THỨ NĂM 17/1/2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

ĐTC Biển Đức XVI

Hoãn chuyến viếng thăm Đại Học Rôma La Sapienza

 

    CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Thánh Long Mộng Phố

Bí Mật Maria  - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria (49)

 

   MẾN Yêu Thánh Thể  

          Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích            

                Bản Hướng Dẫn Cử Hành Phụng Vụ  (43-47)    

         

           YÊU Thương Tha Nhân          

  Hội Đồng Tòa Thánh về Gia Đình

HIẾN CHƯƠNG VỀ CÁC QUYỀN LỢI CỦA GIA ĐÌNH (3-4)

 

 

 

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI

 

 

 

ĐTC Biển Đức XVI

hoãn chuyến viếng thăm Đại Học Rôma La Sapienza

 

Theo thông báo của văn phòng báo chí Tòa Thánh tối ngày 15/1/2007 thì ĐTC Biển Đức XVI quyết định trì hoãn chuyến viếng thăm Đại Học Rôma La Sapienza để khai mạc năm học mới. Bản thông báo viết như thế này:

 

“Theo sau những biến cố được phổ biến rộng rãi trong mấy ngày vừa qua liên quan tới việc Đức Thánh Cha viếng thăm Đại Học ‘La Sapienza’ Rôma theo lời mời của vị viện trưởng được ấn định vào ngày Thứ Năm 17/1, thì biến  cố này được thấy rằng thích đáng để hoãn lại. Tuy nhiên, ĐTC sẽ gửi bài nói ngài định trình bày”.

 

Biến cố này xẩy ra là vì có một bản thỉnh nguyện gửi cho vị viện trưởng, với chữ ký của 67 vị giáo sư yêu cầu đình chỉ việc viếng thăm của Đức Thánh Cha, và vì có những phản đối của các nhóm sinh viên vào ngày hôm qua đã trấn đóng ở văn phòng viện trưởng để đòi hỏi quyền được xuống đường trong khuôn viên đại học vào ngày viếng thăm của Đức Thánh Cha.

 

Những vị giáo sư ký tên vào bản thỉnh nguyện trích dẫn moat bài nói của ĐHY Ratzinger name 1990, nhất là m ột câu ngài nói vào lúc ấy là “trong thời đại của Galileo Giáo Hội vẫn trung thành với lý trí hơn cả chính Galileo nữa. Bản án chống lại Galileo là những gì hợp lý và chính đáng”. Những nhận định của vị Giáo Hoàng tương lai này, một lời trích dẫn từ một tác phẩm của vị triết gia về khoa học là Paul Feyerabend người Áo, đã được sử dụng trong tương quan của bài nói về cuộc khủng hoảng về niềm tin tưởng vào khoa học, một cuộc khủng hoảng mà  ngài đã sử dụng một trường hợp điển hình về việc thay đổi những thái độ đối với vụ Galileo. Thành phần chống đối không đề cập tới chi tiết là ĐHY Ratzinger đã tiếp tục nói rằng ngài không đồng ý với vị triết gia ấy.

 

Viện  trưởng của Đại Học này là Renato Guarini đã cho biết rằng ông đã chờ đợi ĐTC Biển Đức XVI, một thần học gia kiêm giáo sư và là “sứ giả của hòa bình”, để sống “một giây phút văn hóa cao độ” và một “cuộc trao đổi tư tưởng sẽ mang lại hoa trái cho toàn thể cộng đồng đại học đây”.

 

Nhà toán học kiêm giáo sư ở đại học này là Giorgio Israel, người Do Thái, đã nhận định trong tờ L’Osservatore Romano rằng bài nói 1990 ấy thật ra bênh vực Galileo. ĐHY Ratzinger lúc ấy đã nói rằng: “Đức tin không tăng tiến từ một thứ bất mãn và chối bỏ chủ nghĩa duy lý, mà là từ việc công nhận căn bản về nó”.

 

Giáo sư Israel đã than tiếc cái mâu thuẫn của những ai chống lại cuộc viếng thăm của Đức Biển Đức XVI, thành phần chủ ý bênh vực tính cách trần thế của khoa học, thế nhưng lại phủ nhận quyền tự do ngôn luận. Bài viết này trong tờ L’Osservatore Romano được phổ biến trước khi Tòa Thánh Vatican tuyên bố rằng Đức Giáo Hoàng sẽ trì hoãn chuyến viếng thăm.

 

Nhà toán học này viết: “Thật lạ lùng khi những người chấp nhận câu nói của Voltaire như là một khẩu hiệu ‘tôi không đồng ý với anh những gì anh nói, nhưng tôi sẽ bênh vực cho đến cùng quyền được nói của anh’ lại là những người tự mình chống lại vị Giáo Hoàng bày tỏ một bài nói ở đại học đường Rôma này”.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 15/1/2008 và VIS ngày 16/1/2008

 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria

 

Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)

 

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL


Phần I - Tổng Quan về Việc Thành Thật Sùng Kính Đức Mẹ

 

Chương Một: Tôn Sùng Mẹ Maria - Cần Thiết 

 

IV.  Vai trò của Mẹ Maria vào những thời buổi sau này

 

 

49.          Việc cứu độ thế giới được bắt đầu nhờ Mẹ Maria thế nào, thì cũng nhờ Mẹ nó được hoàn thành như vậy. Mẹ Maria hiếm khi xuất hiện ở lần đến thứ nhất của Chúa Giêsu Kitô, nhờ đó, con người, vì chưa được hướng dẫn và hiểu biết đầy đủ về bản thân Người Con của Mẹ, mới không bị xa lìa với chính sự thật, bằng việc họ cứ gắn liền với Mẹ. Điều này có thể xẩy ra nếu Mẹ được biết đến, vì những nét duyên dáng lạ lùng Mẹ được Thiên Chúa tô điểm cho, dù chỉ ở dáng dấp bề ngoài của Mẹ. Điều này đúng là như thế, vì Thánh Denis người Areopagite đã nói cho chúng ta biết trong các bản văn của ngài là, khi ngài trông thấy Mẹ thì ngài tưởng Mẹ là một nữ thần, vì vẻ đẹp khôn sánh của Mẹ, nếu đức tin vững chắc của ngài không bảo cho ngài biết rằng không phải như vậy. Thế nhưng, vào lần đến thứ hai của Chúa Giêsu Kitô, Mẹ Maria cần phải được nhận biết và cần phải được Thánh Thần công khai tỏ ra cho biết, để nhờ Mẹ Chúa Giêsu được nhận biết, yêu mến và phụng sự. Không còn những lý do khiến Thánh Linh cần phải che dấu vị hôn thê của mình đi trong cuộc sống của Mẹ và tỏ Mẹ ra rất ít, vì việc rao giảng phúc âm thuở ban đầu không còn nữa.   

 

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 

 

Bản Hướng Dẫn Cử Hành Phụng Vụ


 
 
Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích

 

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL

 

http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/ccdds/documents/rc_con_ccdds_doc_20040423_redemptionis-sacramentum_en.html

 

Chương II

Việc Kitô Hữu Giáo Dân Tham Dự Vào Việc Cử Hành Thánh Thể

 

2. Các Thừa Tác Vụ Của Kitô Hữu Giáo Dân Trong Việc Cử Hành Thánh Lễ (43-47)


43.     Vì thiện ích của cộng đồng cũng như của toàn Giáo Hội Chúa, một số tín hữu giáo dân, theo truyền thống, được làm những thừa tác vụ trong việc cử hành Phụng Vụ Thánh một cách xứng hợp và xứng đáng (109). Thật là thích hợp có một số người thay nhau thực hiện những thừa tác vụ khác nhau hay những phần việc khác nhau của cùng một thừa tác vụ (110).


44.     Có nhiều thừa tác vụ thừa tác được thiết lập hợp lệ ngoài thừa tác vụ giúp lễ và đọc sách (111), thì phần vụ quan trọng nhất của những thừa tác vụ này là thừa tác vụ giúp lễ (112) và đọc sách (113) được tạm ủy nhiệm. Ngoài hai thừa tác vụ này còn có các thừa tác vụ khác được đề cập đến trong Sách Lễ Rôma (114), cũng như những phần vụ làm bánh lễ, giặt các khăn phụng vụ và những việc giống như vậy. Tất cả mọi người, “dù là các vị thừa tác viên có thánh chức hay tín hữu giáo dân, khi thực hiện phần nhiệm hay thừa tác vụ của mình, đều phải làm một cách chuyên chú và trọn vẹn những gì liên quan đến phần nhiệm hay thừa tác vụ của mình” (115). Trong việc cử hành phụng vụ cũng như trong việc sửa soạn cử hành này, họ phải làm những gì cần thiết để Phụng Vụ của Giáo Hội được thi hành một cách xứng đáng và xứng hợp.


45.     Cần phải làm sao tránh được mối nguy hiểm có thể làm lu mờ đi mối liên hệ bổ khuyết cho nhau giữa tác động của hàng giáo sĩ với tác động của giáo dân, ở chỗ, thừa tác vụ của giáo dân đóng vai trò thực hiện những gì được gọi là “giáo sĩ hóa”, trong khi đó các vị thừa tác viên có thánh chức lại ở trong vị thế bất tương xứng làm những gì chỉ am hợp cho đời sống và hoạt động của thành phần giáo dân (116).


46.     Người Kitô hữu giáo dân được mời gọi để giúp vào việc cử hành phụng vụ cần phải được hướng dẫn cẩn thận và phải là những người đáng khen về đời sống Kitô hữu, luân lý và lòng trung thành với Huấn Quyền. Một con người như thế cần phải được đào luyện về phụng vụ tùy theo tuổi tác, hoàn cảnh, bậc sống và văn hóa về tôn giáo của họ (117). Không được chọn bất cứ ai có thể làm cho tín hữu lấy làm kinh ngạc (118).


47.     Cần phải duy trì tục lệ cao đẹp vốn giành cho các em trai hay các em thiếu nam, thường được gọi là các em giúp lễ, trong việc phục vụ bàn thờ theo cung cách của các thừa tác viên giúp lễ, và hướng dẫn giáo lý cho các em biết phần việc của các em theo khả năng hiểu biết của các em (119). Không được quên rằng một số lớn các vị thừa tác viên có chức thánh qua các thế kỷ đã từng là những em trai giúp lễ như thế (120). Cần phải thiết lập hay cổ võ những hiệp hội cho các em này, bao gồm cả việc tham phần và hỗ trợ của cha mẹ các em, nhờ đó các vị thừa tác viên sẽ được hỗ trợ hơn nữa trong việc thi hành thừa tác mục vụ. Khi các hiệp hội này trở thành có tính cách quốc tế thì Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích có nhiệm vụ phải thiết lập hay chuẩn nhận và sửa chữa những qui chế của các hiệp hội ấy (121). Các em gái hay phụ nữ cũng được tham gia vào việc phục vụ bàn thờ, tùy theo phán quyết khôn ngoan của vị Giám Mục giáo phận cũng như phải hợp với những qui tắc được qui định (122).

 

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                                                            

Để Mừng Kỷ Niệm

60 Năm Bản Tuyên Chung về Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc (10/12/1948-2008)

25 Năm Bản Hiến Chương Quyền Lợi Gia Đình của Tòa Thánh (22/10/1983-2008)

như được ĐTC nhắc nhắc đến trong

Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 1/1/2008,

Thời Điểm Maria sẽ trích dịch hai tài liệu quí báu này

và những bài vở liên hệ về nhân bản và yêu thương

 

HIẾN CHƯƠNG VỀ CÁC QUYỀN LỢI CỦA GIA ĐÌNH

 Được Tòa Thánh gửi đến tất cả mọi người, mọi cơ cấu tổ chức và thẩm quyền còn quan tâm tới sứ vụ của gia đình trong thế giới ngày nay 22/10/1983 

Khoản 3

 

Những người phối ngẫu có quyền bất khả nhượng trong việc thành lập gia đình và quyết định vấn đề thời đoạn sinh sản cùng số con cái sinh ra, hoàn toàn lưu ý tới nhiệm vụ của họ với chính họ, với con cái đã được sinh ra, với gia đình và xã hội, theo mức độ chính đáng về các thứ giá trị và hợp với trật tự khách quan về luân lý bất khả chấp đối với vấn đề sử dụng việc ngừa thai, triệt sản và phá thai (x. "Populorum progressio", no. 37; Gaudium et spes, nos. 50 and 87; Humanae vitae, no. 10; Familiaris consortio, nos. 30 and 46.).

 

a)             Những sinh hoạt của các công quyền cũng như các tổ chức tư hết sức nỗ lực để giới hạn quyền tự do của các đôi phối ngẫu trong việc quyết định con cái của họ là trầm trọng vi phạm tới phẩm giá con người và công lý (x. Familiaris consortio, no. 30.).

 

b)            Nơi mối liên hệ quốc tế, việc viện trợ về kinh tế để phát triển các dân tộc không được đặt điều kiện buộc phải chấp thuận những chương trình ngừa thai, triệt sản hay phá thai (x. Familiaris consortio, no. 30).

 

c)             Gia đình có quyền được xã hội trợ giúp trong việc sinh sản và dưỡng nuôi con cái. Những cặp vợ chồng với gia đình đông con có quyền được trợ giúp thích đáng mà không bị kỳ thị (x. Gaudium et spes, no. 50).

 

Khoản 4

 

Cần phải tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ sự sống con người từ lúc mới được thụ thai (x. Gaudium et spes, no. 51; Familiaris consortio, no. 26).

 

a)             Phá thai là trực tiếp vi phạm tới quyền sống trọng yếu của con người    

             (x.  Humanae     vitae, no. 14; Sacred Congregation for the Doctrine of the Faith,

            Declaration on Procured Abortion, November 18, 1974; Familiaris consortio, no.   

            30).

 

b)            Việc tôn trọng phẩm vị con người loại trừ tất cả mọi thứ mạo dụng về thí nghiệm hay khai thác phôi bào con người (x. Pope John Paul II, Address to the Pontifical Academy of Sciences, October 23, 1982) .

 

c)             Tất cả mọi thứ can dự vào vấn đề di giống con người không nhắm tới việc sửa lại những sự bất thường đều vi phạm tới quyền về nguyên tính thể lý và nghịch lại với thiện ích của gia đình.

 

d)            Trẻ em, cả trước và sau khi vào đời, đều có quyền được đặc biệt bảo vệ và trợ giúp, như người mẹ của các em được như thế trong thời gian mang thai và sau khi sinh nở một thời gian hợp tình hợp lý (x. Universal Declaration, no. 25, 2; Convention on the Rights of the Child, Preamble and no. 4).

 

e)             Tất cả mọi trẻ em, dù được sinh ra trong hay ngoài hôn nhân, đều được xã hội bảo vệ như nhau, vì việc phát triển toàn vẹn con người của các em (x. Universal Declaration, no. 25, 2).

 

f)             Xã hội cần phải đặc biệt bảo vệ những trẻ em mồ côi hay những em bị thiếu hụt sự giúp đỡ của cha mẹ hay của người bảo trợ. Về vấn đề chăm nuôi hay nhận nuôi, Quốc Gia cần phải ban hành luật trợ giúp các gia đình xứng hợp trong vấn đề họ đón nhận vào nhà họ các trẻ em tạm cần hay mãi cần đến việc chăm sóc. Luật lệ này đồng thời cũng cần phải tôn trọng cả quyền hạn tự nhiên của cha mẹ các em nữa (x. Familiaris consortio, no. 41).

 

g)            Trẻ em bị tật nguyền có quyền được hưởng một môi trường sống thích hợp với việc phát triển về nhân bản của các em tại gia đình và học đường (x. Familiaris consortio, no. 77).

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/roman_curia/pontifical_councils/family/documents/rc_pc_family_doc_19831022_family-rights_en.html

 

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ