nơi hồn thiêng Châu Á, và là cốt lõi cho cảm quan ‘là dân Á Châu’ càng ngày càng tăng lên. Cái cảm quan ‘là dân Á Châu’ này thật sự được nhận thức và nhận định không phải với tính cách khiêu khích nhau và đối chọi nhau, nhưng trong một tinh thần tương trợ cho nhau và hòa hợp với nhau. Trong khung cảnh tương trợ và hòa hợp này, Giáo Hội có thể truyền đạt Phúc Âm bằng một đường lối trung thành với cả Truyền Thống của mình cũng như với hồn thiêng Châu Á”.
(cùng nguồn, đoạn 6)
Á Châu có một lịch sử Kitô Giáo lâu đời như chính lịch sử của Giáo Hội Kitô Giáo, song lại là một lịch sử bị gián đoạn, bất toàn và không đạt đến mức trọn vẹn tối đa, cần phải được tiếp tục cho đến hoàn thành
.
· “Lịch sử của Giáo Hội Tại Á Châu lâu đời như chính Giáo Hội, vì chính ở tại Á Châu, Chúa Giêsu đã thở Chúa Thánh Thần trên các môn đệ của Người, và đã sai các vị đi đến tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng và thành lập các cộng đồng tín hữu. ‘Như Cha đã sai Thày thế nào, Thày cũng sai các con như vậy’ (Jn 20:21; cũng xem cả Mt 28:18-20; Mk 16:15-18; Lk 24:47; Acts 1:8). Theo lệnh Chúa truyền, các vị Tông Đồ đã rao giảng lời Chúa và đã thành lập các Giáo Hội. Cũng cần phải nhắc lại nơi đây một số yếu tố của giòng lịch sử lạ lùng và phức tạp này.
Từ Gialiêm, Giáo Hội lan tới Antiôkia, tới Rôma và xa hơn nữa. Giáo Hội lan tới Êthiôpia ở miền Nam, Scythia ở miền Bắc, tới Ấn Độ ở miền Đông, nơi mà theo truyền tụng Thánh Tôma Tông Đồ đã đặt chân tới vào năm 52 và đã thành lập các Giáo Hội ở miền Nam Ấn. Đáng chú ý là tinh thần truyền giáo của cộng đồng Syria phía Đông vào thế kỷ thứ ba và thứ tư, có trung tâm ở Edessa. Các cộng đoàn khắc khổ của Syria là một lực lượng chính cho việc truyền bá phúc âm hóa ở Á Châu từ thế kỷ thứ ba trở đi. Họ cung cấp một nghị lực thiêng liêng cho Giáo Hội, nhất là trong những thời gian cấm cách. Vào cuối thế kỷ thứ ba, quốc gia đầu tiên hoàn toàn theo Kitô Giáo là Armenia, nay đang sửa soạn mừng 1700 năm được lãnh nhận phép thánh tẩy của mình. Vào cuối thế kỷ thứ năm, sứ điệp Kitô Giáo đã lan tới các vương quốc Ả Rập, thế nhưng, vì nhiều lý do, bao gồm cả lý do chia rẽ nhau giữa những người Kitô hữu, sứ điệp này đã không ăn sâu nơi các dân tộc này.
Các người giao thương Ba Tư đã đem Tin Mừng đến Trung Hoa vào thế kỷ thứ năm. Giáo Hội Kitô Giáo đầu tiên được thiết lập ở Trung Hoa vào đầu thế kỷ thứ bảy. Trong thời Nhà Đường (618-907 AD), Giáo Hội phát triển gần hai thế kỷ. Việc xuống dốc của Giáo Hội sinh động ở Trung Hoa vào cuối thiên niên thứ nhất này là một trong những trang sử đau thương hơn hết trong lịch sử Dân Chúa ở địa lục này.
Vào thế kỷ 13, Tin Mừng được loan báo cho các người Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ, cho cả người Trung Hoa một lần nữa. Thế nhưng, Kitô Giáo hầu như đã biến mất ở những miền này vì một số lý do, trong đó có việc nổi dậy của Hồi Giáo, việc cô lập về địa dư, việc thiếu thích ứng xứng hợp với các thứ văn hóa địa phương, và nhất là có lẽ vì thiếu sửa soạn để giáp diện với các tôn giáo lớn ở Á Châu. Việc suy giảm thảm thương của Giáo Hội Tại Á Châu, trừ cộng đồng bị cô lập ở Nam Ấn, đã xẩy ra vào cuối thế kỷ 14. Giáo Hội Tại Á Châu đã phải đợi chờ một kỷ nguyên của công sức truyền giáo mới.
Những lao nhọc làm việc tông đồ của Thánh Phanxicô Xaviê, việc Đức Grêgôriô XV thành lập Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin, và những chỉ thị cho các nhà thừa sai phải tôn trọng và cảm nhận các nền văn hóa địa phương, tất cả đã đóng góp vào việc thâu đạt được những thành quả khả quan hơn trong giai đoạn thế kỷ 16 và 17. Vào thế kỷ 19, lại tái diễn công cuộc hoạt động truyền giáo. Các hội dòng khác nhau đã hết sức dấn thân thực hiện công việc này. Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin được tổ chức lại. Việc thiết lập các Giáo Hội địa phương được nhấn mạnh hơn. Các công cuộc về giáo dục và bác ái sát cánh với với việc rao giảng Phúc Âm. Kết quả là Tin Mừng đã tiếp tục lan tới nhiều người hơn, nhất là nơi thành phần nghèo nàn và không được ưu đãi, nơi cả một số thành phần có thế gía về xã hội và trí thức. Những nỗ lực mới được thực hiện trong việc hội nhập Tin Mừng, tuy những nỗ lực này không đi đến đâu. Mặc dù đã hiện diện qua nhiều thế kỷ và đã thực hiện nhiều nỗ lực tông đồ, Giáo Hội tại nhiều nơi vẫn bị coi như là một thứ ngoại bang đối với Á Châu, và dân chúng thực sự nghĩ rằng các Giáo Hội này thường dính dáng tới quyền lực thuộc địa.
... Trong một thế giới rất khác biệt về văn hóa ở Á Châu, Giáo Hội phải đối diện với nhiều thách đố về triết lý, thần học và mục vụ. Công việc của Giáo Hội càng trở nên khó khăn hơn bởi tình trạng thiểu số của mình, trừ duy một mình Phi Luật Tân là nơi Công Giáo chiếm đa số.
Bất cứ gặp hoàn cảnh nào đi nữa, Giáo Hội Tại Á Châu cũng phải ở giữa dân chúng, thành phần tỏ ra thiết tha khát vọng Thiên Chúa. Giáo Hội biết rằng nỗi khát vọng này chỉ có thể được hoàn toàn thỏa mãn bởi Chúa Giêsu Kitô, Tin Mừng của Thiên Chúa cho tất cả mọi dân nước”.
(cùng nguồn, đoạn 9)
Giáo Hội Tại Á Châu đang phải đương đầu với vấn đề hết sức tế nhị và nhức nhối, đó là vấn đề làm sao để loan truyền cho dân chúng Á Châu chân lý Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất, để làm cho họ thực sự và hoàn toàn tin nhận Người.
· “Thật vậy, ngay khi còn trong giai đoạn tham vấn trước Cuộc Thượng Hội, nhiều vị Giám Mục Á Châu đã quan tâm tới những khó khăn nơi việc loan báo Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế duy nhất. Trong Cuộc Thượng Hội, vấn đề được trình bày như sau: ‘Một số môn đồ của các tôn giáo lớn khác ở Á Châu không gặp trục trặc gì về việc chấp nhận Chúa Giêsu như là một biểu hiện của Thần Linh hay của Đấng Tối Cao, hoặc như là một ‘vị được minh tri’. Thế nhưng, họ khó có thể coi Người như là một biểu hiện duy nhất của Thần Linh’ (Relatio Ante Disceptationem, đoạn 5). Thật vậy, nỗ lực để chia sẻ tặng ân đức tin vào Chúa Giêsu như Đấng Cứu Thế duy nhất gắn liền với những khó khăn về triết lý, văn hóa và thần học, nhất là gắn liền với những khó khăn về niềm tin nơi các tôn giáo lớn ở Á Châu, là những gì đã sâu xa kết chặt vào các gía trị văn hóa cũng như vào các vũ trụ quan riêng biệt.
Theo ý nghĩ của các vị Nghị Phụ trong Thượng Hội thì cái khó khăn này còn được nối kết với sự kiện là Chúa Giêsu thường được coi như người ngoại quốc đối với Á Châu. Thật là ngược đời ở chỗ, hầu hết dân Á Châu có khuynh hướng coi Chúa Giêsu, vị được sinh ra tại đất Á Châu, như là một người Tây Phương hơn là một nhân vật Á Châu. Khó có thể tránh được việc các vị thừa sai Tây Phương loan báo Phúc Âm bị chi phối bởi các thứ văn hóa của quê hương xứ sở của các vị. Các Nghị Phụ Thượng Hội đã nhìn nhận điều này là một sự kiện không thể tránh được trong lịch sử truyền bá phúc âm hóa...
... Bởi thế, công việc loan truyền Chúa Giêsu bằng đường lối làm sao cho dân chúng Á Châu nhận ra Người giống như họ, trong khi vẫn trung thành với cả tín lý về thần học của Giáo Hội và trung thành với cả các nguồn gốc riêng của Á Châu, quả là một thách đố ngất trời”.
(cùng nguồn, đoạn 20)
Để loan báo Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất của loài người, Giáo Hội Tại Á Châu phải vừa hội nhập văn hóa lại phải vừa trung thành với căn tính Kitô Giáo của mình nữa.
· “Việc trình bày Chúa Giêsu Kitô như là một Đấng Cứu Thế duy nhất cần phải có phương pháp để đem con người từ từ đến việc hoàn toàn thấu triệt được mầu nhiệm này. Hiển nhiên là việc truyền bá phúc âm hóa tiên khởi cho những người ngoài Kitô giáo và việc tiếp tục loan báo Chúa Kitô cho tín hữu khác nhau về phương pháp. Chẳng hạn, trong việc loan báo tiên khởi, thì ‘việc trình bày về Chúa Giêsu Kitô có thể như là một việc làm thỏa mãn những khát khao được bộc lộ qua các huyền thoại và truyền thuyết của những người dân Á Châu’ (Relatio Post Disceptationem, đoạn 15). Nói chung, các phương pháp kể truyện quen thuộc với các hình thức văn hóa Á Châu phải được coi trọng. Thật vậy, việc loan báo Chúa Giêsu Kitô có thể gây tác dụng nhất bằng cách kể truyện về Người như Phúc Âm đã từng làm. Những quan niệm siêu hình trong truyện kể, những quan niệm bao giờ cũng phải được nghĩ tưởng và bày tỏ khi nói về Chúa Giêsu, có thể được dẫn giải bằng những phối cảnh tương quan, phối cảnh lịch sử và ngay cả phối cảnh về vũ trụ nữa. Các Nghị Phụ của Thượng Hội đề nghị là Giáo Hội phải cởi mở hơn đối với những cách thức mới mẻ và lạ lùng làm cho dung nhan của Chúa Giêsu được trình bày theo kiểu Á Châu (x. ibid.).
Thượng Hội đề nghị là việc dạy giáo lý sau này phải theo ‘phương pháp gợi bày, bằng việc dùng những câu truyện, dụ ngôn và các biểu tượng có đặc tính phương pháp giảng dạy của Á Châu’ (ibid.). Sứ vụ của chính Chúa Giêsu tỏ tường cho thấy giá trị của việc tiếp xúc riêng tư, một việc tiếp xúc đòi nhà truyền bá phúc âm hóa chú ý đến tình trạng của thính giả, để làm cho việc loan báo thích ứng với trình độ trưởng thành của người nghe, cũng như bằng một thể thức và ngôn từ thích hợp. Theo quan niệm này, Các Nghị Phụ Thượng Hội đã nhiều lần nhấn mạnh đến nhu cầu truyền bá phúc âm hóa bằng cách thức đánh động cảm tình của những người dân Á Châu, và các vị cũng đề nghị hình ảnh về Chúa Giêsu cần phải được tỏ hiện đối với tâm trí và văn hóa Á Châu, đồng thời vẫn trung thành với Thánh Kinh và Truyền Thống. Trong số các hình ảnh này có hình ảnh ‘Chúa Giêsu Kitô là Vị Tôn Sư Khôn Ngoan, là Đấng Chữa Lành, là Nhà Giải Phóng, là Vị Hướng Dẫn Thần Linh, là Đấng Minh Tri, là Người Bạn Cảm Thương Kẻ Nghèo Khó, là Người Samaritanô Nhân Từ, là Vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng Phục Tùng’ (Propositio, đoạn 6). Chúa Kitô có thể được trình bày như Sự Khôn Ngoan Nhập Thể của Thiên Chúa, Đấng làm cho các ‘hạt giống’ của Sự Khôn Ngoan thần linh vốn có nơi đời sống, tôn giáo và dân chúng Á Châu sinh hoa kết trái (x. Relatio Post Disceptationem, đoạn 6). Giữa bao nhiêu khổ đau xẩy ra nơi dân chúng Á Châu, Người cần phải được loan báo như là một Vị Cứu Tinh, ‘Đấng có thể cống hiến ý nghĩa sống cho những ai chịu đớn đau và thống khổ khôn xiết tả’ (ibid.).
Đức tin được Giáo Hội hiến ban cho con cái nam nữ Á Châu của mình không thể bị đóng khung trong những giới hạn về hiểu biết và diễn tả của bất cứ một nền văn hóa nhân loại đơn độc nào, vì đức tin này siêu việt trên những giới hạn ấy và thực sự thách đố tất cả mọi nền văn hóa vươn lên tới những mực độ mới cao hơn trong việc hiểu biết và diễn đạt. Các Nghị Phụ của Thượng Hội Giám Mục Á Châu cũng thừa biết nhu cầu khẩn thiết của các Giáo Hội địa phương ở Á Châu trong việc trình bày mầu nhiệm Chúa Kitô cho dân chúng, theo cung cách văn hóa của họ cũng như theo đường lối suy tư của họ. Các vị cho thấy rằng, một cuộc hội nhập văn hóa của đức tin như vậy nơi địa lục của các vị bao gồm cả việc tái khám phá ra dung nhan Á Châu của Chúa Giêsu, cùng những đường lối tương tự giúp cho các nền văn hóa Á Châu có thể nắm được tầm quan trọng cứu độ phổ quát nơi mầu nhiệm Chúa Giêsu cũng như nơi mầu nhiệm Giáo Hội của Người. (x. Relatio ante disceptationem, đoạn 5). Việc hiểu biết sâu xa về dân chúng cũng như về văn hóa của họ, điển hình nơi một số con người nên nhắc đến như Giovanni da Montecorvino, Matteo Ricci và Roberto de Nobili, cần phải được bắt chước áp dụng vào thời điểm hiện nay”.
(cùng nguồn, đoạn 20)
(còn tiếp)