|
||||
|
||||
THỨ BA 11/3/2008
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Thánh Giáo
Phụ Lêô Cả Buổi
Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 5/3/2008
Bí Mật
Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria
Việc Tận Hiến Cách Hoàn Hảo
cho Chúa Giêsu Kitô
2. Việc tôn
sùng này giúp chúng ta noi gương bắt chước Chúa Kitô
Thông
Điệp Thánh Thể
Thánh Thể Xây Dựng Giáo Hội
Cuộc Họp Quốc Tế Lần Hai của Chính Trị Gia và Các Nhà Lập
Pháp Mỹ Châu
“Phẩm Giá của Gia Đình và Sự Sống
trong Lãnh Vực Chính Trị và Ngành Lập Pháp ở Mỹ Châu theo Chiều Hướng của Thông
Điệp Phúc Âm Sự Sống”
2) NHỮNG SỰ THẬT VỀ GIA ĐÌNH VÀ SỰ SỐNG
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Thánh Giáo Phụ Lêô Cả
Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 5/3/2008 Bài Giáo Lý 68 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền
Anh chị em thân mến,
Để tiếp tục cuộc hành trình của chúng ta với các vị Giáo Phụ của Giáo Hội, những luồng ánh sáng hướng dẫn thực sự từ xa, trong cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay đây, chúng ta sẽ nhìn đến một vị giáo hoàng, vị mà vào năm 1754, đã được Đức Biển Đức XIV tuyên bố là tiến sĩ của Giáo Hội: hiển nhiên là tôi muốn nói về Đức Leô Cả. Như danh xưng của ngài được truyền thống gán cho, ngài thực sự là một trong những vị đại giáo hoàng làm vẻ vang cho Ngai Tòa Rôma. Ngài đã đóng góp rất lớn cho việc kiên cường quyền bính và thế giá của ngài tòa này. Ngài là vị Giám Mục Rôma đầu tiên lấy tên Lêô, một danh xưng sau đó được xưng nhận bởi 12 vị giáo hoàng nữa. Ngài cũng là vị giáo hoàng đầu tiên chúng ta thấy được việc ngài giảng dạy cho dân chúng qui tụ lại bên ngài trong các cuộc mừng lễ. Điều này làm cho chúng ta tự nhiên nghĩ về ngài liên quan tới các buổi Triều Kiến chung Thứ Tư; một cuộc gặp gỡ trong các thập niên gần đây đã trở thành một cách thức gặp gỡ thông thường và cần thiết với tín hữu cũng như với nhiều khách thăm viếng khác trên khắp thế giới.
Thánh Lêô vào đời ở Tuscia. Ngài đã trở thành một vị phó tế của Giáo Hội Rôma vào khoảng năm 430 và qua giòng thời gian ngài đã tiến lên vị trí cao cả. Ngài nổi bật trong vai trò phó tế này và vào năm 440 Galla Placidia đang cai quản Đế Quốc Rôma Tây Phương bấy giờ đã sai ngài tới Gallia để giúp giải quyết một tình trạng rất ư là khó khăn.
Tuy nhiên, vào mùa hè năm đó, Đức Giáo Hoàng Sisto III – một danh xưng liên quan tới những tấm vi thạch ghép uy linh ở Santa Maria Maggiore – qua đời. Chính Thánh Lêô là vị kế nhiệm ngài; ngài đã nghe tin này trong khi đang thực hiện sứ vụ hòa bình của ngài ở Gaul.
Khi trở về Rôma, vị tân Giáo Hoàng này đã đăng quang vào ngày 29/9/440. Giáo triều của ngài kéo dài 21 năm và phải công nhận là một trong những giáo triều quan trọng nhất trong lịch sử Giáo Hội. Khi qua đời vào ngày 10/11/461, vị Giáo Hoàng này đã được mai táng gần một Thánh Phêrô. Thánh cốt của ngài vẫn còn được lưu giữ ở một trong những bàn thờ ở Vatican cho tới ngày nay.
Giáo Hoàng Lêô đã sống vào những thời buổi rất khó khăn: nào là những cuộc xâm chiếm của man dân cứ tái đi diễn lại, nào là tình trạng dần dần suy yếu về quyền lực đế quốc ở Tây phương cùng với một cuộc khủng hoảng lâu dài về xã hội là những gì buộc vị Giám Mục Rôma – như đã từng xẩy ra ở một mức độ trầm trọng hơn nữa vào một thế kỷ rưỡi sau đó trong giáo triều của Đức Grêgôriô Cả – phải lãnh nhận vai trò ở những gì đang xẩy ra về dân sự lẫn chính trị thời bấy giờ. Điều này hiển nhiên đã giúp vào việc làm gia tăng tầm quan trọng và thế giá của Ngai Giáo Hoàng Rôma.
Thánh Lêô Cả được đặc biệt nhớ đến về một số những gì xẩy ra trong cuộc đời của ngài vào năm 452, khi ngài gặp Attila người Mông Cổ ở Matua và đã chinh phục được ông hủy bỏ cuộc xâm chiếm của ông là những gì đã tàn phá các miền đông bắc Ý quốc. Việc làm này của ngài đã cứu được cả phần đất còn lại của bán đảo Ý quốc.
Biến cố quan trọng đáng ghi nhớ này đã trở thành biểu hiệu cho những nỗ lực hòa bình của vị Giáo Hoàng ấy. Tiếc thay, một sáng kiến khác của vị giáo hoàng này xẩy ra sau đó 3 năm không được thành công cho lắm. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy lòng can đảm kinh khủng. Vào mùa xuân năm 455, Đức Lêô đã không thể ngăn chặn được các nhóm quân Geiseric Vandals xâm chiếm và tàn phá Rôma hai tuần lễ. Dầu sao cử chỉ do vị Giáo Hoàng này thực hiện – vị đã đi tay không cùng với hàng giáo sĩ của ngài đến gặp kẻ xâm lược trong nỗ lực thuyêá phục ông ta dừng tay – đã tránh cho Rôma khỏi bị thiêu rụi và cứu được Đền Thờ Thánh Phêrô, Thánh Phaolô và Thánh Gioan là những nơi dân chúng Rôma đang khiếp sợ ẩn náu.
Chúng ta đã biết rõ những hành động của Giáo Hoàng Lêô, nhờ những bài giảng tuyệt hay của ngài – khoảng gần 100 trong số những bài giảng của ngài đã được bảo trì bằng tiếng Latinh xuất sắc và rõ ràng – cũng như nhờ ở các bức thư của ngài, khoảng ở con cố 150. Trong các bản văn của mình, vị Giáo Hoàng này đã cho thấy tất cả những gì là cao cả của mình, trong việc phục vụ cho chân lý bằng bác ái yêu thương, bằng việc thực hiện không mỏi mệt một thứ ngôn từ chứng tỏ ngài vừa là một thần học gia vừa là vị chủ chiên.
Đức Lêô Cả, vị luôn nhận biết các tín hữu của mình và dân chúng Rôma, song cũng biết được cả mối hiệp thông giữa các Giáo Hội khác nhau cùng những nhu cầu của chư giáo hội này, đã là một vị củng cố và không ngừng phát động vai trò chính yếu của Rôma, cho ngài là vị thừa kế đích thực của Thánh Phêrô Tông Đồ: nhiều vị giám mục tham dự Công Đồng Chung Chalcedon – hầu hết là đông phương – đã hoàn toàn thấy được điều ấy.
(còn tiếp)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 5/3/2008 (những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)
Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria
Nguyên Tác của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort) Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Phần Hai: Việc Trọn Hảo Sùng Kính Đức Mẹ
Chương Thứ Ba: Việc Tận Hiến Cách Hoàn Hảo cho Chúa Giêsu Kitô
3. Việc tôn sùng này chiếm được nhiều phúc lành từ Đức Mẹ
158. Hãy chỉ cho tôi một con đường mới mẻ nào đến với Chúa của chúng ta, một con đường được lát bằng tất cả mọi công nghiệp của những vị thánh, một con đường được trang hoàng bằng những nhân đức anh hùng của các ngài, một con đường rạng ngời và nổi nang với ánh quang và vẻ đẹp của các thiên thần, có tất cả mọi thiên thần và thánh nhân ở đó để hướng dẫn và bảo vệ những ai muốn tiến bước trên con đường ấy. Hãy cống hiến cho tôi con đường ấy và tôi dám nói một cách chân thực, một cách thành thực – và tôi đang nói thật rằng – thay vì con đường này, cho dù trọn hảo đến đâu đi chăng nữa, tôi vẫn chon con đường vô nhiễm Maria. Nó là một con đường, một đạo lộ vô tì vết, không có cả nguyên tội lẫn hiện tội, không có một bóng mờ hay bóng tối nào. Khi Chúa Giêsu yêu dấu của chúng ta lại đến trong vinh quang để cai trị trái đất này – vì Người chắc chắc sẽ làm – Người sẽ không chọn một con đường nào khác hơn là Đức Trinh Nữ này, nhờ Mẹ Người đã đến thật sự và trọn hảo lần thứ nhất. Cái khác nhau giữa lần đến thứ nhất và thứ hai của Người đó là lần nhất thì âm thầm và kín đáo, còn lần thứ hai thì vinh quang và rạng ngời. Cả hai lần đều toàn hảo vì cả hai đều qua Mẹ Maria. Than ôi, đây là một mầu nhiệm chúng ta không thể nào hiểu nổi, “ở nơi đây hết mọi miệng lưỡi đều câm nín”.
159. (d) Việc tôn sùng Đức Mẹ này là một đường lối chắc chắn để đến với Chúa Giêsu và chiếm đạt thánh thiện nhờ nên một với Người.
(1) Việc tôn sùng mà tôi đã giảng dạy đây không phải là những gì mới mẻ. Lịch sử của nó xa xưa đến nỗi không thể biết chắc được ngồn gốc của nó một cách chính xác, như Cha Boudon, vị đã chết thánh thiện cách đây ít lâu, đã nói trong một cuốn sách được ngài viết về việc tôn sùng này. Tuy nhiên, chắc chắn một điều là chúng ta thấy được các dấu vết của nó ở trong Giáo Hội trên 700 năm.
Thánh Odilo, đan viện phụ ở Cluny, vị đã qua đời vào khoảng năm 1040, là một trong những người đầu tiên công khai thực hành việc tôn sùng ấy ở Pháp quốc như truyện đời ngài kể lại.
Đức hồng y Peter Damian kể lại rằng vào năm 1076, người anh em của mình là Chân Phước Marino, đã dâng mình làm nô lệ cho Đức Trinh Nữ trước mặt vị linh hướng của ngài một cách hết sức trang trọng. Ngài đã quấn một sợi giây thừng quang cổ của ngài, đã hành phạt ngài và đã để trên bàn thờ một số tiền như biểu hiệu cho việc ngài tôn sùng và tận hiến cho Đức Mẹ. Ngài vẫn trung thành với việc tận hiến ấy suốt cuộc đời của ngài đến nỗi đáng được vị Nữ Vương yêu dấu của ngài viếng thăm và an ủi khi hấp hối cùng nghe từ miệng Mẹ lời hứa thiên đàng để tưởng thưởng việc phụng sự của ngài.
Caesarius Bollendus đã đề cập tới một hiệp sĩ nổi danh là Vautier de Birback, một thân quyến gần gũi của vị Công Tước ở Louvain, người đã tận hiến cho Đức Trinh Nữ vào khoảng năm 1300.
Việc tôn sùng này cũng được thực hiện âm thầm tư riêng bởi nhiều người cho tới thể kỷ thứ 17, khi nó được công khai biết tới. (còn tiếp)
Thông Điệp Thánh Thể
Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/encyclicals/documents/hf_jp-ii_enc_17042003_ecclesia-de-eucharistia_en.html
23. Mối hiệp thông Thánh Thể cũng củng cố sự hiệp nhất Giáo Hội như thân thể của Chúa Kitô. Thánh Phaolô đề cập đến quyền năng hiệp nhất liên quan tới việc tham dự vào bữa tiệc Thánh Thể này khi thánh nhân viết cho các Kitô hữu Corintô: “Tấm bánh chúng ta bẻ ra không phải là việc hiệp thông vào thân thể Chúa Kitô hay sao? Vì chỉ có một tấm bánh, chúng ta tuy nhiều song cũng chỉ là một thân thể duy nhất, bởi tất cả chúng ta đều thông phần vào cùng một tấm bánh” (1Cor 10:16-17). Thánh John Chrysostom dẫn giải về những lời này một cách sâu xa và nhận thức như sau: “Tấm bánh này là gì? Đó là thân thể Chúa Kitô. Và những ai lãnh nhận tấm bánh ấy sẽ trở nên những gì? Thân thể Chúa Kitô – không phải là nhiều thân thể mà là một thân thể duy nhất. Vì như bánh hoàn toàn chỉ là một, cho dù được làm nên bởi nhiều hạt lúa miến, và những hạt lúa miến ấy, mặc dù không thấy, song vẫn hiện diện, ở chỗ cái khác biệt của chúng không hiện lộ vì chúng được trở thành một toàn khối trọn vẹn, chúng ta cũng thế, cũng hiệp lại với nhau và cùng nhau hiệp nhất với Chúa Kitô” (42). Lập luận này thật là mãnh liệt, ở chỗ, việc chúng ta hiệp nhất với Chúa Kitô, một tặng ân và là ân huệ cho mỗi một người trong chúng ta, có thể thực hiện trong Người để chúng ta được thông phần vào mối hiệp nhất của thân thể Giáo Hội của Người. Thánh Thể củng cố việc tháp nhập vào Chúa Kitô được thực hiện nơi Phép Rửa nhờ tặng ân Thần Linh (x 1Cor 12:13,27). Hoạt động liên kết bất khả phân ly của Chúa Con và Thánh Linh ở ngay khởi nguyên của Giáo Hội, liên quan đến việc gắn bó vững chắc của Giáo Hội cũng như đến sự sống liên tục của Giáo Hội, là hoạt động vẫn đang diễn tiến nơi Thánh Thể. Điều này thật rõ ràng đối với vị tác giả của Phụng Vụ của Thánh Giacôbê: ở lời nguyện xin Thánh Thần của Kinh Nguyện Thánh Thể, Thiên Chúa Ngôi Cha được nguyện xin sai Thánh Thần xuống trên tín hữu cũng như trên các lễ vật, để mình và máu Chúa Kitô “trở nên một thứ trợ giúp cho tất cả những ai tham hưởng… nhờ đó hồn xác họ được thánh hóa” (43). Giáo Hội được kiên cường bởi Đấng An Ủi thần linh qua việc Ngài thánh hóa tín hữu nơi Thánh Thể. 24. Tặng ân Chúa Kitô và Thần Linh của Người chúng ta lãnh nhận được nơi mối hiệp thông Thánh Thể làm tràn đầy muôn vàn niềm ước vọng vốn được đâm rễ sâu trong tâm can con người về việc hiệp nhất huynh đệ; tặng ân ấy cũng đồng thời thăng hoa cả cảm nghiệm về tình yêu huynh đệ vốn đã hiện hữu nơi việc chúng ta cùng nhau chia sẻ cùng một bàn tiệc Thánh Thể, tới độ vượt quá cảm nghiệm thuần nhân loại trong việc chia sẻ một bữa ăn. Bằng việc được hiệp thông với thân mình Chúa Kitô, Giáo Hội càng tiến đến chỗ sâu xa hơn nữa “ở trong Chúa Kitô theo bản tính của một bí tích, tức là, của một dấu hiệu và là một dụng cụ cho mối hiệp nhất thân mật với Thiên Chúa cũng như cho mối hiệp nhất toàn thể nhân loại” (44). Những mầm mống chia rẽ, những mầm mống mà kinh nghiệm hằng ngày cho thấy đã đâm rễ rất sâu xa nơi nhân loại như là hậu quả của tội lỗi, bị quyền năng hiệp nhất của thân thể Chúa Kitô đối kháng. Thánh Thể, chính nhờ việc xây dựng Giáo Hội, kiến tạo nên cộng đồng nhân loại vậy. (còn tiếp)
Cuộc Họp Quốc Tế Lần Hai của Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập Pháp ở Mỹ Châu diễn ra tại Mexico City ngày 6-8/6/1996 “Phẩm Giá của Gia Đình và Sự Sống trong Lãnh Vực Chính Trị và Ngành Lập Pháp ở Mỹ Châu theo Chiều Hướng của Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống” Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
2) NHỮNG SỰ THẬT VỀ GIA ĐÌNH VÀ SỰ SỐNG
“Đối diện với những vấn nạn và thách đố này, chúng tôi muốn tái xác nhận một số những nguyên tắc quan trọng hơn để soi dẫn đường lối chúng ta đi.
1. “Chúng tôi tái công nhận phẩm vị và giá trị bẩm sinh của hết mọi con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa nên có khả năng yêu thương hy hiến bản thân mình.
2. “Chúng tôi tái xác nhận là các quyền lợi của con người đều do bẩm sinh mà có, như được nêu lên trong Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền (1948)
3. “Chúng tôi tái công nhận giá trị và tầm quan trọng hiện tại của Bản Hiến Chương về Các Quyền Lợi của Gia Đình được Tòa Thánh phổ biến (1983). Bởi thế, chúng tôi tái xác nhận rằng gia đình được hưởng những quyền lợi phát xuất từ chính căn tính của mình là tế bào căn bản của xã hội.
4. “Chúng tôi tái xác nhận rằng gia đình được làm nên bởi hôn nhân là cuộc hiệp nhất giữa một người nam và một người nữ để hướng đến việc truyền đạt sự sống con người.
5. “Chúng tôi tái xác nhận rằng tính chất bất khả phân ly của hôn nhân giữa một người nam và một người nữ cần phải được bảo vệ bởi những luật lệ để phục vụ thiện ích cho xã hội. 6. “Chúng tôi tái công nhận quyền sống của tất cả mọi con người, từ lúc thụ thai cho tới khi tự nhiên chết đi. Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dạy: ‘Không ai được đặc quyền hay được chuẩn chước đối với qui tắc luân lý cấm việc trực tiếp lấy mạng sống của một con người vô tội. Dù là người nắm trong tay quyền làm chủ thế giới hay là người nghèo nhất trong các người nghèo trên mặt đất này thì cả hai cũng không khác nhau. Đối với những đòi buộc của luân lý, tất cả chúng ta hoàn toàn bình đẳng như nhau’ (Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống, đoạn 57)
(còn tiếp)
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,, Dịch từ tuần san L' O sservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 26/6/1996)
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
||||
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |