|
||||
|
||||
CHÚA NHẬT 13/1/2008
"Với Chúa Giêsu
Kitô,
phúc lành của
Anbraham đã được vươn tới tất cả mọi dân nước"
Bí Mật
Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria
Hiệp Thông với Giáo Hội Việt Nam
"Với Chúa
Giêsu Kitô, phúc lành của Anbraham đã được vươn tới tất cả mọi dân nước"
ĐTC Biển Đức XVI: Bài Giảng
Lễ Hiển Linh 6/1/2008
tại Đền Thờ Vatican
Anh Chị Em
thân mến,
Hôm nay,
chúng ta đang mừng lễ Chúa Kitô là Ánh Sáng thế gian và việc Người tỏ mình
ra cho chư dân. Vào Ngày Lễ Giáng Sinh, sứ điệp của phụng vụ vang lên những
lời này: "Hodie descendit lux magna super terram – Hôm nay, một ánh
sáng cả thể tỏa chiếu trên mặt đất” (Sách Lễ Rôma). Ở Bêlem, “ánh sáng vĩ
đại” này đã xuất hiện cho một nhóm nhỏ dân chúng, cho thành phần nhỏ nhoi
“còn lại của Yến Duyên”, đó là Trinh Nữ Maria, phu quân Giuse của trinh nữ
cùng một ít mục đồng. Đó là một ánh sáng leo loét vì là kiểu cách của Vị
Thiên Chúa chân thực; một ánh lửa được thắp lên trong đêm tối, đó là một hài
nhi mới sinh yếu ớt kêu khóc trong cảnh thinh lặng của thế giới này… thế
nhưng, cuộc hạ sinh kín ẩn không nổi nang này lại được kèm theo bởi những
bài thánh ca chúc tụng của các cơ binh trên trời hát lên để tôn vinh và chúc
an bình (x Lk 2:13-14).
Bởi thế, cho
dù việc xuất hiện của ánh sáng này trên mặt đất có vẻ tầm thường, nhưng nó
lại được phóng lên các tầng trời, ở chỗ, việc hạ sinh của Vị Vua dân Do Thái
đã được loan báo bằng sự xuất hiện của một ngôi sao. Điều này được chứng
thực bởi một số “con người khôn ngoan” từ Đông phương đến Giêrusalem sau khi
Chúa Giêsu giáng sinh ít lâu, trong thời của Vua Hêrôđê (x Mt 2:1-2). Một
lần nữa, trời và đất, vũ trụ và lịch sử, kêu gọi nhau đáp ứng. Những lời
tiên tri được xác nhận nơi ngôn từ của các vì sao. “Một ngôi sao sẽ xuất
hiện từ Giacóp, và cây vương trượng xuất phát từ Yến Duyên” (Dân Số 24:17),
Balaam là vị thụ khải dân ngoại đã loan báo, khi ông được triệu tới để
nguyền rủa Dân Yến Duyên, thành phần lại được ông chúc chục, vì, như Thiên
Chúa đã mạc khải cho ông, “họ là kẻ được chúc phúc” (Dân Số 22:12). Trong
việc dẫn giải về Phúc Âm Thánh Mathêu, Cromatius ở Aquileia đã liên kết
Ballam với các Vị Đạo Sĩ Chiêm Gia như thế này: “Ông đã nói tiên tri rằng
Đức Kitô sẽ đến; họ đã thấy Người bằng con mắt tin tưởng”. Rồi ông thêm một
nhận định quan trọng nữa: “Ngôi sao này được mọi người nhìn thấy nhưng không
phải là hết mọi người đều hiểu được ý nghĩa của nó. Cũng thế, Chúa của chúng
ta và là Đấng Cứu Thế của chúng ta đã được hạ sinh cho hết mọi người, thế
nhưng không phải hết mọi người đã đón nhận Người” (4:12). Đến đây sáng tỏ ý
nghĩa của biểu hiệu ánh sáng được áp dụng vào việc hạ sinh của Chúa Kitô: nó
thể hiện việc Thiên Chúa đặc biệt chúc lành cho giòng dõi Abraham là phúc
lành được ấn định bao gồm tất cả mọi dân tộc trên trái đất này nữa.
Biến cố Phúc
Âm chúng ta đang tưởng niệm về Việc Hiển Linh – việc các Vị Đạo Sĩ Chiêm Gia
viếng thăm Con Trẻ Giêsu ở Bêlem – như thế đưa chúng ta trở về với cội nguồn
lịch sử của Dân Chúa, tức là về với ơn gọi của Abraham. Chúng ta đang ở
Chương 12 của Sách Khởi Nguyên. Mười một chương đầu như là những bức đại
bích họa trả lời cho một số vấn đề nống cốt của nhân loại chẳng hạn như đâu
là nguồn gốc của vũ trụ cũng như của loài người? Sự dữ bởi đâu mà có? Tại
sao lại có những thứ ngôn ngữ và nền văn minh khác nhau? Trong số những
trình thuật được Thánh Kinh mở đầu, có “giao ước” đầu tiên Thiên Chúa thực
hiện với Noe sau hồng thủy. Nó là một giao ước phổ quát liên quan tới toàn
thể nhân loại: một giao ước mới với gia đình Noe đồng thời cũng là giao ước
với “tất cả những gì là xác thịt”. Bởi thế, trước khi Abraham được kêu gọi,
đã có một bức đại bích họa khác rất quan trọng để có thể hiểu được ý nghĩa
của Lễ Hiển Linh, đó là bức đại bích họa Tháp Babel. Sách thánh nói rằng
ngay từ ban đầu, “toàn thể trái đất chỉ có một ngôn ngữ và ít lời nói” (Gen
11:1). Thế rồi con người đã nói: “Nào, chúng ta hãy xây cho mình một thành
phố, và một cái tháp vươn lên tới các tầng trời để chúng ta được lưu danh
muôn thuở, kẻo chúng ta bị phân tán di khắp mặt đất này” (Gen 11:4). Hậu quả
của thứ tội ngạo mãn kiêu hãnh này, tương tự như tội của Adong và Evà, đó
là tình trrạng lẫn lộn về ngôn ngữ và tình trạng phân tán của nhân loại trên
khắp trái đất này (x Gen 11:7-8). Đó là ý nghĩa của “Babel” và là một thứ bị
nguyền rủa, giống như việc bị tống khứ ra khỏi địa đường trần thế vậy.
Tới đây, qua
ơn gọi của Abraham, câu truyện phúc lành được bắt đầu: đó là khởi đầu cho dự
án lớn lao của Thiên Chúa trong việc làm cho nhân loại thành một gia đình
duy nhất nhờ giao ước với một dân tộc mới, được Ngài tuyển chọn để trở
thành phúc lành giữa tất cả mọi dân nước (x Gen 12:1-3). Dự án thần linh này
vẫn còn đang được áp dụng: Nó đạt đến tuyệt đỉnh nơi mầu nhiệm Chúa Kitô.
Bởi vậy mà “thời sau hết” đã bắt đầu, ở chỗ, dự án này đã hoàn toàn được tỏ
hiện và được nên trọn nơi Đức Kitô, thế nhưng cần phải được lịch sử loài
người chấp nhận, một lịch sử bao giờ cũng là lịch sử cũa lòng trung thành về
phần Thiên Chúa, song tiếc thay cũng là lịch sử của việc bất trung về phía
loài người chúng ta. Chính Giáo Hội, kho tàng chất chứa phúc lành này, là
thánh mà lại được kết hợp bởi các tội nhân, có đặc tính căng thẳng giữa “cái
đã rồi’ và “cái chưa xong”. Vào thời điểm viên trọn, Chúa Giêsu Kitô đã đến
để làm cho giao ước ấy nên trọn: chính Người, Thiên Chúa thật và là người
thật, là Bí Tích cho lòng trung thành của Thiên Chúa đối với dự án cứu độ
của Ngài giành cho toàn thể nhân loại, cho tất cả chúng ta.
Việc các Đại
Sĩ Chiêm Gia từ Phương Đông đến Bêlem để tôn thờ Đấng Thiên Sai mới sinh là
một dấu hiệu tỏ mình của Vị Vua hoàn vũ này trước chư dân cũng như trước tất
cả những ai tìm kiếm chân lý. Nó là khởi đầu của một hướng động ngược lại
với hướng động của tháp Babel, tức từ tình trạng lẫn lộn đến tình trạng thấu
hiểu, từ tình trạng phân tán đến tình trạng hòa giải. Như thế, chúng ta nhận
thức được cái liên hệ giữa Hiển Linh và Hiện Xuống, ở chỗ, nếu Việc Giáng
Sinh của Chúa Kitô, Đấng là Đầu, cũng là việc Hạ Sinh của Giáo Hội, Thân
Mình của Người, chúng ta có thể thấy ba Nhà Đạo Sĩ Chiêm Gia như là thành
phần được liên kết với thành phần còn sót lại của Yến Duyên, tiên báo một
dấu hiệu cả thể của một “Giáo Hội đa ngôn ngữ” do Thánh Linh thực hiện 50
ngày sau Phục Sinh. Tình yêu thủy chung và kiên trì của Thiên Chúa không bao
giờ bị hụt hẫng nơi giáo ước của Ngài từ đời nọ đến đời kia là một “mầu
nhiệm” được Thánh Phaolô nói tới trong các Bức Thư của ngài cũng như trong
đoạn của Bức Thư gửi Giáo Đoàn Êphêsô vừa được công bố, ở chỗ, vị Tông Đồ
này nói rằng mầu nhiệm ấy “được tỏ cho tôi biết qua mạc khải” (Eph 3:3).
“Mầu nhiệm” về
lòng trung thành này của Thiên Chúa là những gì tạo nên niềm hy vọng cho
lịch sử. Dĩ nhiên là nó ngược lại với những chiều hướng chia rẽ và chuyên
chế bạo tàn làm tổn thương nhân loại bởi tội lỗi cũng như bởi những thứ xung
đột của lòng vị kỷ. Giáo Hội trong giòng lịch sử đang phục vụ cho “mầu nhiệm”
phúc lành cho toàn thể nhân loại này. Giáo Hội hoàn toàn thực hiện sứ vụ của
mình nơi mầu nhiệm trung thành này của Thiên Chúa chỉ khi nào Giáo Hội phản
ảnh ánh sáng của Đức Kitô là Chúa trong bản thân mình, nhờ đó giúp cho chư
dân trên thế giới tiến tới hòa bình và tiến bộ đích thực. Thật vậy, Lời của
Thiên Chúa được mạc khải qua Tiên Tri Isaia vẫn còn tiếp tục được áp dụng,
đó là: “tối tăm sẽ bao trùm trái đất, và tăm tối dầy đặc bao phủ chư dân ;
thế nhưng Chúa sẽ xuất hiện trên các người, và vinh quang của Ngài sẽ tỏ
hiện trên các người” (Is 60:2). Những gì vị tiên tri này loan báo ở
Giêrusalem đã được nên trọn nơi Giáo Hội của Chúa Kitô: “các quốc gia sẽ đến
với ánh sáng của ngươi và các vua chúa sẽ đến với ánh quang rạng ngời của
việc ngươi xuất hiện” (Is 60:3).
Với Chúa Giêsu
Kitô, phúc lành của Anbraham đã được vươn tới tất cả mọi dân nước, tới Giáo
Hội hoàn vũ như là một tân Yến Duyên đón nhận nơi mình toàn thể nhân loại.
Tuy nhiên, những gì vị tiên tri này nói cũng đúng với cả ngày nay nữa ở
nhiều ý nghĩa: “Tối tăm day đặc đang bao trùm chư dân” và lịch sử của chúng
ta. Thật vậy, không thể nói rằng “việc toàn cầu hóa” là những gì đồng nghĩa
với “trật tự của thế giới” – mà là hoàn toàn ngược lại. Những thứ xung khắc
trong việc nắm ưu thế về kinh tế và tích trữ những nguồn năng lượng, nước
nôi và các thứ nguyên liệu là những gì cản trở công cuộc của tất cả những ai
đang nỗ lực ở mọi lãnh vực để thiết dựng một thế giới công chính và vững
vàng. Cần phải hy vọng hơn nữa, một niềm hy vọng sẽ trở thành khả dĩ khi coi
công ích của tất cả mọi người hơn tất cả những thứ xa xỉ của một số ít người
và chú ý tới tình trạng nghèo khổ của một số nhiều người. “Niềm hy vọng cao
cả này chỉ có thể là Thiên Chúa… chứ không phải bất cứ một thần linh nào
khác, thế nhưng lại là vị Thiên Chúa có một dung nhan con người” (Thông Điệp
Spe Salvi, 31): Vị Thiên Chúa tỏ mình ra nơi Con Trẻ ở Bêlem và nơi Đấng Tử
Giá và Phục Sinh. Niềm hy vọng lớn lao nếu có thì cần phải kiên trì trong
tình trạng điều độ. Nếu thiếu đi niềm hy vọng thực sự thì hạnh phúc chỉ tìm
thấy nơi việc say sưa chè chén, nơi tình trạng thừa thãi, nơi những gì là
thái quá, và chúng ta đi đến chỗ hủy hoại đi bản thân mình và thế giới. Bởi
thế, điều độ chẳng những là một kỷ cương về khổ chế mà còn kà một đường lối
cứu độ cho nhân loại nữa. Như vậy hiển nhiên là chỉ bằng việc chấp nhận lối
sống điều độ, được kèm theo bằng một nỗ lực nghiêm chỉnh đối với vấn đề phân
phối đồng đều tình trạng giầu thịnh, mới có thể thiết lập một trật tự phát
tiển chân chính và khả trợ. Đó là lý do chúng ta cần người ta nuôi dưỡng
niềm hy vọng cao cả, nhờ đó có lòng can đảm lớn lao: một lòng can đảm của ba
Đạo Sĩ Chiêm Gia, những người đã thực hiện một cuộc hành trình dài theo đuổi
ngôi sao để có thể bái quì trước một Con Trẻ mà dâng lên Người những quà
tặng quí báu. Tất c ả chúng ta cần đến lòng can đảm này, một lòng can đảm
gắn liền với niềm hy vọng mãnh liệt. Chớ gì Mẹ Maria xin cho chúng ta ơn ấy,
khi đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình trần thế bằng việc bảo bọc
chở che từ mẫu của Mẹ. Amen!
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu
của Tòa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2008/documents/hf_ben-xvi_hom_20080106_epifania_en.html
Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria
Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)
Bản Dịch của
Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, BVL
Chương Một:
Tôn Sùng Mẹ Maria - Cần Thiết
III. Những
Thành Quả
37. Chúng ta cần
phải
minh nhiên đúc
kết
những
gì tôi vừa
nói: Thứ
Nhất,
Mẹ
Maria đã
được
Thiên Chúa ban cho quyền
chủ
trị
rộng
lớn
trên các linh hồn
tuyển
chọn.
Bằng
không, Mẹ
không thể
làm nơi
cư
ngụ
của
Mẹ
nơi
họ
như
Thiên Chúa Cha đã
chỉ
thị
cho Mẹ
thực
hiện,
và Mẹ
cũng
không thể
cưu
mang họ,
nuôi dưỡng
họ,
và làm cho họ
được
sống
đời
đời
với
tư
cách làm mẹ
của
họ.
Bằng
không, họ
không thể
trở
thành gia sản
của
Mẹ,
làm sở
hữu
của
Mẹ,
và Mẹ
không thể
hình thành họ
trong Chúa Giêsu và Chúa Giêsu trong họ.
Bằng
không, Mẹ
không thể
cấy
vào lòng họ
những
gốc
rễ
nhân đức
của
Mẹ,
cũng
không thể
trở
thành cộng
tác viên bất
khả
phân ly của
Chúa Thánh Thần
trong tất
cả
những
việc
làm của
ân sủng
ấy.
Tôi xin lập
lại,
Mẹ
không làm được
một
sự
gì trong những
sự
ấy,
trừ
phi Mẹ
được
Đấng
Toàn Năng
ban cho quyền
hạn
và quyền
bính trên các linh hồn
của
họ.
Khi ban cho Mẹ
quyền
năng
trên Người
Con duy nhất
theo bản
tính của
mình, Thiên Chúa cũng
đã
ban cho Mẹ
quyền
năng
trên thành phần
con cái được
Ngài thừa
nhận
– không phải
những
gì liên quan tới
phần
xác của
họ
– những
gì không đáng
kể
lắm
– mà là những
gì liên quan tới
linh hồn
của
họ.
38. Mẹ
Maria là Nữ
Vương
trời
đất
bởi
ân sủng,
như
Chúa Giêsu là vua theo bản
tính và bằng
việc
chiến
thắng.
Thế
nhưng,
như
vương
quốc
của
Chúa Giêsu Kitô hiện
hữu
chính yếu
là ở
nơi
tâm can hay trong nội
tâm của
con người,
theo lời
Phúc Âm “Vương
quốc
của
Thiên Chúa ở
trong các người”
thế
nào, thì vương
quốc
của
Đức
Trinh Nữ
chính yếu
cũng
ở
nơi
nội
tâm của
con người,
tức
ở
trong linh hồn
họ
vậy.
Chính ở
trong các linh hồn
mà Mẹ
được
vinh hiển
với
Con Mẹ,
hơn
là ở
nơi
bất
cứ
một
tạo
vật
hữu
hình nào khác. Bởi
vậy
mà, như
các thánh, chúng ta có thể
gọi
Mẹ
là Nữ
Vương
các cõi lòng.
39. Sau nữa,
chúng ta cần
phải
kết
luận
rằng,
là những
gì cần
thiết
đối
với
Thiên Chúa như
một
thứ
cần
thiết
được
gọi
là ‘giả
định’,
(tức
vì Thiên Chúa muốn
thế),
Đức
Trinh Nữ
lại
càng cần
thiết
cho con người
trong việc
đạt
tới
cùng đích
của
họ.
Bởi
thế,
chúng ta không được
tỏ
lòng sùng kính Mẹ
ở
một
mức
độ
giống
như
lòng tôn sùng các vị
thánh khác, như
là một
điều
hoàn toàn tùy nghi.
(còn tiếp)
Bản Hướng Dẫn Cử Hành Phụng Vụ
Bản Dịch của
Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, BVL
http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/ccdds/documents/rc_con_ccdds_doc_20040423_redemptionis-sacramentum_en.html
Chương I
3. Các Vị Linh Mục (29-33)
(
TÒA TỔNG GIÁM MỤC HÀ NỘI Kính gửi: Cha Nguyễn thanh Liêm Chủ tịch Liên đoàn Công giáo Việt nam tại Hoa kỳ Hà nội ngày 10-01-2008 Thưa Cha, Xin cám ơn cha đã đến thăm tòa Tổng giám mục Hà nội, gặp gỡ chia sẻ với các linh mục, tu sĩ, chủng sinh và nhất là tham dự giờ cầu nguyện với giáo dân trước Tòa Khâm Sứ. Sự hiện diện của cha nói lên tình hiệp thông sâu xa giữa bà con giáo dân hải ngoại với Giáo hội tại quê nhà. Cử chỉ của cha nói lên quyết tâm xây dựng sự hiệp thông trong Giáo hội. Đó là một ước nguyện tốt đẹp và cần thiết cho sự sống của Giáo hội. Thiện chí của cha chắc chắn sẽ được nhiều người đồng tình hưởng ứng. Cầu chúc nhiệm kỳ của cha sẽ đem lại nhiều lợi ích cho người Công giáo Việt nam ở khắp nơi. Xin Chúa ban phúc lành cho Cha! +Giuse Ngô quang Kiệt Tổng giám mục Hà nội
Hoa Kỳ, ngày 9 tháng 01, 2008 Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ Hiệp Thông với Giáo Hội Việt Nam Kính thưa:
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam - Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn - Đức Tổng Giám Mục Têphanô Nguyễn Như Thể - Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt,
Trong chuyến đi thăm viếng Ban Thường Vụ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam từ ngày 2 tháng 01, 2008 đến ngày 8 tháng 01, 2008 vừa qua, đồng thời tìm hiểu thực tế tình hình các sinh hoạt mục vụ, giáo dục và từ thiện tại các cơ sở của Giáo Hội VN, cũng như tham dự công tác nhân đạo: giúp đỡ trực tiếp những nạn nhân lũ lụt do Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ phát động, chúng con đã được Đức Cha Chủ Tịch, Đức Hồng Y và quý Đức Tổng tiếp đón thật chu đáo và thân tình. Xin chân thành cám ơn.
Qua những gì Đức Cha Chủ Tịch, Đức Hồng Y và quý Đức Tổng, trong tinh thần hiệp thông, đã chia sẻ cũng như được tận mắt chứng kiến, chúng con nhận thấy những nỗ lực và hy sinh không mệt mỏi của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, nhất là của hàng giáo phẩm: Đức Hồng Y; Giám Mục; Linh Mục; Phó Tế; nam nữ Tu Sĩ; và toàn thể giáo dân, trong các các chương trình mục vụ giúp đỡ người nghèo khổ, khuyết tật, bị bệnh AIDS, các chương trình mục vụ và giáo dục gia đình, cho thanh thiếu niên, người lầm lỡ, cho người di cư v.v... Chúng con đánh giá cao những cống hiến và hy sinh trong âm thầm từ bao nhiêu năm qua của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.
Bên cạnh đó, chúng con cũng được chia sẻ những thao thức và trăn trở trong việc gặp các khó khăn và trở ngại của vấn đề thiếu thốn nhân sự, tài chánh và cơ sở trong việc sinh hoạt và phục vụ của Giáo Hội Công GiáoViệt Nam, chỉ với mục đích mang lại tiện ích và phúc lợi cho xã hội và người dân. Những khó khăn này rất tiếc vẫn còn tồn tại, và vẫn chưa được giải quyết tốt đẹp vì hoàn cảnh chủ quan và khách quan.
Nhân dịp này, Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ xin hoàn toàn hiệp thông, và kêu gọi mọi thành phần trong Liên Đoàn, cầu nguyện theo ý của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đặc biệt của Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, và toàn thể Linh Mục, nam nữ Tu Sĩ và giáo dân thuộc giáo phận, mong sao việc giao hoàn Tòa Khâm Sứ sớm thành hiện thực, để Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và Tòa Giám Mục Hà Nội có văn phòng và cơ sở hoạt động phục vụ tốt đẹp và hữu hiệu hơn.
Chúng con trân trọng quyết định của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong khóa họp vừa qua, từ nay sẽ chủ động và mời gọi tất cả thành phần trong nước tự giải quyết những khó khăn. Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ trong tình con thảo, chỉ mong tự nguyện đóng góp phần nào, nhân lực và tài lực, cho các chương trình của Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt trong các lãnh vực Mục Vụ, Giáo Dục và Y Tế, để nói lên sự HIỆP NHẤT và HIỆP THÔNG với Giáo Hội Mẹ Việt Nam.
Nguyện xin Thiên Chúa và Đức Mẹ La Vang Việt Nam chúc lành cho Đức Cha Chủ Tịch, Đức Hồng Y, quý Đức Tổng, quý Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, nam nữ Tu Sĩ và toàn thể giáo dân Việt Nam trong năm mới luôn được an bình và sức khỏe.
Trân trọng, Rev. Giuse Nguyễn Thanh Liêm Chủ Tịch
|