THỨ TƯ 16/1/2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

ĐTC Biển Đức XVI

Thánh Đại Giáo Phụ Âu Quốc Tinh

 

    CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Thánh Long Mộng Phố

Bí Mật Maria  - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria (46-48)

 

   MẾN Yêu Thánh Thể  

          Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích            

                Bản Hướng Dẫn Cử Hành Phụng Vụ  (39-42)    

         

           YÊU Thương Tha Nhân          

  Hội Đồng Tòa Thánh về Gia Đình

HIẾN CHƯƠNG VỀ CÁC QUYỀN LỢI CỦA GIA ĐÌNH (1-2)

 

 

 

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI

 

 

 

Thánh Đại Giáo Phụ Âu Quốc Tinh

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI:

Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 9/1/2008

Bài Giáo Lý 63 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền

 

Anh chị em thân mến,

 

Sau những ngày mừng Lễ Giáng Sinh tôi xin trở lại với những bài suy niệm về các Vị Giáo Phụ và hôm nay nói về vị Giáo Phụ cả thể nhất của Giáo Hội Latinh, đó là Thánh Âu Quốc Tinh: một con người hăng say và tin tưởng, một con người rất thông minh và đầy nhiệt tình mục vụ. Vị đại thánh và tiến  sĩ của Giáo Hội này thường nổi tiếng, ít là về tên tuổi, ngay cả bởi những người coi thường Kitô Giáo, hay bởi những người ít  quen  thuộc với Kitô Giáo, vì ngài đã sâu xa ảnh hưởng tới đời sống văn  hóa của thế giới Tây phương, và của thế giới nói chung.

 

Vì tầm quan trọng phi thường của mình, Thánh Âu Quốc Tinh đã gây một ảnh hưởng khổng lố, lớn lao đến nỗi có thể nói, một đàng, tất cả mọi đường nẻo văn chương Latinh Kitô Giáo đều dẫn tới Hippo (ngày nay là Annaba, ở miền duyên hải xứ Algeria), nơi ngài làm giám mục, đàng khác, từ tỉnh lỵ này của Phi Châu Rôma, nơi Thánh Âu Quốc Tinh làm giám mục từ năm 395 đến 430, đã tuôn ra nhiều nẻo đường của tương lai Kitô Giáo cũng như của chính văn hóa Tây Phương.

 

Ít khi nào thấy một nền văn hóa đã gặp gỡ một nhân vật quá vĩ đại đến nỗi có khả năng bao gồm những thứ giá trị của nó cũng như có khả năng truyền bá sự phong phú nội tại của nó, khi hình thành những ý nghĩ cùng với các phương pháp giúp vào việc dinh dưỡng các thế hệ mai hậu, như Đức Phaolô VI cũng đã nhấn mạnh: “Người ta có thể nói là tất cả mọi thứ triết lý cổ thời đều qui tụ lại nơi công cuộc của ngài, và từ đó xuất phát ra những luồng tư tưởng thấm đẫm truyền thống tín lý của các thế kỷ về sau” (AAS, 62, 1970, trang 426).

 

Ngoài ra, Thánh Âu Quốc Tinh là vị Giáo Phụ của Hội Thánh đã để lại số lượng tác phẩm nhiều nhất. Tiểu sử gia của ngài là Possidius nói rằng: hầu như không thể nào mà một người có thể viết quá nhiều trong đời sống của mình như thế. Chúng ta sẽ nói về các tác phẩm khác nhau của ngài trong một buổi khác sau này. Hôm nay, chúng ta tập trung vào đời sống của ngài, một đời sống chúng ta có thể tái cấu trúc theo các tác phẩm của ngài, nhất là từ cuốn  “Tự Thú”, một tác phẩm tự thuật về mặt thiêng liêng nổi bật của ngài được viết để chuúc tụng ngợi khen Thiên C húa và là tác phẩm phổ biến nhất của ngài.

 

Chính vì chú trọng tới tính chất nội tâm và tâm lý mà cuốn “Tự Thú” của Thánh Âu Quốc Tinh mới là một mô thức đặc thù n ơi văn chương Tây phương lẫn ngoài Tây phương, thậm chí bao gồm cả văn  chương vô đạo, ngay cả tới thời đại tân tiến ngày nay. Vấn đề tập trung vào đời sống thiêng liêng, vào mầu nhiệm về bản thân mình, vào mầu nhiệm của Thiên Chúa â 3n nấp trong bản thân  mình, là một điều phi thường vô tiền, và vẫn còn có thể nói là “tột đỉnh” về phương diện tâm linh.

 

Thế nhưng, trở lại với đời sống của ngài, Thánh Âu Quốc Tinh được sinh ra tại Tagaste – tại một địa hạt thuộc đế quốc Rôma ở Phi Châu – vào ngày 13/11/354, con của ông Patrick, một người ngoại sau trở thành một người dự tòng, và bà Monica, một Kitô hữu nhiệt thành. Người phụ nữ nhiệt thành này, được tôn kính như một vị thánh, đã ảnh hưởng rất nhiều nơi người con trai của bà và đã giáo dục người con này theo niềm tin Kitô Giáo. Thánh Âu Quốc Tinh cũng đã lãnh nhận muối, như dấu hiệu đón nhận vào thành [hần dự tòng. Ngài bao giờ cũng cảm thấy bị thu hút bởi hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô; ngài nói rằng ngài đã luôn luôn mến yêu Chúa Giêsu, thế nhưng càng lớn ngài càng xa lìa đức tin và việc thực hành của Giáo Hội, như vẫn thường xẩy ra cho nhiều giới trẻ ngày nay. 

 

Thánh Âu Quốc Tinh cũng có một người anh em là Navigius, và một người chị em mà chúng ta không biết tên, và là người khi góa bụa đã làm đầu của một nữ đan viện.

 

Thánh Âu Quốc Tinh có một trí thông minh sắc sảo và được giáo dục tốt đẹp, mặc dù ngài không phải lúc nào cũng là một học sinh gương mẫu. Ngài đã học văn phạm, đầu tiên ở tỉnh nhà của mình rồi ở Madaurus, và bắt đầu vào năm 370 ngài đã lấy môn ngữ học ở Carthage, thủ đô của đế quốc Rôma ở Phi Châu. Ngài đã thông thạo tiếng Latinh, nhưng không bằng tiếng Hy Lạp hay Punic, ngôn ngữ người đồng hương của ngài.

 

Chính ở Carthge ngài đã đọc cuốn “Hortesius” lần đầu tiên, một tác phẩm của Cicero – sau này bị thất lạc – và là cuốn sách khiến ngài bắt đầu con đường hoán cải. Cuốn sách này khơi lên trong ngài một lòng mến yêu sự khôn ngoan, như được ngài xác nhận trong các bản văn là giám mục của mình trong cuốn “Tự Thú”: “Cuốn sách này đã làm thay đổi cảm thức của tôi” sâu mạnh đến nỗi “đột nhiên, hết mọi thứ hy vọng hão huyền đều chẳng còn là gì đối với tôi nữa, và tôi ước mong được đức khôn ngoan bất tử bằng một nhiệt tình không thể nào tưởng tưởng nổi nơi tôi” (III, 4, 7).

 

Thế nhưng, vì ngài tin tưởng rằng nếu không có Chúa Giêsu thì cũng không thể nào thực sự tìm thấy được chân  lý, và vì trong cuốn sách đó thiếu mất tên tuổi của ngài nên  ngài liền tìm đọc Thánh Kinh, Sách Thánh. Song ngài đã cảm thấy chán nản. Chẳng những bản dịch Latinh Thánh Kinh không đầy đủ mà còn chính nội dung của Thánh Kinh cũng dường như không làm cho ngài được thỏa nguyện.

 

Trong các tường thuật về chiến  tranh cùng với những biến cố khác của con người, ngài không thể tìm thấy những gì tột đỉnh của triết học, tím thấy ánh rạng ngời của việc tìm kiếm sự thật của nó. Tuy nhiên,  ngài lại không muốn thiếu vắng Thiên Chúa, và vì thế ngài đã tìm kiếm một tôn giáo ăn khớp với ước muốn sự thật của ngài cũng như ước mong được sống gần gũi với Chúa Giêsu.

 

(còn tiếp)

 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria

 

Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)

 

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL


Phần I - Tổng Quan về Việc Thành Thật Sùng Kính Đức Mẹ

 

Chương Một: Tôn Sùng Mẹ Maria - Cần Thiết 

 

III. Nhng Thành Qu

 

46.          Tất cả mọi kẻ giầu sang trong quần chúng, nếu sử dụng lời diễn tả về Thánh Linh của Thánh Bênađô, tất cả mọi thành phần giầu sang trong quần chúng sẽ thiết tha nhìn lên dung nhan của Mẹ qua mọi thời đại, nhất là vào lúc thế giới tiến đến ngày cùng tháng tận của nó. Tức là những vị thánh cao cả nhất, thành phần giầu sang nhất trong ân sủng và nhân đức sẽ là thành phần chuyên tâm nguyện cầu cùng Rất Thánh Trinh Nữ, biết nhìn lên Mẹ như một mô phạm tuyệt hảo để noi gương bắt chước và như là một vị phù trì quyền năng hỗ trợ họ.

 

47.          Tôi đã nói rằng điều này sẽ xẩy ra nhất là vào thời tận thế, mà thực sự chẳng còn bao lâu nữa, vì Thiên Chúa Toàn Năng cùng với Mẹ của Người đang làm nổi lên những vị đại thánh, thành phần sẽ trổi vượt về thánh đức, hơn hầu hết các vị thánh khác, như những cây hương bá Lebanon đối với những bụi cây thấp bé vậy. Điều này đã được tỏ cho một tâm hồn thánh đức biết, một tâm hồn có cuộc sống được tác giả M. de Renty ghi lại.

 

48.          Những linh hồn cao cả tràn đầy ân sủng và lòng nhiệt thành này sẽ được tuyển chọn để chống lại với các kẻ thù của Thiên Chúa, thành phần đang hoành hành phá hoại ở khắp mọi nơi. Những linh hồn ấy sẽ đặc biệt tôn sùng Đức Trinh Nữ. Được sáng soi bằng ánh sáng của Mẹ, được kiên cường bằng lương thực của Mẹ, được hướng dẫn bởi tinh thần của Mẹ, được dìu dắt bởi cánh tay của Mẹ, được nương náu dưới sự chở che của Mẹ, họ sẽ một tay chiến đấu và một tay xây dựng. Bằng một tay, họ sẽ chiến đấu, lật đổ và khống chế thành phần lạc giáo cùng những thứ lạc đạo của họ, những kẻ ly giáo cùng những thứ ly khai của họ, những kẻ ngẫu tượng cùng những thứ ngẫu tượng của họ, những kẻ tội lỗi cùng những gian ác của họ. Với tay kia, họ sẽ dựng xây đền thờ Solomon chân thực và thành đô huyền nhiệm của Thiên Chúa, tức là Đức Trinh Nữ, vị được các Giáo Phụ Giáo Hội gọi là Đền Thờ Solomon và là Thành Đô của Thiên Chúa. Bằng lời nói và gương mẫu, họ sẽ lôi kéo tất cả mọi người đến với lòng thành thực tôn sùng Mẹ, và cho dù điều này có tạo nên đa thù lắm địch chăng nữa, nó cũng sẽ mang lại nhiều chiến thắng và vinh quang cho một mình Thiên Chúa. Đó là những gì Thiên Chúa đã tỏ ra cho Thánh Vincent Ferrer biết, vị tông đồ nổi bật vào thời của ngài, như ngài đã trọn vẹn cho thấy ở một trong những tác phẩm của ngài.

 

Điều này dường như đã được Thánh Linh báo trước trong Thánh Vịnh 58: “Chúa sẽ cai trị trong nhà Giacóp cho tới tận cùng trái đất. Họ sẽ được hoán cải về đêm, họ sẽ cảm thấy đói như đám khuyển, và họ sẽ rảo quanh thành phố để kiếm ăn”. Thành phố mà con người sẽ lang thang vào ngày cùng tháng tận của thế giới này để tìm cách hoán cải và làm giảm bớt cơn đói công lý đây, đó là Rất Thánh Trinh Nữ, vị được Thánh Linh gọi là Thành Đô Thiên Chúa.

 

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 

 

Bản Hướng Dẫn Cử Hành Phụng Vụ


 
 
Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích

 

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL

 

http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/ccdds/documents/rc_con_ccdds_doc_20040423_redemptionis-sacramentum_en.html

 

Chương II

Việc Kitô Hữu Giáo Dân Tham Dự Vào Việc Cử Hành Thánh Thể

 

1. Việc Tham Dự Chủ Động Và Ý Thức (36-42)

 

39.     Để cổ võ và làm sáng tỏ việc chủ động tham dự, việc canh tân trước đây của các sách phụng vụ theo chiều hướng của Công Đồng Chung Vaticanô II đã đề ra những câu hô của cộng đồng, những lời đối đáp, bài thánh vịnh, những câu đáp ca, và những bài ca vịnh, cũng như những tác động hay chuyển động và cử chỉ, cùng kêu gọi giữ thinh lặng thánh vào những lúc thích hợp, đồng thời cũng có những mục cho cả phần vụ của giáo dân nữa (99). Ngoài ra cũng có cả tính cách linh động giành cho việc sáng tạo thích hợp, theo các qui tắc phụng vụ qui định, nhắm đến chỗ giúp cho mỗi một việc cử hành được ứng thuận với các nhu cầu của thành phần tham dự, với việc ý thức của họ, với tình trạng cởi mở nội tâm của họ và với các tặng ân của họ. Nơi những bài hát, những điệu nhạc, việc chọn lựa những kinh nguyện và bài đọc, việc giảng giải, việc soạn dọn lời nguyện giáo dân, những lời nhắn nhủ ngoại lệ tùy dịp, và việc trang hoàng Thánh Đường theo các mùa phụng vụ khác nhau, là những cơ hội tốt để giúp cho mỗi một việc cử hành những gì khác biệt thật sự làm phong phú cho truyền thống phụng vụ, nhờ đó, hợp với những đòi hỏi của mục vụ, việc cử hành sẽ được từ từ thấm đẫm những tính chất đặc biệt giúp cho tham dự viên dễ cầm trí. Chưa hết, cần phải nhớ rằng năng lực của những việc cử hành phụng vụ không phải là ở tại chỗ thường xuyên thay đổi các thứ lễ nghi, mà là ở chỗ đào sâu lời Chúa cũng như vào mầu nhiệm đang được cử hành (100).


40.     Tuy nhiên, cho dù có sự kiện là việc cử hành phụng vụ quả thực có bao hàm vấn đề hoạt động, nhưng không phải vì thế mà hết mọi người cần phải làm một điều gì đó cụ thể ngoài những hành động và cử chỉ phụng vụ, như thể việc thừa tác phụng vụ riêng biệt nào đó cần phải được trao cho cá nhân để họ thi hành. Trái lại, việc hướng dẫn về giáo lý cần phải cố gắng khôn khéo sửa chữa lại những quan niệm và thực hành nông nỗi đang lan tràn thường thấy xẩy ra trong những năm gần đây liên quan đến vấn đề này, và làm thấm nhiễm một cách mới mẻ vào tất cả mọi tín hữu Chúa Kitô cái cảm quan sâu xa ngây ngất trước tính cách cao cả của mầu nhiệm đức tin là Thánh Thể, một Thánh Thể mà việc cử hành của Giáo Hội đã vĩnh viễn vượt từ những gì lỗi thời đến sự sống mới: “in novitatem a vetustate” (101). Vì nơi việc cử hành Thánh Thể, cũng như nơi tất cả đời sống Kitô giáo được bắt nguồn từ năng lực của việc cử hành Thánh Thể cũng như dẫn đến việc cử hành Thánh Thể, mà Giáo Hội, theo cung cách của Thánh Tôma Tông Đồ, quì xuống tôn thờ trước Vị Chúa bị đóng đanh, khổ nạn và tử nạn, được an táng và sống lại, rồi mãi mãi than lên với Đấng tràn đầy ánh quang thần linh rằng: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi!” (102).


41.     Để khuyến khích, cổ võ và nuôi dưỡng ý thức sâu xa này về việc tham dự vào phụng vụ, rất cần phải thực hiện việc cử hành Giờ Kinh Phụng Vụ một cách liên tục và rộng rãi, việc sử dụng các á bí tích và những việc thực hành lòng đạo đức thông dụng của Kitô giáo. Những việc thực hành lòng đạo đức thông dụng này, những việc “tuy không thuộc về Phụng Vụ theo nghĩa ngặt, cũng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng và sáng giá”, được coi như có một liên hệ nào đó với tương quan phụng vụ, nhất là khi chúng được khen ngợi và chứng thực bởi chính Huấn Quyền (103), như trường hợp Kinh Mân Côi Thánh Mẫu (104). Ngoài ra, vì những việc thực hành lòng đạo đức phổ thông này dẫn dân Kitô giáo đến chỗ chẳng những lãnh nhận các phép bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, còn đến cả “việc suy niệm các mầu nhiệm Cứu Chuộc của chúng ta và đến chỗ bắt chước những gương tuyệt hảo của Chư Thánh trên trời, mà chúng không phải là không có những tác dụng hữu ích cho việc chúng ta tham dự việc tôn thờ phụng vụ” (105).


42.     Cần phải nhìn nhận rằng Giáo Hội đã không được qui tụ lại bởi ý muốn của con người; trái lại, Giáo Hội được kêu gọi qui tụ lại bởi Thiên Chúa trong Thánh Thần, và Giáo Hội đã tin tưởng đáp lại lời mời gọi tự động của Ngài (bởi thế chữ ekklesia mới liên hệ tới chữ klesis hay với chữ “mời gọi”) (106). Hiến Tế Thánh Thể cũng không được coi như là một “cuộc đồng tế”, theo nghĩa độc thoại, của vị Linh Mục cùng với thành phần giáo dân hiện diện (107). Trái lại, Thánh Thể được các vị Linh Mục cử hành “là một tặng ân thực sự vượt trên năng quyền của cộng đồng…. Cộng đồng qui tụ lại để cử hành Thánh Thể nhất định cần phải có một vị Linh Mục được thụ phong, tức vị chủ tế để cộng đồng này thực sự trở thành một cộng đồng thánh thể. Mặt khác, tự mình cộng đồng không có khả năng để cung cấp một vị thừa tác viên thánh chức” (108). Rất cần phải hợp ý với nhau để tránh đi tất cả mọi thứ mập mờ về vấn đề này cũng như để chữa trị những khó khăn xẩy ra trong những năm vừa rồi. Đó là lý do những từ ngữ như “cộng đồng cử hành” hay “hội đồng cử hành” (các thứ ngôn ngữ khác là “asamblea celebrante”, “assemblée célébrante”, “assemblea celebrante”) và những từ ngữ tương tự như vậy không được phép sử dụng một cách bừa bãi.

 

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                                                            

Để Mừng Kỷ Niệm

60 Năm Bản Tuyên Chung về Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc (10/12/1948-2008)

25 Năm Bản Hiến Chương Quyền Lợi Gia Đình của Tòa Thánh (22/10/1983-2008)

như được ĐTC nhắc nhắc đến trong

Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 1/1/2008,

Thời Điểm Maria sẽ trích dịch hai tài liệu quí báu này

và những bài vở liên hệ về nhân bản và yêu thương

 

HIẾN CHƯƠNG VỀ CÁC QUYỀN LỢI CỦA GIA ĐÌNH

 Được Tòa Thánh gửi đến tất cả mọi người, mọi cơ cấu tổ chức và thẩm quyền còn quan tâm tới sứ vụ của gia đình trong thế giới ngày nay 22/10/1983 

Khoản 1

Tất cả mọi người đều có quyền tự do chọn lựa bậc sống của

mình, bởi đó có quyền kết hôn và lập gia đình hay ở độc

thân. (x. "Rerum novarum", no. 9; "Pacem in terris", Part 1;

"Gaudium et spes", no. 26; "Universal Declaration of Human

Rights", no. 16, 1)

 

a)       Mọi người nam nữ, khi tiến tới tuổi có thể kết hôn và có khả năng cần thiết, đều có quyền kết hôn và lập gia đình, hoàn toàn không biệt phân; những giới hạn trong việc hành sử quyền lợi này, dù có tính cách vĩnh viễn hay tạm thời, chỉ có thể áp dụng chỉ khi nào những đòi hỏi hệ trọng và khách quan của chính cơ cấu hôn nhân cũng như tính cách quan trọng về xã hội và công cộng của cơ cấu này cần đến; trong tất cả mọi trường hợp, những giới hạn ấy cần phải tôn trọng phẩm vị và các quyền lợi trọng yếu của con người (x. "Codes Iuris Canonici", nos. 1058 and 1077; "Universal Declaration", no. 16, 1).

 

b)    Những ai muốn kết hôn và lập gia đình đều có quyền đòi hỏi xã hội những điều kiện về luân lý, giáo dục, xã hội và kinh tế giúp họ có thể hành sử quyền kết hôn một cách hoàn toàn chín chắn và hữu trách (x. "Gaudium et spes", no. 52, "Familiaris consortio", no. 81).

 

c)     Các công quyền cần phải công nhận các thứ giá trị về cơ cấu của hôn nhân; không được coi trường hợp của những cặp sống không cưới hỏi gì ngang hàng với thứ hôn nhân có kết ước đàng hoàng (x. "Gaudium et spes", no. 52; "Familiaris consortio", nos. 81 and 82).

 

Khoản 2:

 

Hôn nhân không thể bị kết ước ngoại trừ được đôi phu thê

tự nguyện bày tỏ trọn vẹn lòng ưng thuận của họ một cách

xứng hợp (x. "Gaudium et spes", no. 52; "Codex Iuris

Canonici", no. 1057; "Universal Declaration", nos. 16, 2.).

 

a)             Đối với vai trò truyền thống của các gia đình ở một số nền văn hóa trong việc giúp con cái quyết định, cần phải tránh tất cả mọi áp lực làm ngăn trở việc quyết định chọn người phối ngẫu đặc biệt (x. "Gaudium et spes", no. 52).

 

b)            Những đôi sẽ lấy nhau có quyền tự do tôn giáo. Bởi thế, việc áp đặt như là một điều kiện cần có để thành hôn là phải chối bỏ niềm tin hay tuyên xưng niềm tin là những gì trái với lương tâm, vi phạm đến quyền này (x. "Dignitatis humanae", no. 6).

 

c)             Những người phối ngẫu, theo tính cách bổ túc tự nhiên hiện hữu giữa nam nhân và nữ giới, đều được hưởng cùng một phẩm vị và những quyền tương đương về vấn đề hôn nhân (x. "Gaudium et spes", no. 49; "Familiaris consortio", nos. 19 and 22; "Codex Iuris Canonici", no. 1135; "Universal Declaration", no. 16, 1).

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/roman_curia/pontifical_councils/family/documents/rc_pc_family_doc_19831022_family-rights_en.html

 

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ