THỨ HAI 17/3/2008
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI Iraq và Ngày Giới Trẻ Thế Giới 2008 Huấn Từ Nguyện Kinh Truyền Tin Chúa Nhật Lễ Lá 16/3/2008 Thánh Long Mộng Phố Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria (171) Việc Tận Hiến Cách Hoàn Hảo cho Chúa Giêsu Kitô 2. Việc tôn sùng này giúp chúng ta noi gương bắt chước Chúa Kitô ĐTC Gioan Phaolô II Thông Điệp Thánh Thể (36-37) Thánh Thể Và Vấn Ðề Hiệp Thông Xã Hội Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
Huấn Từ của ngày 6/2/2002 với Pháp Đình Roma dịp Mở Năm Tài Phán
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Iraq và Ngày Giới Trẻ Thế Giới 2008
Huấn Từ Nguyện Kinh Truyền Tin Chúa Nhật Lễ Lá 16/3/2008
Vào cuối cuộc cử hành long trọng mà chúng ta đã suy niệm về Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô, tôi muốn nhắc đến đức cố tổng giám mục ở Mosul là Đức ông Paulos Faraj Rahho, vị đã chết thảm thương cách đây mấy hôm. Chứng từ tuyệt vời của ngài đối với Chúa Kitô, với Giáo Hội và với thành phần dân của ngài là những người ngài đã không bỏ rơi bất chấp nhiều lần bị đe dọa, khiến cho tôi phải mạnh mẽ và buồn thảm kêu lên rằng: Máu đổ đủ rồi, bạo lực đủ rồi, hận thù ở Iraq đủ rồi! Đồng thời tôi cũng kêu gọi nhân dân Iraq, những con người 5 năm trời đã chịu đựng các hậu quả của một thứ chiến tranh gây biến động cả đời sống dân sự và xã hội của nó: Hỡi nhân dân Iraq yêu quí, anh chị em hãy ngẩng đầu lên và hãy là những người đầu tiên đích thân tái thiết đời sống quốc gia của anh chị em! Chớ gì việc hòa giải, thứ tha, công lý và tôn trọng đối với việc chung sống về dân sự của các bộ tộc, các nhóm sắc tộc và các nhóm đạo giáo trở thành một đường lối kết đoàn dẫn đến hòa bình vì danh Thiên Chúa!
Giờ đây, anh chị em thân mến, tôi lập lại lời chào thân ái của tôi. Tôi đặc biệt ngỏ lời chào đến giới trẻ, thành phần đến từ các quốc gia trên thế giới nhân dịp Ngày Giới Trẻ Thế Giới, một ngày được Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II thân yêu liên kết với Chúa Nhật Lễ Lá. Trong giây phút này đây, tôi nghĩ đến Sydney, Úc Đại Lợi, nơi đang sửa soạn cho cuộc đại hội mà tôi sẽ gặp gỡ giới trẻ trên toàn thế giới từ ngày 15 đến 20 tháng Bảy năm nay. Tôi cám ơn hội đồng giám mục Ý quốc, ĐHY Pell, tổng giám mục Sydney, và các hợp tác viên của ngài đặc biệt, về tất cả hoạt động họ đang dấn thân làm. Tôi cũng cám ơn các viên chức tiểu bang và liên bang Úc về việc quảng đại nâng đỡ cho công cuộc quan trọng này. Hẹn gặp các bạn ở Sydney!
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 16/3/2008
Riêng về biến cố qua đời của Đức Tổng Giám Mục ở Mosul, hôm 13/3/2008, Đức Thánh Cha đã gửi một điện tín cho Đức Hồng Y Emmanuel III Delly, thượng phụ ở Babylon của dân Chadean, Iraq, về cái chết của vị TGM bị bắt cóc hôm 29/2/2008 này.
Trong bức điện tín phân ưu, ĐTC đã bày tỏ lòng ngài gắn bó “với Giáo Hội Lễ Nghi Chaldean cũng như toàn thể cộng đồng Kitô hữu”, ngài tái khẳng định “việc lên án hành động bạo lực vô nhân đạo phạm đến phẩm vị của con người và trầm trọng tác hại tới việc chung sống huynh đệ của nhân dân Iraq thân yêu”. Ngài hứa nguyện cầu cho vị TGM qua đời, “vị đã bị bắt cóc ngay sau khi đi Đường Thánh Giá” và ngài kêu cầu Chúa xót thương “để cho biến cố thê thảm này giúp vào việc xây dựng một tương lai hòa bình nơi mảnh đất tử đạo ở Iraq”.
Vị Giám đốc Văn phòng Báo chí của Tòa Thánh là Federico Lombardi, SJ, cũng phổ biến bản tuyên ngôn cũng trong ngày 13/3 như sau:
“Tất cả chúng ta đã tiếp tục và cầu xin cho ngài được thả ra, một điều mà Đức Giáo Hoàng đã yêu cầu một số lần qua những lời kêu gọi của ngài.
“Tiếc thay việc bạo động vô nghĩa nhất và bất chính nhất vẫn tiếp tục đổ xuống trên nhân dân Iraq, nhất là trên cộng đồng Kitô giáo nhỏ bé được Đức Giáo Hoàng và toàn thể chúng ta đặc biệt gắn bó nguyện cầu và liên đới ở vào giây phút đau khổ lớn lao này.
“Hy vọng rằng biến cố thê thảm này một lần nữa – một cách mạnh mẽ hơn – nhấn mạnh đến trách nhiệm của hết mọi người, nhất là của cộng đồng quốc tế, đối với tiến trình hòa bình hóa một quốc gia quá ư là biến loạn”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được VIS phổ biến ngày 13/3/2008
Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria
Nguyên Tác của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort) Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Phần Hai: Việc Trọn Hảo Sùng Kính Đức Mẹ
Chương Thứ Ba: Việc Tận Hiến Cách Hoàn Hảo cho Chúa Giêsu Kitô
3. Việc tôn sùng này chiếm được nhiều phúc lành từ Đức Mẹ (7) Việc tôn sùng này mang lại nhiều lợi ích cho tha nhân của chúng ta 171- Việc tôn sùng này mang lại nhiều lợi ích cho tha nhân của chúng ta, vì nhờ nó, chúng ta tỏ ra tình chúng ta yêu thương tha nhân của chúng ta một cách đặc biệt, vì chúng ta nhờ bàn tay của Mẹ Maria dâng cho Người tất cả những gì chúng ta đánh giá cao nhất – tức là, giá trị của việc đền tội và việc nguyện cầu của tất cả mọi việc lành chúng ta làm, cho dù là ý nghĩ tốt lành tầm thường nhất và nỗi khổ đau bé mọn nhất. Chúng ta đồng ý là tất cả những gì chúng ta đã chiếm được và sẽ chiếm được cho tới chêá phải được sử dụng tùy theo ý muốn của Đức Mẹ cho việc hoán cải của các tội nhân hay việc giải thoát các linh hồn trong luyện ngục. Đó không phải tình yêu trọn lành đối với tha nhân của chúng ta hay sao? Đó không phải là người môn đệ đích thực của Chúa Kitô, người môn đệ luôn được nhận biết bởi tình yêu thương của họ? Đó không phải là cách thức hoán cải tội nhân cho khỏi nguy cơ của thứ vinh quang hoang đường, và giải thoát các linh hồn cho khỏi Luyện Ngục, bằng cách chịu khó làm những gì nhiều hơn là điều buộc chúng ta làm theo bậc sống của chúng ta? (còn tiếp)
Thông Điệp Thánh Thể
Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/encyclicals/documents/hf_jp-ii_enc_17042003_ecclesia-de-eucharistia_en.html
Thánh Thể Và Vấn Ðề Hiệp Thông Xã Hội
36. Mối hiệp thông vô hình, mặc dù tự bản chất của nó, luôn tăng tiến, cần phải có sự sống ân sủng là những gì làm cho chúng ta trở thành “những người thông dự vào bản tính thần linh” (2Pet 1:4), cũng như cần phải thực hành các nhân đức tin, cậy và mến. Chỉ có thế chúng ta mới thực sự hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần. Ðức tin cũng không đủ; chúng ta cần phải kiên trì sống ơn thánh hóa và yêu thương, bằng việc ở trong Giáo Hội “một cách thể lý” cũng như “bằng tâm hồn của chúng ta” (72); theo lời Thánh Phaolô, điều cần phải có đó là “đức tin hoạt động qua đức ái” (Gal 5:6). Việc giữ trọn vẹn những mối liên hệ vô hình này là một nhiệm vụ đặc biệt về luân lý đối với những Kitô hữu muốn trọn vẹn tham dự vào Thánh Thể bằng việc lãnh nhận mình máu Chúa Kitô. Tông đồ Phaolô đã kêu gọi thực thi điều này khi ngài cảnh giác rằng: “Hãy xét mình đã rồi hãy ăn bánh và uống chén này” (1Cor 11:28). Thánh Gioan Kim Khẩu đã huấn dụ tín hữu một cách hung hồn rằng: “Cả tôi cũng lên tiếng nữa, tôi năn nỉ, van xin và khẩn cầu là đừng có ai tiến đến với bàn tiệc thánh này với một lương tâm bị nhơ bẩn và bại hoại. Thật vậy, một hành động như thế không thể nào có thể được gọi là ‘hiệp thông’ cả, cho dù chúng ta có đụng chạm đến mình Chúa cả ngàn lần, mà chỉ là ‘luận phạt’, ‘cực hình’ và ‘gia tăng hình phạt’” (73). Cũng thế, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo cũng đã có lý nhấn mạnh rằng “ai ý thức được mình đã phạm trọng tội thì phải lãnh nhận bí tích Hòa Giải trước khi hiệp lễ” (74). Thế nên, Tôi muốn tái xác nhận là, vẫn còn hiệu lực hiện nay cũng như sau này trong Giáo Hội qui luật đã được Công Ðồng Triđentinô cụ thể bày tỏ theo lời cảnh giác nghiêm trọng của Thánh Phaolô là, để lãnh nhận Thánh Thể một cách xứng đáng, “người ta phải trước hết xưng thú tội lỗi của mình, khi nhận ra mình đang mắc trọng tội” (75). 37. Hai bí tích Thánh Thể và hòa giải hết sức gắn liền với nhau. Vì Thánh Thể hiện thực hóa hy tế cứu chuộc của Thập Giá, kéo dài hy tế này một cách bí tích, mà dĩ nhiên cần phải liên tục thực hiện việc hoán cải, một đáp ứng bản thân theo lời Thánh Phaolô kêu gọi Kitô Hữu giáo đoàn Côrintô: “Nhân danh Chúa Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy hòa giải với Thiên Chúa” (2Cor 5:20). Nếu lương tâm của người Kitô hữu cảm thấy mình phạm trọng tội thì cần phải lãnh nhận bí tích Hòa Giải để được hoàn toàn tham dự vào Hy Tế Thánh Thể. Phán đoán về tình trạng ơn thánh của con người thực sự chỉ thuộc về chính đương sự, vì nó là vấn đề kiểm điểm lương tâm của mình. Tuy nhiên, trong những trường hợp tác hành bề ngoài có tính cách trầm trọng, hiển nhiên và chắc chắn trái ngược lại với qui tắc luân lý, thì Giáo Hội, vì mối quan tâm mục vụ về phương diện thiện ích của cộng đồng và vì lòng tôn kính phép bí tích này, không thể nào lai không trực tiếp can thiệp. Khoản Giáo Luật đã đề cập đến tình trạng tỏ ra thiếu điều kiện về luân lý này khi xác định rằng những ai “cứ cứng lòng phạm trọng tội” thì không được Hiệp Lễ (76). (còn tiếp)
ĐTC Gioan Phaolô II
Huấn Từ của ngày 28/1/2002 với Pháp Đình Roma dịp Mở Năm Tài Phán Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
Tôi chân thành cám ơn Đức Ông Giám Pháp Funghini, trong khi bày tỏ những cảm mến và mối quan tâm của qúi vị, đã giải thích công việc vất vả hằng ngày của qúi vị đối với những phê phán cũng như với việc thống kê chú trọng tới những vấn đề trầm trọng và phức tạp cần đến quyết định của quí vị. Cuộc khai mạc long trọng cho một tân pháp niên này khiến Tôi có cơ hội được gặp gỡ thân tình với tất cả những ai đang thi hành sứ vụ về công lý nơi Pháp Đình Rôma – Quí Vị Thẩm Phán, Công Tố, Bảo Hệ, Viên Chức và Biện Hộ – để nói lên cho quí vị thấy lòng tri ân của Tôi, niềm cảm mến và phấn khởi của Tôi. Việc điều hành công lý trong cộng đồng Kitô hữu là một công cuộc phục vụ quí giá, vì nó tạo nên một điều kiện tiên quyết bất khả châm chước cho một đức ái chân chính.
Hoạt động pháp đình là một hình thức của công cuộc mục vụ
Hoạt động pháp đình của quí vị, như vị Giám Pháp đã nhấn mạnh, trước hết nhắm đến những trường hợp giải hôn. Về vấn đề này, cùng với các tòa án thuộc giáo hội khác, cũng như với vai trò đặc biệt của mình trong số những tòa án này, một vấn đề Tôi đã nhấn mạnh trong văn kiện Pastor Bonus (x khoản 126), quí vị đã thể hiện cho thấy việc Giáo Hội tỏ ra quan tâm về cơ cấu chuyên biệt trong việc phán quyết theo sự thật và công lý cái vấn đề tế nhị của việc hôn nhân thành hiệu hay không. Sứ vụ của các tòa án trong Giáo Hội, một đóng góp không thể thiếu, thuộc về toàn cục bộ của việc phục vụ đời sống hôn nhân và gia đình. Chính khía cạnh mục vụ cần đến một sự cố gắng liên lỉ để khai triển toàn vẹn hơn sự thật về hôn nhân và gia đình, thậm chí như là một điều kiện thiết yếu để điều hành công lý trong lãnh vực này.
Tính cách bất khả phân ly vốn là một sự thiện hợp với dự án của Đấng Hóa Công dành cho vợ chồng
2.- Những tính chất chính yếu của hôn nhân – tính chất hiệp nhất và bất khả phân ly (x Giáo Luật khoản 1056; Giáo Luật Giáo Hội Đông Phương khoản 776 3) – hiến cho chúng ta cơ hội để suy tư sâu xa về hôn nhân. Để tiếp theo những gì Tôi đã bàn đến trong bài diễn từ của Tôi năm ngoái về tính cách bất khả phân ly của hôn nhân, hôm nay, Tôi muốn cứu xét đến tính chất bất khả phân ly như là một sự thiện đối với vợ chồng, con cái, đối với Giáo Hội cũng như toàn thể nhân loại.
Việc trình bày một cách tích cực về mối hiệp nhất bất khả phân ly để tái nhận thức được sự thiện hảo và tốt đẹp của tính cách này là một điều quan trọng. Trước hết, cần phải thắng được quan niệm coi tính cách bất khả phân ly của hôn nhân như những gì giới hạn quyền tự do của đôi phối ngẫu và là những gì nặng nề có những lúc không thể nào gánh vác nổi… Đối với vấn đề này, cũng cần phải nói thêm về quan niệm cho rằng vấn đề hôn nhân bất khả phân ly chỉ dành cho thành phần những tín đồ mà thôi, bởi thế, họ không thể nào ‘áp đặt’ nó trên toàn khối xã hội dân sự được.
3.- Để trả lời một cách chắc chắn và đầy đủ cho vấn đề này, người ta phải bắt đầu bằng lời của Thiên Chúa. Cụ thể là Tôi đang nghĩ đến đoạn Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại cuộc đối thoại của Chúa Giêsu về vấn đề ly dị với một số người Pharisiêu rồi với môn đệ của Người (x Mt 19:3-12). Chúa Giêsu đã đi vào tận gốc rễ của vấn đề, vượt cả giới hạn tranh luận trong thời của Người về những yếu tố có thể dùng để biện minh cho hành động ly dị, khi Người cho biết là: “Vì lòng chai cứng của quí vị mà Moisen mới cho phép quí vị ly dị vợ mình, chứ từ ban đầu không hề có như vậy” (Mt 19:8).
Theo giáo huấn của Chúa Giêsu thì chính Thiên Chúa mới là Đấng liên kết con người nam nữ lại với nhau trong cuộc liên hệ hôn nhân. Cuộc hiệp nhất này được thực hiện chắc chắn cần phải được cả đôi bên tự do đồng ý lấy nhau, thế nhưng việc đồng ý lấy nhau này lại liên quan đến một dự án thần linh. Nói cách khác, chính chiều kích tự nhiên của cuộc hiệp nhất này, hay nói một cách cụ thể hơn, chính bản tính của con người được chính Thiên Chúa dựng nên, đã cho thấy chiếc chìa khóa cần thiết không thể thiếu trong việc giải thích những tính chất thiết yếu của hôn nhân. Việc làm kiên vững hơn những tính chất nơi hôn nhân Kitô giáo theo bí tích ấy (x Giáo Luật khoản 1056) được đặt nền tảng trên lề luật tự nhiên, một lề luật mà, nếu bị loại trừ, sẽ không thể nào hiểu được chính công cuộc cứu độ cũng như việc thăng hóa thực tại phối ngẫu được Chúa Giêsu hiệu lực hóa một lần vĩnh viễn.
(còn tiếp)
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
|
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |