CHÚA NHÂT 10/2/2008

 

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

ĐTC Gioan Phaolo II những ngày cuối đời

Về ý nghĩa từ đau khổ tới vinh quang của Mùa Chay

Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật I Mùa Chay 13/2/2005

     CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Thánh Long Mộng Phố

Bí Mật Maria  - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria (98-100)

II.  Những Dấu Hiệu Tôn Sùng Mẹ Maria một cách sai lầm và chân thực 

Việc tôn sùng Đức Mẹ cách giả tạo

   MẾN Yêu Thánh Thể  

          Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích            

       Bản Hướng Dẫn Cử Hành Phụng Vụ  (149-153)    

Những Phận Vụ Đặc Biệt Của Thành Phần Tín Hữu Giáo Dân

           YÊU Thương Tha Nhân          

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

MÙA XUÂN MUÔN THUỞ MARIA

2.- MÙA XUÂN SAU NGUYÊN TỘI

 

 

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI

 

 

ĐTC Gioan Phaolo II những ngày cuối đời

 

Về ý nghĩa từ đau khổ tới vinh quang của Mùa Chay

 

Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật I Mùa Chay 13/2/2005

 

Anh Chị Em thân mến!

 

1.         Chúng ta qui tụ lại nơi đây để chúc tụng Chúa. Trước hết, tôi xin cám ơn anh chị em, và tất cả những ai theo dõi giây phút này qua truyền thanh và truyền hình, về việc anh chị em gắn bó với tôi, cảm mến và nhất là nguyện cầu cho tôi trong những ngày tôi nằm trong bệnh viện Gemelli Polyckinic.

 

Tôi bao giờ cũng cần đến việc anh chị em giúp đỡ trước nhan Chúa để có thể hoàn thành sứ vụ Chúa Giêsu đã ký thác cho tôi.

 

2.         Thứ Tư vừa rồi, với lễ nghi xức tro, chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay, một thời điểm phụng vụ hằng năm nhắc nhở chúng ta về một sự thật nền tảng, đó là chúng ta không vào được sự sống trường sinh nếu không liên kết với Chúa Kitô để vác thập giá của mình. Chúng ta không đạt được hạnh phúc và bình an mà không can đảm đương đầu với cuộc tranh đấu nội tâm. Nó là một cuộc tranh đấu được thắng vượt bằng những vũ khí thống hối là cầu nguyện, chay tịnh và các việc từ thiện. Tất cả những việc ấy cần phải được thực hiện một cách kín đáo, không giả hình, bằng một tinh thần của lòng thành tín mến Chúa yêu người.

 

3.         Chiều hôm nay, cũng như mọi năm, tôi sẽ bắt đầu Tuần Tĩnh Tâm cùng với những cộng sự viên của tôi trong Giáo Triều. Trong thinh lặng và suy tư, tôi sẽ cầu cùng Chúa cho tất cả mọi nhu cầu của Giáo Hội cũng như của thế giới. Tôi cũng xin anh chị em thân mến hãy hỗ trợ tôi bằng lời nguyện cầu của anh chị em.

 

Xin Mẹ Maria Rất Thánh, vị liên lỉ hướng tâm trí về mầu nhiệm Con Mẹ giữa các quan tâm hằng ngày của mình, hướng dẫn chúng ta thực hiện cuộc hành trình Mùa Chay tốt đẹp.


(Sau Kinh Truyền Tin, ĐTGM Sandri đã thay Đức Thánh Cha nói thêm:)

 

Trong khi tôi tiếp tục cầu nguyện cho hòa bình ở Trung Đông, tôi tha thiết xin thả ký giả Ý Giuliana Sgrena và tất cả những ai bị bắt cóc ở Iraq ra.

 

(Sau đó, vị TGM này còn đọc huấn từ truyền tin của ĐTC bằng tiếng Pháp, Anh, TBN, Ý và Balan).

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 13/2/2005
 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria

 

Nguyên Tác của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL


Phần I - Tổng Quan về Việc Thành Thật Sùng Kính Đức Mẹ

 

Tôn Sùng Mẹ Maria: Nội Dung 

  

II.  Những Dấu Hiệu Tôn Sùng Mẹ Maria một cách sai lầm và chân thực 

 

1. Việc tôn sùng Đức Mẹ cách giả tạo

 

Những kẻ tôn sùng có tính cách tự tin

 

98.       Không gì trong Kitô Giáo đáng bị trầm luân bằng niềm tự tin quái gở ấy. Làm thế nào chúng ta có thể thực sự cho rằng chúng ta mến yêu và tôn vinh Đức Trinh Nữ này khi bằng tội lỗi của mình chúng ta nhẫn tâm đã thương, đâm xé, đóng đanh và lăng nhục Con của Mẹ? Nếu Mẹ Maria ra một qui luật để lấy tình thương mà cứu độ loại người ấy thì Mẹ sẽ bỏ qua sự gian ác và giúp vào việc lăng nhục cùng đóng đanh Con của Mẹ. Ai dám nghĩ tới một điều như thế chứ?

 

99.       Tôi dám nói rằng việc lạm dụng về lòng tôn sùng Mẹ như thế là một thứ phạm thánh ghê gớm, và sau việc Hiệp Lễ bất xứng thì nó là một trọng nhất và khó có thể thứ tha, vì việc tôn sùng Đức Mẹ là việc sùng thánh hảo nhất và tốt lành nhất sau việc tôn sùng Thánh Thể.

 

Tôi công nhận rằng thành thực sùng kính Đức Mẹ là những gì tuyệt đối không cần thiết để trở nên thánh hảo cũng như để tránh lánh tất cả mọi tội lỗi, cho dù nó là những gì đáng mong ước. Thế nhưng tối thiểu nó cũng là những gì cần thiết (xin lưu ý đến những gì tôi đang nói đây), 1- để thực sự quyết tâm tránh lánh ít là tất cả mọi tội trọng làm nhục tới Người Mẹ lẫn Người Con; 2- để thực hành việc tự chế hầu tránh lánh tội lỗi; 3- để tham gia vào các hiệp hội của Mẹ, đọc Kinh Mân Côi cùng với các kinh nguyện khác, ăn  chay vào các ngày Thứ Bảy, vân vân. 

 

100.     Những cách thức như thế là những gì hiệu nghiệm cách lạ lùng trong việc hoán cải thậm chí thành phần tội nhân cứng lòng. Nếu các bạn có là một tội nhân như thế, một chân đã lọt xuống vực thẳm, tôi khuyên các bạn hãy làm như tôi đã nói. Thế nhưng, cần phải có một điều kiện thiết yếu. Đó là các bạn cần phải thực thi các việc lành ấy chỉ duy để nhận được từ Thiên Chúa, qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ, ơn hối tiếc về các lỗi lầm của các bạn, được Chúa thứ tha tội lỗi và làm chủ các tính hư tật xấu của các bạn, chứ không phải để sống một cách thoải mái trong tình trạng tội lỗi, bất kể đến tiếng cảnh báo của lương tâm, gương lành củ Chúa cũng như của các vị thánh, cùng giáo huấn của Phúc Âm thánh.

 

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 

 

Bản Hướng Dẫn Cử Hành Phụng Vụ


 
 
Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích

 

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL

 

http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/ccdds/documents/rc_con_ccdds_doc_20040423_redemptionis-sacramentum_en.html

 

Chương VI

Những Phận Vụ Đặc Biệt Của Thành Phần Tín Hữu Giáo Dân
(146-153)


149.     Gần đây, ở một số giáo phận đã được truyền bá phúc âm hóa lâu năm, các phần tử thuộc thành phần tín hữu giáo dân của Chúa Kitô đã được chỉ định làm “những phụ tá viên mục vụ”, và nhiều người trong họ thật sự đã phục vụ cho thiện ích của Giáo Hội bằng việc hỗ trợ cho vị Giám Mục, cho các vị Linh Mục và các vị Phó Tế trong vấn đề thi hành hoạt động mục vụ của các vị. Tuy nhiên, hãy cẩn thận kẻo việc phác họa cho phần vụ này được đồng hóa quá khít khao với hình thức thừa tác vụ mục vụ thuộc về hàng giáo sĩ. Tức là cần phải lưu ý đến việc làm sao bảo đảm được rằng “các phụ tá viên mục vụ” không thi hành những gì xứng hợp với thừa tác vụ của các vị thừa tác viên thánh chức.

150.     Hoạt động của một phụ tá viên mục vụ cần phải nhắm đến việc để làm sao giúp cho thừa tác vụ của các vị Linh Mục và Phó Tế được dễ dàng, làm sao để bảo đảm rằng ơn gọi Linh Mục cũng như Phó Tế được khơi động và các phần tử giáo dân thuộc thành phần tín hữu Chúa Kitô ở mỗi cộng đồng dân Chúa được cẩn thận huấn luyện về những phần vụ phụng vụ khác nhau, hợp với các đặc sủng khác nhau cũng như hợp với qui luật.

151.     Chỉ khi nào thực sự quan thiết mới cần đến việc giúp đỡ của các thừa tác viên ngoại lệ trong việc cử hành Phụng Vụ. Việc cần giúp này không có mục đích cho thành phần giáo dân tham dự đầy đủ hơn mà chỉ là, tự bản chất của nó, việc bổ khuyết và dự khuyết (252). Ngoài ra, khi vì nhu cầu cần phải có những phận vụ của các vị thừa tác viên ngoại lệ thì lại càng phải tăng gia lời nguyện cầu thiết tha để xin Chúa sớm sai Linh Mục đến phục vụ cộng đoàn dân Chúa và gieo rắc dồi dào ơn gọi thánh Chức (253).

152.     Những phận vụ có tính cách thuần túy bổ khuyết này không được trở thành một dịp để làm biến dạng đi chính thừa tác vụ của Linh Mục, ở chỗ khiến cho các vị linh mục lơ là bỏ bê việc cử hành Thánh Lễ cho thành phần dân Chúa thuộc quyền quản nhiệm của các vị, việc đích thân chăm sóc cho bệnh nhân, việc rửa tội cho các trẻ em, việc giúp cho các đám cưới hay cử hành các lễ an táng Kitô giáo, những việc trước hết liên quan trực tiếp đến các vị Linh Mục với sự hỗ trợ của các vị Phó Tế. Bởi thế không bao giờ có vấn đề là ở các giáo xứ các vị Linh Mục lại đồng đều thay phiên làm công tác mục vụ chung với các Phó Tế hay giáo dân, gây lẫn lộn những gì chuyện biệt cho từng giới.

153.     Ngoài ra giáo dân không bao giờ được phép đóng vai trò hay mặc áo của vị Linh Mục hay Phó Tế hoặc loại áo giống như thứ áo này.

 

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                   

MÙA XUÂN MUÔN THUỞ MARIA
 

2.- MÙA XUÂN SAU NGUYÊN TỘI

 

N

ếu "trước Nguyên Tội" đã có mùa xuân, thì phải chăng ngay "ban đầu" ấy trời đất cũng đã có 4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay?


"4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay", theo cảm nghiệm tự nhiên, có thể ví như tâm trạng của trời đất được bộc lộ qua những dáng vẻ thay đổi định kỳ trong thiên nhiên.


"Xuân" là thời gian đầu năm "mới mẻ", hiển hiện qua không gian nẩy nở đầy "tươi trẻ", làm cho nhân gian sống trong không gian và thời gian cảm thấy hân hoan "vui vẻ".

 

"Hạ" là thời gian năng động, hiển hiện qua không gian thật căng thẳng và nóng nảy, làm cho nhân gian dễ cảm thấy hung hăng, không thể ngồi yên.


"Thu" là thời gian tàn tạ, hiển hiện qua không gian vàng úa và trống vắng, làm cho nhân gian dễ cảm thấy bâng khuâng, buồn buồn.


"Đông" là thời gian cô đọng (ngày ngắn đêm dài), qua không gian lạnh lẽo và tăm tối, làm cho nhân gian cảm thấy co ro, đơn độc, nhung nhớ, mang một mầu sắc chết chóc.


"4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay", nếu quả thật "trước Nguyên Tội" đã có thì không biết tình trạng "trần truồng mà không biết xấu hổ" (STK 2:25) của hai nguyên tổ ra sao? Có thể lúc bấy giờ, khi còn ở trong tình trạng Công Chính Nguyên Thủy, tình trạng "vô tội" và không biết đến tội lỗi là gì, da thịt của ông bà được miễn nhiễm khỏi mọi bất hạnh trong đời sống, gây ra từ môi sinh hay chăng?


Thế nhưng, chính trong lúc "trước Nguyên Tội" này mà mối thân tình giữa "trời đất" và con người "làm chủ nó" không thể có gì ngăn cách. Bởi đó, nếu "trước Nguyên Tội" đã có 4 mùa, vì không có quần áo để ăn mặc theo "thời trang", thì da thịt "trần truồng" của hai ông bà chắc hẳn sẽ phải biến dạng theo "thời tiết": đỏ, vào "mùa xuân Mỹ Châu", đen vào "mùa hè Phi/Úc Châu", vàng vào "mùa thu Á Châu", và trắng vào "mùa đông Âu Châu". Nếu "trước Nguyên Tội" đã có 4 mùa, thì không biết hai nguyên tổ che đậy bản thân "trần truồng" của mình và trốn lánh Thiên Chúa làm sao được khi Nguyên Tội xẩy ra vào cuối "mùa thu lá bay", lúc mà Vườn Địa Đường đã trở thành một khu rừng thưa trần trụi?!?


"4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay", với bản chất luân chuyển theo tác động thời gian, được tỏ lộ qua hình dáng nơi không gian như thế, làm sao nó có thể xuất hiện ngay "từ đầu", khi mà "Thiên Chúa nhìn mọi sự Ngài đã làm và Ngài thấy nó rất tốt đẹp" (STK 1:31).


"4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay", do đó, chỉ bắt đầu có kể từ "sau Nguyên Tội". "Trước Nguyên Tội", nếu có "mùa" thì chỉ duy có Xuân: Mùa Thái Hòa của Trời Đất, trong trật tự tạo dựng của Đấng Hóa Công, và nếu có "thời" thì chỉ là Thời Phúc Lộc Thọ của Con Người, trong yêu thương của "Thiên Chúa là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất" (kinh Tin Kính).


"Sau Nguyên Tội" ở đây tức là lúc "con cựu xà, gọi là ma qủi hay Satan, tên cám dỗ cả thế gian" (KH 12:9), đã dùng chính miệng lưỡi thâm độc "không có sự thật trong mình" (Gioan 8:44) để sát hại con người "từ ban đầu" (Gioan 8:44).


"Sau Nguyên Tội" ở đây cũng là lúc hai nguyên tổ nghe theo "tên gian trá và là cha của những sự dối trá" (Gioan 8:44) "ăn cây (Thiên Chúa) cấm không được ăn" (STK 3:11), và "cả hai đã mở mắt ra, nhận thấy mình trần truồng" (STK 3:7), phải đan lá vả làm áo che thân mình và không dám đối diện với Thiên Chúa (x.STK 3:7,8).

"Sau Nguyên Tội" ở đây còn là lúc Bản Án Nguyên Tội được tuyên phán, minh định tình trạng băng hoại nơi cả hữu thể của "con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa" (STK 9:6), cũng như nơi bản chất của tạo vật được dựng nên "rất tốt đẹp" ngay "ban đầu" cho con người.


Theo Bản Án Nguyên Tội, hữu thể của con người bị băng hoại ở chỗ: "Ngươi sẽ đổ mồ hôi mới có của ăn... cho đến khi ngươi trở về bụi đất" (STK 3:19), và bản chất của tạo vật nói chung cũng vì con người mà bị băng hoại ở chỗ: "Vì ngươi (con người) mà khốn cho đất... Đất sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi" (STK 3:17). Phải, chính tình trạng bị biến dạng (deformation) có nghĩa tiêu cực này, chứ không phải tình trạng được biến hình (transformation) có nghĩa tích cực, nơi con người "làm chủ trái đất" và nơi "đất" ngay "từ ban đầu" như thế, mới sinh ra và mới có "4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay": Xuân thường từ cuối tháng 12 tới cuối tháng 3, Hạ thường từ cuối tháng 3 tới cuối tháng 6, Thu thường từ cuối tháng 6 tới cuối tháng 9, Đông thường từ cuối tháng 9 tới cuối tháng 12, và từ cuối mùa Đông sang đầu mùa Xuân thường có mưa để những gì chết chóc trong giá lạnh mùa Đông được hồi sinh tươi tốt trong ấm áp mùa Xuân.


"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" từ đó bắt đầu đi vào ngõ hẻm của lịch sử nhân gian, được mở màn bằng mùa hè "đổ mồ hôi" (STK 3:19), khi "Chúa là Thiên Chúa tống cổ con người ra khỏi Vườn Địa Đường, để cầy sới đất đai mà từ đó con người được hình thành" (STK 3:23). Cũng từ đó, mưa bắt đầu đổ xuống trái đất, chứ trước đó, ngay "ban đầu", "Chúa là Thiên Chúa chưa làm mưa xuống trái đất và chưa có con người cầy sới đất đai" (STK 2:5). Từ đó, không còn "Mùa Xuân Nguyên Thủy", Mùa Thái Hòa Trời Đất nữa. Cũng từ đó, trên trái đất, có nơi một năm có đủ bốn mùa, như ở miền Bắc Việt Nam, song cũng có nơi một năm chỉ có hai mùa, mùa nóng và mùa mưa, như ở miền Nam Việt Nam.


"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội", như thế, không phải là và không còn là Mùa Thái Hòa Trời Đất, Mùa mọi sự còn liên kết và hòa hợp với nhau như ý và theo ý Đấng Hóa Công. Nó cũng không còn là và không phải là Thời Con Người Phúc Lộc Thọ nữa, Thời con người còn sống trong Phúc được làm con cái Thiên Chúa "theo hình ảnh thần linh", hưởng Lộc tự do với quyền "làm chủ trái đất", và hưởng Thọ không "phải trở về bụi đất". Theo lịch sử nhân gian, "Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" chỉ là một trong "4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như hiện nay", với thiên chức là mùa đầu trong một năm, và với sứ mạng là làm mới lại những gì đã phát triển trong "mùa hè đỏ lửa" song đã tàn tạ trong "mùa thu lá bay" và đã lịm chết trong "mùa đông nghĩa địa".


"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" đã trở thành Mùa Hy Vọng cho con người và của con người, vì hai lý do. Thứ nhất, vì còn giữ được nét xuân, qua hai trong ba yếu tố chính là "mới mẻ" và "tươi trẻ", tuy không nguyên tuyền như "ban đầu", "Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" vẫn có thể làm cho con người "vui vẻ", vui xuân, hưởng xuân. Thứ hai, nhất là vì cái còn làm cho con người đã bị hư đi "vui vẻ" mừng xuân, đón xuân, không phải ở tại "Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" còn "nét xuân", cho bằng niềm hy vọng ở ngay chính trong lòng người.


"Niềm Hy Vọng" này bắt đầu ló dạng trước khi con người bị "Thiên Chúa tống cổ ra khỏi Vườn Địa Đường". Ngay trong Bản Án Nguyên Tội, Thiên Chúa là Đấng "yêu (con người) trước" (1Gioan 4:19) đã chẳng tự động loan báo cho họ một Tin Vui hay sao, khi nhưng không đoan hứa với con người: "Ta sẽ gây thù hận giữa ngươi (ma qủi) và người nữ, giữa giòng dõi ngươi và giòng dõi người nữ. Ngài sẽ đạp nát đầu ngươi, trong khi ngươi rình cắn gót chân ngài" (STK 3:15).


"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" trở thành Mùa Hy Vọng chẳng những cho con người mà còn cho chung cả tạo vật nữa. Kể từ khi con người bị "Thiên Chúa tống cổ ra khỏi Vườn Địa Đường", Vườn Địa Đường vốn là thiên thai trần thế đã chẳng trở thành khu cấm địa hay sao (x.STK 3:24)? Bởi đó, thời tiết có 4 mùa định kỳ sau Nguyên Tội không phải là phản ảnh tâm trạng của trời đất hay sao, một tâm trạng "quằn quại và rên xiết" (Rm 8:22) của "toàn thể tạo vật đang ngong ngóng đợi trông cuộc hiển linh của con cái Thiên Chúa" (Rm 8:19).


"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" sẽ mất hết ý nghĩa nếu con người sống trong lầm than và vô vọng. "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" (Nguyễn Du: Kiều): như mùa xuân hận thù đầy tang thương chết chóc với những ngày đầu năm khói lửa vào dịp Tết Mậu Thân 1968, hay như mùa xuân vô vọng tự trong lòng người, nơi các trại tị nạn Đông Nam Á, đối với thành phần Thuyền Nhân Việt Nam bị rớt thanh lọc, lo âu chờ đến phiên bị trả về với quê hương yêu dấu, nơi mà họ không còn tìm thấy an bình "vui vẻ".


"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" là bóng ma chập chờn, nếu con người chỉ quay cuồng với cuộc sống hiện sinh. Đối với thành phần "chơi xuân kẻo hết xuân đi, cái già xồng xộc nó thì đến kia" (Trần Tế Xương?), xuân không có gì là "mới mẻ", vì càng làm cho họ già thêm, không có gì là "tươi trẻ", vì càng làm cho họ tàn phai nhan sắc, không có gì là "vui vẻ", vì càng làm cho họ thất vọng về cuộc sống hiện sinh chẳng thể nào làm cho họ hoàn toàn thỏa mãn.

(còn tiếp)

Tâm Phương Cao Tấn Tĩnh

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

TRONG THỜI ÐIỂM MARIA

MẸ MARIA XUẤT HIỆN NHƯ BÌNH MINH 

BÁO HIỆU MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH RẠNG NGỜI TỎ HIỆN...

 

“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất

thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai,

cho dù không cùng một kiểu cách -

  Being the way by which Jesus came to us the first time,

    she will also be the way by which He will come the second time,  

 though not in the same manner

      (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)

 

"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.

Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài,

nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể...

the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary,

He sees that his time is getting short,

and he is making every effort to gain as many souls as possible..."

(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes  ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,

The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)

 

"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".

"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day.
He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".

     (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)

 

Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc

thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của

nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành

của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy

‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó

cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ

với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng

hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con

người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến

trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675)

"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”

March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you.     

(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;

tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha.

Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;

sau đó sẽ là ngày của công lý.

Speak to the world about My mercy;

let all mankind recognize My unfathomable mercy.

It is a sign for the end times;

after it will come the day of justice.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...

Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..."  

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -

Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng

(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa;

nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài,

vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus',

vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis',

là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử',

qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,

vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,

một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương)

để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha -

From her will come forth the spark

that will prepare the world for My final coming”

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)

 

 Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,

và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến

để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -

We are all living in the Advent of the last days of history,

and all trying to prepare for the coming of Christ,

to build the kingdom of God which he proclaimed”

(ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).

 

 

 

Thời Điểm Maria ra mắt ngày 8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được 30.224 lần viếng thăm. Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006. Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006.
 Từ đó TĐM tiếp tục được thêm Hit Counter lần viếng thăm. Đa tạ.

Webmaster@ThoiDiemMaria.Net