|
||||
|
||||
THỨ TƯ 27/2/2008
ĐTC BIỂN ĐỨC XVI
Thánh Giáo
Phụ Âu Quốc Tinh - Đức Tin và Lý Trí
“Sự
thật cư ngụ ở trong con người nội tại”
Buổi Triều Kiến
Chung hằng tuần Thứ Tư 30/1/2008
Bí Mật
Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria
Việc Tận Hiến Cách Hoàn Hảo
cho Chúa Giêsu Kitô
Một việc hoàn hảo lập lại những lời hứa rửa tội
Thông
Điệp Thánh Thể
ĐTC
Gioan Phaolô II
Dẫn Nhập
Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, BVL
Hôn Nhân Gia Đình - Mầu Nhiệm Cao Cả
Kinh Cầu Thánh Gia
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI:
Thánh Giáo Phụ Âu Quốc Tinh -
Đức Tin và Lý Trí
Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 30/1/2008
Bài Giáo Lý 65 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền
Các bạn thân
mến,
Sau Tuần Lễ Cầu Nguyện Cho Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo,
hôm nay chúng ta trở lại với hình ảnh cao cả của Thánh Âu Quốc Tinh. Vào năm
1986, nhân dịp kỷ niệm 1.600 năm ngài trở lại, vị tiền nhiệm Gioan Phaolô
II yêu dấu của tôi đã giành cả một văn kiện dài và chi tiết về Thánh Âu Quốc
Tinh, bức tông thư "Augustinium
Hipponensem." Chính vị Giáo Hoàng này đã muốn diễn tả văn kiện ấy như “việc
tạ ơn Thiên Chúa về tặng ân Ngài đã ban cho Giáo Hội cũng như cho toàn thể
nhân loại nơi cuộc trở lại tuyệt vời ấy” (AAS, 74, 1982, p. 802). Tôi sẽ trở
lại với đề tài hoán cải vào một buổi Triều Kiến chung khác. Đây là một đề
tài nống cốt chẳng những cho đời sống riêng tư của Thánh Âu Quốc Tinh mà còn
cho cả đời sống của chúng ta nữa. Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật vừa rồi chính
Chúa đã tóm gọn việc giảng dạy của Người bằng lời: “Hãy thống hối”. Theo
chân của Thánh Âu Quốc Tinh, chúng ta mới có thể về những gì liên quan tới
việc hoán cải: nó là một cái gì đó dứt khoát, quyết liệt song là một quyết
định trọng yếu cần phải phát triển, cần phải thực hiện suốt cuộc sống của
chúng ta.
“Sự
thật cư ngụ ở trong con người nội tại”
Tuy nhiên, bài giáo lý hôm nay nhắm đến chủ đề về đức tin và lý trí, một đề
tài quan trọng, hay đúng hơn, là đề tài quan trọng đối với tiểu sử của Thánh
Âu Quốc Tinh. Khi còn là một con trẻ, ngài đã học biết đức tin Kitô giáo từ
Thánh Monica, mẹ của ngài. Thế nhưng, ngài đã bỏ đức tin này ở vào tuổi
thanh thiếu niên, vì ngài không nhận ra được cái hợp lý của nó và đã tẩy
chay một tôn giáo mà theo ý nghĩ của ngài không thể hiện lý trí, tức là
không biểu lộ sự thật. Niềm khát khao chân lý của ngài là những gì sâu
xa, bởi thế đã dẫn ngài đến chỗ lìa xa đức tin Công Giáo. Tuy nhiên, khuynh
hướng mạnh mẽ muốn kiếm tìm chân lý này của ngài đã khiến ngài không thỏa
mãn với những thứ triết lý không dẫn đến chính sự thật, không dẫn đến Thiên
Chúa và đến một vị Thiên Chúa không chỉ là một giả thuyết tối hậu về vũ trụ
mà còn là Vị Thiên Chúa chân thực, Vị Thiên Chúa ban sự sống và đi vào đời
sống của chúng ta.
Như thế việc phát triển toàn diện về lý trí và tâm linh của Thánh Âu Quốc
Tinh cũng là một kiểu mẫu hợp thời ngày nay đối với mối liên hệ giữa đức tin
và lý trí, một chủ đề chẳng những giành cho thành phần tín hữu mà còn cho
hết mọi người tìm kiếm chân lý nữa, một đề tài chính yếu cho tình trạng quân
bình và định mệnh của hết mọi người. Hai chiều kích này, đức tin và lý trí,
không được tách rời nhau hay trở thành tương phản; trái lại, chúng phải luôn
cùng nhau sánh bước. Như chính Thánh Âu Quốc Tinh đã viết sau khi trở lại
rằng “đức tin và lý trí là hai năng lực dẫn chúng ta đến chỗ hiểu biết”
(Contra
Academicos, III, 20, 43). Về vấn đề này, nhờ hai công thức xác đáng nổi
tiếng của Thánh Âu Quốc Tinh (cf. Sermones, 43, 9) cho thấy cái tổng
hợp chặt chẽ của đức tin và lý trí: crede ut intelligas (“tin để hiểu
biết”) – tin tưởng mở đường cho việc vượt qua ngưỡng cửa của sự thật
– thế nhưng cũng không thể nào thiếu vấn đề intellige ut credas (“hiểu
để tin hơn”), người tín hữu mới đào sâu vào sự thật để có thể thấy
Thiên Chúa và để có thể tin tưởng.
Hai khẳng định
của Thánh Âu Quốc Tinh thực sự trực tiếp cho thấy hết sức tương ứng với cái
tổng hợp về vấn đề được Giáo Hội Công Giáo cảm thấy biểu lộ trong cuộc hành
trình của mình. Tổng hợp này đã được hình thành trong lịch sử thậm chí
cả trước khi Chúa Kitô xuất hiện, ở nơi cuộc gặp gỡ giữa niềm tin Do Thái và
tư tưởng Hy Lạp thuộc Do Thái Giáo theo văn hóa Hy Lạp. Ở giai đoạn
sau đó, cái tổng hợp này đã được tiếp tục và khai triển bởi nhiều tư tưởng
gia Kitô Giáo. Việc hòa hợp giữa đức tin và lý trí trước hết có nghĩa
là Thiên Chúa không phải là những gì xa vời: Ngài không xa cách với lý trí
của chúng ta và với đời sống của chúng ta; Ngài gần gũi với hết mọi con
người, gần gũi với tâm can của chúng ta cũng như với lý trí của chúng ta,
nếu chúng ta thực sự bắt đầu cuộc hành trình ấy.
Thánh Âu Quốc
Tinh đã cảm thấy Thiên Chúa gần gũi con người một cách hết sức mãnh liệt. Sự
hiện diện của Thiên Chúa nơi con người thì sâu xa và đồng thời cũng huyền
nhiệm, song họ có thể nhận ra nó và khám phá thấy nó một cách sâu xa trong
bản thân mình. Con người hoán cải này đã nói: “Đừng đi ra ngoài, hãy
trở về nội tâm của bạn; sự thật cư ngụ ở trong con người nội tại; và nếu bạn
thấy cái bản tính của mình là những gì đổi thay thì hãy siêu việt hóa bản
thân mình. Thế nhưng, xin hãy nhớ rằng, khi bạn siêu việt hóa bản thân mình
là bạn đang siêu việt hóa một linh hồn biết lý luận đó. Bởi thế, bạn hãy
vươn tới chỗ nào mà lý trí của bạn được thắp sáng lên” (De vera
religione, 39, 72). Điều này giống như những gì chính ngài đã nhấn mạnh
bằng một câu nói rất thời danh ở đầu cuốn Tự Thú, một cuốn tự thuật
về tâm linh được ngài viết để chúc tụng Thiên Chúa: “Chúa đã dựng nên
chúng con cho Chúa nên lòng chúng con khắc khoải cho tới khi được nghỉ yên
trong Chúa” (I, 1,1).
Bởi vậy,
việc xa vời của Thiên Chúa là những gì tương đương với việc xa vời của
bản thân con người: Thánh Âu Quốc Tinh đã thú nhận (Confessions,
III, 6, 11) khi trực tiếp thân thưa cùng Thiên Chúa rằng “thế
nhưng Chúa còn sâu thẳm hơn tận thâm cung của con và cao vời hơn cái tột
đỉnh trong con”, interior intimo meo et superior summo meo; để rồi,
như ngài đã nói thêm ở một đoạn khác khi nhớ tới thời đoạn trước cuộc hoán
cải của ngài, “Chúa ở đó trước cả con nữa, song con đã lìa bỏ bản thân
con. Con thậm chí không thể thấy được chính bản thân mình, lại càng không
thể thấy được Chúa” (Confessions, V, 2, 2). Chính vì Thánh Âu
Quốc Tinh đã sống cuộc hành trình lý trí và tâm linh này bằng con người đầu
tiên ấy mà ngài đã miêu tả nó ở những tác phẩm khác một cách mật thiết, sâu
xa và khôn ngoan, khi nhìn nhận, ở hai đoạn nổi tiếng khác trong cuốn Tự
Thú (IV, 4, 9 and 14, 22), rằng con người là “một bí ẩn vĩ đại”
(magna quaestio) và là “một vực thẳm khổng lồ” (grande profundum),
một bí ẩn và một vực thẳm chỉ duy một mình Chúa Kitô mới có thể soi chiếu và
cứu vớt chúng ta mà thôi. Vấn đề quan trọng là ở chỗ con người nào xa
lìa Thiên Chúa thì cũng xa lìa bản thân mình, xa lạ với bản thân mình, và
chỉ có thể gặp được bản thân mình nhờ việc hội ngộ với Thiên Chúa.
Nhờ đó, họ mới trở về với chính mình, với chính con người thực của họ,
với căn tính đích thực của họ.
Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa
Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/audiences/2008/documents/hf_ben-xvi_aud_20080130_en.html (còn
tiếp)
Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria
Nguyên Tác của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)
Bản Dịch của
Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, BVL
Phần Hai: Việc Trọn Hảo Sùng Kính Đức Mẹ
Chương Thứ Ba: Việc Tận Hiến Các Hoàn Hảo cho Chúa Giêsu Kitô 2. Một việc hoàn hảo lập lại những lời hứa rửa tội 133. Một số người nói rằng, có lẽ, nếu tôi dâng cho Đức Mẹ tất cả giá trị của những việc tôi làm để áp dụng nó cho những ai Mẹ muốn thì tôi sẽ phải chịu khổ lâu dài trong luyện ngục. Thứ chống đối này tự nó bác bỏ mình, vì nó là một thứ chống đối xuất phát từ lòng tự ái và từ việc không nhận thức được lòng quảng đại của Thiên Chúa cũng như của Mẹ Người. Hãy lấy thí dụ trường hợp của một linh hồn nhiệt tình quảng đại coi trọng các lợi ích của Chúa hơn của riêng mình. Họ dâng cho Chúa tất cả những gì họ có mà không so đo dè sẻn cho tới độ họ không còn gì để hiến dâng nữa. Họ chỉ ước mong sao cho vinh quang và vương quốc của Chúa Giêsu được hiển trị qua Mẹ của Người, và họ làm tất cả những gì có thể để thực hiện được điều ấy. Tôi xin hỏi là, liệu linh hồn quảng đại và vô vị kỷ này lại bị trừng phạt hơn ở đời sau bởi đã sống quảng đại và vô vị kỷ hơn các người khác hay chăng? Hoàn toàn không phải là thế! Vì chúng ta sẽ thấy sau này là Chúa của chúng ta và Mẹ của Người sẽ cho thấy các Ngài quảng đại nhất đối với linh hồn như thế qua những tặng ân về tự nhiên, về ơn phước và về vinh quang ở đời này cũng như đời sau. 134. Giờ đây chúng ta cần phải bàn đến vắn tắt bao nhiêu có thể những điều sau đây: (1) Những động lực khuyến khích chúng ta thực hiện việc tôn sùng này, (2) những hiệu quả tuyệt vời được việc tôn sùng này làm nẩy sinh nơi các linh hồn trung thành, và (3) những thực hành của việc tôn sùng này. (còn tiếp)
Thông Điệp Thánh Thể
Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/encyclicals/documents/hf_jp-ii_enc_17042003_ecclesia-de-eucharistia_en.html Dẫn Nhập 4. Đó là giờ khắc cứu chuộc của chúng ta. Mặc dù hết sức khổ tâm, Chúa Giêsu cũng không bỏ chạy trước “giờ khắc” của Người. “Biết nói sao đây? ‘Lạy Cha, xin hãy cứu con khỏi giờ khắc này?’ Thế nhưng, chính vì để làm điều này mà con đã đến với giờ khắc ấy” (Jn 12:27). Người đã muốn các môn đệ của Người ở với Người, song Người vẫn cảm thấy lẻ loi và bị bỏ rơi: “Thì ra các con không thể thức với Thày một giờ đồng hồ sao? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện hầu các con khỏi bị sa chước cám dỗ” (Mt 26:40-41). Chỉ có một mình tông đồ Gioan là có mặt dưới chân cây Thập Giá, bên cạnh Mẹ Maria và các người nữ trung thành. Cuộc khổ tâm ở vườn Diệtsimani là mở màn cho cuộc khổ nạn Thập Giá của Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Đó là giờ thánh, giờ khắc cứu chuộc thế giới. Bất cứ khi nào Thánh Thể được cử hành tại ngôi mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem đều cho thấy một dấu hiệu rõ ràng nhất trong việc trở lại với “giờ khắc” này của Người, một giờ khắc Thập Giá và vinh quang. Hết mọi vị linh mục cử hành Thánh Lễ, cùng với cộng đồng Kitô hữu tham dự, theo tinh thần, đều trở về với nơi chốn ấy và giờ khắc ấy. “Người đã bị đóng đanh, Người đã chịu chết và được mai táng; Người đã xuống với kẻ chết; vào ngày thứ ba Người đã sống lại”. Những lời tuyên xưng đức tin làm vang vọng những lời lẽ chiêm niệm và công bố: “Đây là gỗ Thánh Giá, nơi treo Đấng cứu Độ trần gian. Chúng ta hãy đến thờ lạy”. Đó là lời mời gọi Giáo Hội muốn gửi đến tất cả mọi người vào những giờ phút ban chiều Thứ Sáu Tuần Thánh. Thế rồi Giáo Hội tiếp tục bài ca của mình trong mùa Phục Sinh để công bố rằng: “Chúa đã sống lại từ trong mồ đá, Người đã vì chúng ta mà bị treo lên cây Thập Giá, Alleluia”. (còn tiếp)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Hôn Nhân Gia Đình - Mầu Nhiệm Cao Cả
Kinh Cầu Thánh Gia
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
||||
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |