THỨ BA 18/3/2008
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI Đức Giáo Hoàng truyền điều chỉnh lời nguyện truyền thống cho Thứ Sáu Tuần Thánh liên quan tới việc hoán cải của người Do Thái Thánh Long Mộng Phố Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria (172) Việc Tận Hiến Cách Hoàn Hảo cho Chúa Giêsu Kitô 2. Việc tôn sùng này giúp chúng ta noi gương bắt chước Chúa Kitô ĐTC Gioan Phaolô II Thông Điệp Thánh Thể (38-39) Thánh Thể Và Vấn Ðề Hiệp Thông Xã Hội Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
Huấn Từ của ngày 6/2/2002 với Pháp Đình Roma dịp Mở Năm Tài Phán
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Đức Giáo Hoàng truyền điều chỉnh lời nguyện truyền thống cho Thứ Sáu Tuần Thánh liên quan tới việc hoán cải của người Do Thái
Ấn bản ra ngày 6/2/2008, tờ L’Osservatore Romano – được phát hành, theo truyền thống nhật báo Vatican, vào chiều ngày 5/2 - đã đăng tải một loan báo từ Văn Phòng Quốc Vụ Khanh, là Đức Thánh Cha đã truyền thực hiện một thay đổi trong bản văn của Sách Lễ Rôma 1962. Việc thay đổi này áp dụng cho “hình thức ngoại lệ” của phụng vụ; nó không thay đổi các lời cầu nguyện của Thứ Sáu Tuần Thánh của Novus Ordo.
Có một số vị lãnh đạo Do Thái đã thiết tha yêu cầu Đức Giáo Hoàng hãy chỉnh lại bản văn lời nguyện Thứ Sáu Tuần Thánh theo phụng vụ truyền thống, lời cầu nguyện liên quan tới “tình trạng mù quáng” của dân Do Thái – một chi tiết mà nhiều người Do Thái đã coi là phạm đến họ. Một số người phê bình về lời cầu nguyện truyền thống này cũng kêu gọi loại bỏ lời cầu nguyện cho việc hoán cải dân Do Thái.
Bản văn mới được điều chỉnh đã loại bỏ chi tiết mù quáng, nhưng vẫn giữ lời cầu nguyện cho việc trở lại của dân Do Thái.
Lời cầu nguyện được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI điều chỉnh này trước đây đã được Đức Piô XII thay đổi và sau đó được Đức Gioan XXIII đổi thay; ấn bản được phê chuẩn bởi Đức Gioan XXIII vẫn còn được sử dụng ở các nhà thờ Công Giáo khi sử dụng Sách Lễ Rôma 1962.
Ấn bản mới của kinh nguyện liên quan tới dân Do Thái được tờ L’Osservatore Romano phổ biến như sau:
Oremus et
pro Iudaeis. Ut Deus et Dominus noster illuminet corda eorum, ut agnoscant
Iesum Christum salvatorem omnium hominum.
Lời cầu nguyện này chỉ được sử dụng bằng tiếng Latinh, bằng hình thức ngoại lệ của phụng vụ Latinh. Tuy nhiên, lời nguyện ấy có thể được chuyển dịch như sau:
Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người Do Thái: xin Thiên Chúa là Chúa của chúng ta soi sáng cõi lòng của họ, để họ có thể nhận biết Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại. Chúng ta hãy cầu nguyện. Chúng ta hãy quì xuống. Xin hãy đứng lên. Lạy Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu, Đấng muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý, vì lòng xót thương của Chúa, xin cho tất cả dân Yến Duyên được cứu độ trong khi toàn thể nhân loại tiến vào Giáo Hội của Chúa, nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được CWNews.com phổ biến ngày 5/2/2008
Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria
Nguyên Tác của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort) Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Phần Hai: Việc Trọn Hảo Sùng Kính Đức Mẹ
Chương Thứ Ba: Việc Tận Hiến Cách Hoàn Hảo cho Chúa Giêsu Kitô
3. Việc tôn sùng này chiếm được nhiều phúc lành từ Đức Mẹ (7) Việc tôn sùng này mang lại nhiều lợi ích cho tha nhân của chúng ta 172- Muốn cảm nhận được cái tuyệt vời của động lực này chúng ta cần phải hiểu tuyệt vời dường bao khi hoán cải được một tội nhân hay cứu được một linh hồn khỏi Luyện Ngục. Đó là một sự thiện vô cùng, còn lớn lao cao cả hơn việc tạo dựng nên đất trời, vì nó làm cho linh hồn chiếm hữu được Thiên Chúa. Nếu nhờ việc tôn sùng này chúng ta giải cứu được chỉ cần một linh hồn khỏi Luyện Ngục hay hoán cải một tội nhân duy nhất trong cả đời sống của mình, thì chẳng lẽ không đủ để thu hút người nào đó thực sự mến yêu tha nhân thực hành việc tôn sùng này hay sao? Cần phải lưu ý là các việc lành của chúng ta, qua bàn tay của Mẹ Maria, càng ngày càng được thanh tẩy tinh tuyền. Nhờ đó, các công nghiệp của chúng cùng với giá trị đền tội và nguyện cầu của chúng cũng được gia tăng. Đó là lý do tại sao chúng trở nên hiệu năng hơn trong việc giảm bớt những linh hồn trong Luyện Tội cũng như trong việc hoán cải các tội nhân, hơn là chúng không được qua bàn tay trinh nguyên và quảng đại của Mẹ Maria. Một khi bị tước lột khỏi ý riêng và được mặc lấy tình yêu vô vị lợi, điều nhỏ mọn chúng ta dâng cho Đức Trinh Nữ thực sự có đủ sức làm nguôi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa và khiến cho Ngài dủ tình thương. Có thể tin rằng vào trong giờ lâm chung, người nào trung thành với việc tôn sùng này sẽ thấy rằng họ đã cứu được nhiều linh hồn khỏi Luyện Ngục và hoán cải được nhiều tội nhân, cho dù họ chỉ thi hành những tác đồng bình thường thuộc bậc sống của họ. Họ hân hoan vui sướng biết bao trước tòa phán xét. Rạng ngời biết mấy vinh quang vĩnh hằng của họ. (còn tiếp)
Thông Điệp Thánh Thể
Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/encyclicals/documents/hf_jp-ii_enc_17042003_ecclesia-de-eucharistia_en.html
Thánh Thể Và Vấn Ðề Hiệp Thông Xã Hội 38. Vấn đề hiệp thông giáo hội, như Tôi đã nói, cũng là vấn đề hữu hình nữa, và là vấn đề được thể hiện nơi một loạt những “liên hệ” như Công Ðồng Chung Vaticanô II đã liệt kê: “Họ được hoàn toàn tháp nhập vào tổ chức của Giáo Hội, một Giáo Hội, có Thần Linh của Chúa Kitô ngự trị, chấp nhận toàn thể cấu trúc của mình cùng với tất cả mọi phương tiện cứu độ nơi Giáo Hội, và trong cơ cấu hữu hình của Giáo Hội, họ được liên kết cả với Chúa Kitô, Ðấng cai trị Giáo Hội qua Vị Giáo Hoàng và các Ðức Giám Mục, bằng những liên kết của việc tuyên xưng đức tin, các bí tích, việc cai trị và mối hiệp thông giáo hội” (77). Thánh Thể, một biểu lộ hiệp thông thượng đỉnh về bí tích nơi Giáo Hội, cần phải được cử hành theo chiều hướng hoàn toàn thể hiện những mối liên hệ hiệp thông bề ngoài. Ðặc biệt vì “thực sự là tuyệt đỉnh của đời sống thiêng liêng và là mục đích của tất cả mọi bí tích” (78), mà Thánh Thế cần đến thực sự những liên hệ hiệp thông về bí tích, nhất là bí tích Rửa Tội và Truyền Chức Thánh. Không thể trao Thánh Thể cho một người chưa rửa tội, hay một người phủ nhận sự thật trọn vẹn của đức tin liên quan đến mầu nhiệm Thánh Thể. Chúa Kitô là sự thật và Người là Ðấng làm chứng cho sự thật (x. Jn 14:6;18:37); bí tích mình máu của Người không chấp nhận tính cách giả hình. 39. Ngoài ra, đối với chính bản chất của mối hiệp thông giáo hội cũng như với những liên hệ của mối hiệp thông này với bí tích Thánh Thể, cũng cần phải nhớ rằng “Hy Tế Thánh Thể, trong khi bao giờ cũng phải được hiến dâng trong một cộng đồng riêng biệt, song không bao giờ lại là việc cử hành của một mình cộng đồng ấy. Thật thế, cộng đồng này, khi được Chúa hiện diện, cũng lãnh nhận tất cả tặng ân cứu độ, và tỏ cho thấy rằng, qua hình thức hữu hình đặc biệt bền vững của mình, cộng đồng còn là hình ảnh và là sự hiện diện đích thực của một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền” (79). Bởi thế mới thấy rằng một cộng đồng Thánh Thể thực sự không thể nào lại là một cộng đồng khép kín, như thể cộng đồng này tự mình đã được đầy đủ một cách nào đó; trái lại, cộng đồng ấy cần phải kiên trì trong sự hòa hợp với hết mọi cộng đồng Công Giáo khác nữa. Mối hiệp thông giáo hội của cộng đồng Thánh Thể là mối hiệp thông với vị Giám Mục của mình cũng như với Ðức Giáo Hoàng. Thật vậy, vị Giám Mục là nguyên tố hữu hình và là nền tảng của mối hiệp nhất ở Giáo Hội riêng của ngài (80). Bởi thế, hoàn toàn mâu thuẫn nếu bí tích đệ nhất của mối hiệp nhất Giáo Hội được cử hành lại thiếu mối hiệp thông thực sự với vị Giám Mục. Thánh Ignatiô Antiôkia đã viết: “Thánh Thể được cử hành bởi vị Giám Mục hay bởi ai được vị Giám Mục thừa ủy mới được coi là thành hiệu” (81). Cũng thế, vì “Ðức Giáo Hoàng Rôma, vị thừa kế Thánh Phêrô, là căn nguyên và là nền tảng vĩnh tại và hữu hình của mối hiệp nhất của các vị Giám Mục cũng như của khối tín hữu” (82), mà mối hiệp thông với ngài thực sự cần phải có dể cử hành Hy Tế Thánh Thể. Bởi thế sự thật cao cả được bộc lộ này là sự thật được Phụng Vụ thể hiện bằng nhiều cách khác nhau: “Hết mọi cử hành Thánh Thể đều được thực hiện trong mối hiệp nhất chẳng những với vị Giám Mục riêng, mà còn với Ðức Giáo Hoàng, với hàng giáo phẩm, với tất cả mọi giáo sĩ, cùng toàn thể dân Chúa. Mọi cử hành Thánh Thể thành hiệu đều thể hiện mối hiệp thông hoàn vũ này với vị Thừa kế Thánh Phêrô và toàn thể Giáo Hội, hay khách quan kêu gọi mối hiệp thông này, như trong trường hợp của các Giáo Hội Kitô Giáo phân ly với Tòa Thánh Rôma” (83). (còn tiếp)
ĐTC Gioan Phaolô II
Huấn Từ của ngày 28/1/2002 với Pháp Đình Roma dịp Mở Năm Tài Phán Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
Tính cách bất khả phân ly không phải là một lý tưởng, mà là đòi hỏi của luật tự nhiên trong việc áp dụng chung.
4.- Có vô số con người nam nữ ở mọi thời và khắp mọi nơi đã sống hợp với dự án thần linh và tự nhiên này, ngay cả trước khi Chúa Cứu Thế xuất hiện, và cũng có rất nhiều người sau khi Người đến đã thực hiện điều này nữa, cho dù họ không biết Người. Tự do của họ hướng về tặng ân của Thiên Chúa, cả lúc họ kết hôn cũng như trong suốt cuộc sống vợ chồng của họ. Tuy nhiên việc nổi loạn chống lại dự án yêu thương này bao giờ cũng có thể xẩy ra, bởi vậy mới nói đến “lòng chai cứng”, yếu tố đã khiến Moisen cho phép ly dị nhưng lại là việc ly dị Chúa Kitô nhất định chế ngự. Đối với những trường hợp giống như những trường hợp ấy, con người cần phải đáp ứng bằng một lòng can đảm khiêm hạ của đức tin, một đức tin nâng đỡ và kiên cường chính lý trí, khiến nó có thể thực hiện một cuộc trao đổi với tất cả những ai tìm kiếm sự thiện đích thực của con người cũng như của xã hội. Việc giải quyết tính cách bất khả phân ly không phải như là một qui chuẩn pháp lý tự nhiên, mà như là một lý tưởng thuần túy, sẽ làm mất hết ý nghĩa lời công bố bất khả vãn hồi của Chúa Giêsu Kitô, Đấng tuyệt đối phủ nhận việc ly dị vì “từ ban đầu không có như thế” (Mt 19:8).
Hôn nhân “là” việc bất khả phân ly, ở chỗ, tính cách này không phải chỉ là một sự kiện chủ quan. Bởi đó, sự thiện của tính cách bất khả phân ly là sự thiện của chính hôn nhân, và nếu không hiểu được bản chất bất khả phân ly này cũng không hiểu được yếu tính của hôn nhân. Bởi thế, “gánh nặng” của tính cách bất khả phân ly và những giới hạn từ đó mà ra, đối với tự do của con người, chính là mặt trái của một đồng tiền, nếu xét đến sự thiện cũng như đến khả thể vốn chất chứa nơi một cơ cấu hôn nhân như vậy. Theo quan điểm này, nói rằng lề luật của con người “áp đặt” là vô lý, vì lề luật của con người phải phản ảnh và bảo toàn lề luật tự nhiên và thần linh, một thứ lề luật bao giờ cũng là một sự thật giải thoát (x Jn 8:32).
(còn tiếp)
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
|
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |