TAM NHẬT VƯỢT QUA
THỨ SÁU 21/3/2008
Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II Ý NGHĨA TAM NHẬT THÁNH Bài Giáo Lý cho Buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư 7/4/2004 ĐTC Gioan Phaolô II Mẹ Maria Liên Kết Bản Thân vào Hy Tế của Chúa Giêsu Bài Giáo Lý cho Buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư 9/4/1997 Lòng Thương Xót Chúa Tuần Chín dọn mừng Lễ Kính Chúa Tình Thương Chúa Nhật II Phục Sinh Nhật Ký của Chị Thánh Faustina Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL Đau Khổ Ơn Gọi Làm Người
Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II
Ý NGHĨA TAM NHẬT THÁNH
Bài Giáo Lý cho Buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư 7/4/2004
4. Vào đêm Thứ Bảy Tuần Thánh, Lễ Vọng Phục Sinh long trọng được bắt đầu, một đêm vọng trên hết các đêm vọng. Sau khi làm phép lửa mới, cây nến phục sinh được thắp lên, biểu hiệu cho Chúa Kitô, Đấng soi sáng cho hết mọi người, sau đó trang trọng hớn hở vang lên lời công bố “Hãy Vui Lên”. Cộng đồng giáo hội, trong khi nghe Lời Chúa, suy gẫm về lời hứa cao cả liên quan tới cuộc giải phóng cuối cùng cứu con người khỏi tội lỗi và sự chết. Tiếp theo là lễ nghi rửa tội và thêm sức cho những người dự tòng, thành phần đã trải qua một giai đoạn sửa soạn lâu dài.
5. Anh chị em thân mến, những ngày này là những ngày hết sức thuận lợi để thực hiện một cuộc hoán cải lòng trí chúng ta sâu xa hơn nữa cho Đấng đã vì yêu thương chết đi cho chúng ta. Chúng ta hãy để cho Mẹ Maria, Vị Trinh Nữ trung thành, hỗ trợ chúng ta; với Mẹ, chúng ta ở tại Nhà Tiệc Ly và đứng gần Chúa Giêsu trên đồi Canvê, để thấy Người cuối cùng sống lại vào ngày Phục Sinh. Bằng những cảm thức và mến mộ này, Tôi gửi đến anh chị em những lời chúc thân ái nhất của Tôi, mong anh chị em đang hiện diện nơi đây, cộng đồng của anh chị em cũng như tất cả mọi người thân yêu của anh chị em được hưởng một Lễ Phục Sinh vui vẻ và thánh đức.
ĐTC Gioan Phaolô II
Mẹ Maria Liên Kết Bản Thân vào Hy Tế của
Chúa Giêsu Bài Giáo Lý cho Buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư 9/4/1997
Tuần Chín dọn mừng Lễ Kính Chúa Tình Thương Chúa Nhật II Phục Sinh
Nhật Ký của Chị Thánh Fuastina Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh chuyển dịch
Chúa Giêsu chỉ cho con viết xuống và thực hiện trước Lễ Kính Tình Thương tuần chính ngày này. Nó bắt đầu vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Cha mong ước là trong chín ngày này, con đem các linh hồn đến mạch nguồn của tình thương Cha, để họ có thể kín múc từ đó sức mạnh mà hồi sinh, cùng với những ơn cần thiết cho họ trước những khó khăn của cuộc đời, nhất là trong giờ lâm tử.
Mỗi ngày con mang về cho Trái Tim Cha một nhóm các linh hồn khác nhau, rồi con hãy dìm họ vào trong đại dương này của tình thương Cha, phần Cha sẽ đưa tất cả những linh hồn này về nhà Cha Cha. Con sẽ làm như thế ở cả đời này lẫn đời sau. Cha sẽ không từ chối một sự gì cho linh hồn mà con mang về mạch nguồn của tình thương Cha. Mỗi ngày, con hãy van xin Cha Cha các ơn lành cho những linh hồn này, dựa vào công lực của cuộc Khổ Nạn đắng cay của Cha.
Con đã đáp lại: "Chúa Giêsu ơi, con đâu có biết làm tuần chín ngày này, hay phải mang những linh hồn nào trước vào Trái Tim Rất Xót Thương của Chúa đây". Chúa Giêsu trả lời là Người sẽ nói cho con biết những linh hồn nào mỗi ngày cần phải mang vào trong Trái Tim Người.
Ngày 1
Hôm nay, con hãy mang về cho Cha tất cả nhân loại, nhất là mọi tội nhân, mà dìm họ vào trong đại dương của tình thương Cha. Làm như vậy, con sẽ an ủi Cha trong cơn đau thương cay cực mà việc hư đi của các linh hồn nhận chìm Cha xuống.
Lạy Chúa Giêsu Rất Xót Thương, bản tính Chúa là cảm thương chúng con và thứ tha cho chúng con, xin đừng nhìn đến tội lõi của chúng con hơn là niềm tin tưởng của chúng con vào lòng lành vô cùng của Chúa. Hãy đón nhận tất cả chúng con vào cung lòng của Trái Tim Rất Xót Thương Chúa, và đừng bao giờ để chúng con lọt khỏi Trái Tim Chúa. Chúng con nài xin Chúa điều này nhờ tình yêu nối kết Chúa với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh.
Ôi Tình Thương Thần Linh toàn năng, Ơn Cứu Rỗi của người tội lỗi, Chúa là biển cả tình thương và cảm thương; Chúa đỡ nâng những ai khiêm nhượng tiếp nhận Chúa.
Lạy Chúa Cha Hằng Sống, hãy ghé mắt tình thương của Cha trên tất cả nhân loại, đặc biệt trên những tội nhân đáng thương, tất cả đều được ấp ủ trong Trái Tim Rất Cảm Thương của Chúa Giêsu. Vì cuộc Khổ Nạn sầu thương của Người, xin Cha tỏ tình thương của Cha cho chúng con, để chúng con được chúc tụng tình thương toàn năng của Cha đời đời kiếp kiếp. Amen.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Đau Khổ
Ơn Gọi Làm Người
Ý Nghĩa của Đau Khổ: Cảm Nhận Chủ Quan
hông một con người nào được sinh vào trần gian này thoát được khổ đau. Có thể nói chính vì đau khổ là thân phận của con người mà vừa mở mắt chào đời là con người đã bật tiếng khóc, tiếng khóc chào đời. Đến nỗi, ai không bật tiếng khóc đầu tiên này được coi là bất thường hay phi thường.
Cách đây 15 năm, tôi biết có một bé trai Việt Nam, con của một người bạn chí thân của tôi ở tiểu bang Wisconsin, đã không hề khóc, chẳng những từ khi lọt lòng mẹ mà còn cho tới nay nữa. Cha mẹ em cho biết họ không bao giờ thấy em khóc hay nghe em khóc. Tôi đã gặp em bốn năm lần, lần cuối cùng vào tháng 8/2002 tại Missouri, em đã trở thành một thiếu niên, hoàn toàn bình thường và rất dễ thương về cả tâm hồn lẫn thể xác. Hầu như em không biết buồn. Em cũng có ý riêng, cũng đòi cha mẹ điều này điều kia. Nhưng em không hề bất mãn khi không được thỏa nguyện. Không biết tương lai của em như thế nào. Hiện tại em đúng là một con người thật hiếm có trên đời. Tôi còn thân với một người bạn nữa, lớn hơn tôi mấy tuổi, người nhỏ con, ăn ít, ngủ ít, song làm nhiều, mà hầu như thân xác của anh chẳng có bệnh tật gì bao giờ. Theo anh cho biết, từ năm 1956 đến năm 1982, năm chúng tôi xa nhau, anh chỉ uống một viên Aspirin duy nhất, bất chấp cảm cúm hằng năm hoành hành cộng đoàn cả trăm người anh chung sống. Đặc biệt nhất là, trong thời gian sống sát bên con người này từ năm 1964 tới 1982, tôi không hề thấy anh tỏ ra bất mãn với ai bao giờ, dù có bị những người nhỏ tuổi chọc ghẹo hay bị bất cứ ai xúc phạm cách nào. Không biết anh bạn có tâm tính dễ thương được mọi người quí mến đây có giống em bé chào đời và sống trên đời chẳng bao giờ khóc trên đây hay chăng, tôi chưa kịp hỏi. Dầu sao đó cũng là những trường hợp thuộc luật trừ.
Thế nhưng, vấn đề ở đây là những con người thuộc loại luật trừ này, dù không bao giờ khóc, hay bị bệnh hoạn, hoặc tỏ ra khó chịu bất mãn, có bao giờ họ cảm thấy đau khổ một cách nào đó chăng? Chắc chắn là có. Chẳng hạn họ cảm thấy đói khát khi thiếu của ăn nước uống, dù không mở miệng kêu ca, cảm thấy nóng lạnh theo mùa thời tiết hay trong lúc thất thường khí hậu, dù không lên tiếng kêu than, nhất là cuối cùng họ sẽ đi đến cái đau khổ cuối cùng của cuộc đời con người đó là cái chết, dù họ không sợ chết. Bởi thế, vấn đề đau khổ ở đây trước hết liên quan tới vấn đề cảm nhận chủ quan hơn khách quan.
Thật vậy, về khách quan, đau khổ có thể bao gồm tất cả những gì phản lại với bản tính tự nhiên của con người, tức phản lại với thể xác, nhất là tâm hồn của con người, phản lại nội tâm của con người, phản lại với ý nghĩ, ý thích và ý muốn của con người, những phản khắc khiến con người cảm thấy hết sức khó chịu. Đến nỗi, nhiều khi họ tỏ ra những phản ứng kinh hoàng khiếp đảm, đi tới chỗ “cả giận mất khôn”, “mắt đền mắt răng đền răng”, như tình hình khủng bố tấn công và tấn công khủng bố vào đầu thiên niên kỷ thứ ba hiện nay trên thế giới, nhất là tại Trung Đông, giữa khối Palestine và Do Thái hiện nay. Vì đau khổ liên quan đến cảm nhận chủ quan của con người như thế mà nếu con người nào không hề cảm thấy đau khổ một tí nào trong cuộc đời, gây ra bởi những gì phản lại với bản tính tự nhiên của mình như thế, họ chỉ có thể là một xác chết vô hồn.
Cho dù thành phần chậm phát triển nặng, profound mental retarded, cũng không thoát được cảm nghiệm khổ đau này. Một con người bị stroke nặng, hoàn toàn bất động như chết về thân xác, kể cả miệng lưỡi, nhưng trước khi lìa đời, thân nhân của họ vẫn thấy họ âm thầm thốt lên lời vĩnh biệt được bộc thoát, qua những giọt lệ khổ đau trào ra từ khóe mắt hấp hối của họ. Thành phần nhân gian gọi là “thánh nhân dị chúng nhân” cũng thế, dù siêu việt và siêu thoát mấy đi nữa, cũng cảm thấy khổ đau. Chỉ khác chúng nhân ở chỗ họ không bị khổ đau quật ngã mà thôi. Trái lại, họ còn có thể nhờ khổ đau để vươn lên, để luyện thân cho khôn ngoan và cứng cát hơn, nhờ đó họ có đủ khả năng thông cảm với đời và phục vụ đời hơn. Về lãnh vực tình yêu nói chung và tình yêu phái tính nói riêng, càng khổ vì người yêu mà chủ thể yêu vẫn cứ yêu, không phải là dấu chứng tỏ cho thấy nhờ đau khổ tình yêu của chủ thể yêu đã thực sự trở nên chân chính và trọn hảo hay sao? Nhân gian Việt Nam đã chẳng cảm nghiệm được ý nghĩa sâu xa và tác dụng tích cực của khổ đau khi nói “thời thế tạo anh hùng”, “cái khó bó cái khôn”, “thất bại là mẹ thành công” v.v. là gì?
Giá Trị của Đau Khổ: Tác Dụng Nhân Bản
Vấn đề thứ hai được đặt ra ở đây là, nếu đau khổ có một giá trị nhân bản hóa con người như thế, ở chỗ nó có thể giúp cho con người đốt giai đoạn một cách short cut, để chẳng những thành nhân, như trường hợp những đứa con mồ côi bao giờ cũng khôn lanh hơn những đứa con có cha có mẹ, mà còn thành “thánh nhân dị chúng nhân” như thế, thì tại sao, thực tế cho thấy, con người lại sợ hãi đau khổ, lại hết sức tìm cách thoát khổ, trái lại, tại sao con người không hiên ngang và hăng hái đi tìm đau khổ như đi tìm một kho tàng quí nhất trên đời?
Thực ra, về phương diện thể xác cũng như tâm linh, con người đã từng tìm kiếm đau khổ, thậm chí họ không có đau khổ không được, đến nỗi có người sống với đau khổ như người tình trăm năm của mình. Không phải hay sao, nếu đau khổ là tất cả những gì phản lại bản tính tự nhiên của con người, thì chua cay tự bản chất vốn là một những chất vị không hợp với khẩu vị và tâm lý tự nhiên thịnh ngọt của con người. Ấy thế mà nhiều người lại thích chua cay, nhất là phái nữ, thèm chanh nghiện ớt, đến nỗi, không có ớt bữa cơm mất ngon, tìm trái cây nào chua chua ăn mới thú vị. Về phương diện tâm linh cũng thế, nếu đau khổ là tất cả những gì làm cho con người tự nhiên cảm thấy khó chịu, thì tại sao có những con người đã tự động trở thành ẩn sĩ, tu sĩ, chẳng những sống đời ăn uống khem khổ, trái với bản năng thích ăn uống cao lương mỹ vị của mình, mà còn sống đời độc thân, trái với bản năng phái tính vốn bị chi phối mãnh liệt bởi nhu cầu sinh lý dục tình của mình. Điển hình nhất là Đức Thích Ca Mâu Ni, vị đã từ bỏ mọi sướng vui trên đời, giầu sang phú quí và vợ con, đang được hưởng bấy giờ để sống đời khổ hạnh. Đấy là chưa kể đến thành phần tử tự, đã tìm kiếm cái chết là đệ nhất đau khổ làm cứu cánh của mình, là cứu tinh của mình.
Thật ra, các nhà tu hành và thành phần tự tử không lấy đau khổ làm cùng đích mà chỉ là phương tiện để đạt đích của họ mà thôi. Tại sao? Điển hình nhất là trường hợp của con người tự tử, thành phần chỉ muốn lạm dụng cái chết để thoát khổ. Đó là lý do, nếu họ không đi đến chỗ cùng cực hay ở trong tình trạng cùng khổ, chẳng những họ, mà tất cả mọi con người hạnh phúc trên đời khác sẽ không một ai muốn chết, trừ khi chết vì chính nghĩa, vì lý tưởng. Còn các vị tu hành, sở dĩ họ cương quyết dấn thân vào cuộc đời khổ hạnh là vì họ muốn sử dụng chiêu “gậy lưng đập lưng ông”, hay lợi dụng phép “của độc giải độc”. Nghĩa là họ muốn dùng khổ hạnh để họ có thể thoát khỏi tình trạng chết chóc nội tâm, tình trạng tách lìa phần thượng với phần hạ nơi họ, một tình trạng báo trước biến cố hồn thiêng thuộc phần thượng lìa biệt xác chất thuộc phần hạ trong giờ lâm tử của họ, một tình trạng cho thấy phần hạ luôn lấn át và làm chủ phần thượng của con người, một tình trạng con người cần phải hạ thấp mới có thể bay cao, mới có thể làm chủ con người mình, nhờ đó họ chẳng những có thể sống đúng với thiên chức siêu việt và phẩm giá cao quí làm người của họ, mà còn có thể cứu nhân độ thế nữa.
Phật Giáo Với Đau Khổ: Diệt Dục Vô Ngã
Các đạo giáo, mỗi đạo đều có một chủ trương chuyên nhất khác nhau, một chủ trương làm nên căn tính của đạo mình. Nếu Khổng Giáo thiên về hay nổi bật về vấn đề giáo dục con người và xây dựng xã hội, như đã mới được đề cập đến trong bài về Con Người Thành Nhân và Con Người Vào Đời, thì Phật Giáo thiên về hay nổi bật về vấn đề Cứu Độ, tức cứu nhân độ thế, một vấn đề liên quan đến bài này và một bài nữa về đề tài Cứu Độ.
Thật vậy, có thể nói, Phật Giáo được bắt nguồn từ cảm nghiệm nhân sinh hết sức thực tế “đời là bể khổ”, một thực tại đồng thời cũng là một chân lý không ai có thể chỗi cãi. Đó là lý do thực tại “đời là bể khổ” chính là chân lý thứ nhất trong giáo thuyết Tứ Diệu Đế của Phật Giáo, tức giáo thuyết về bốn chân lý huyền diệu, đó là Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế. Vấn đề Cứu Độ theo Phật Giáo là con đường con người đi từ Khổ Đế, thực tại liên quan tới sinh-bệnh-lão-tử, đi vào Tập Đế, chân lý liên quan tới căn nguyên của đau khổ là Lục Côn, Lục Trần và Lục Đạo, qua Diệt Đế, chân lý liên quan tới Ngũ Giới và Bát Chính Đạo, sau cùng đến Đạo Đế là chân lý liên quan tới Luân Hồi và Niết Bàn.
Khổ Đế hay hiện tượng đau khổ, theo Phật Giáo, trước hết do sáu gốc được gọi là Lục Côn, đó là thị, thính, khứu, vị, xúc và tri, hay mắt, tai, mũi, lưỡi, da thịt và tri thức, một bộ Lục Côn hoàn toàn bị chi phối bởi ngoại cảnh, bởi Lục Trần là sắc, thanh, hương, vị, cảm, pháp, hay nhan sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, cảm xúc và tưởng tượng, những gì làm cho con người bị tục lụy nên phải luân hồi trong Lục Đạo là thiên đạo, nhân đạo, qủy đạo, A-Tu-La đạo, súc sinh đạo và địa ngục đạo. Nhưng sở dĩ Lục Côn của con người còn bị Lục Trần chi phối là vì con người còn sống trong tục lụy vô minh. Thật vậy, Thuyết Thập Nhị Nhân Duyên của Phật Giáo bao gồm 12 nhân quả đó là Lão-Tử, Sinh, Thủ, Hữu, Ái, Thụ, Xúc, Lục Nhập, Danh Sắc, Thức, Hành và Vô Minh.
Theo thuyết Thập Nhị Nhân Duyên này: 1) cái nguyên Nhân của Lão-Tử là biểu hiệu và cũng chính là thực tại của đau khổ - Duyên do là bởi Sinh, tức nếu không sinh ra sẽ không bị khổ; 2) cái nguyên Nhân của Sinh - Duyên do là bởi Hữu, tức bởi con người muốn thành một cái gì đó; 3) cái nguyên Nhân của Hữu - Duyên do là bởi Thủ, tức bởi con người muốn nắm giữ trần gian; 4) cái nguyên Nhân của Thủ - Duyên do là bởi Ái, tức bởi con người ham hố hưởng thụ; 5) cái nguyên Nhân của Ái - Duyên do là bởi Thụ, tức bởi việc con người tiếp nhận cảm giác khoái lạc của ngũ quan; 6) cái nguyên Nhân của Thụ - Duyên do là bởi Xúc, tức bởi việc con người tiếp xúc với sự vật ngoại tại; 7) cái nguyên Nhân của Xúc - Duyên do là bởi Lục Nhập hay Lục Côn nơi con người mà có; 8) cái nguyên Nhân của Lục Nhập – Duyên do là bởi Danh Sắc, tức bởi Lục Trần bên ngoài chi phối con người; 9) cái nguyên Nhân của Danh Sắc – Duyên do là bởi Thức, tức bởi ý thức, tâm thức của con người tỏ ra muốn tiếp thụ ngoại vật; 10) cái nguyên Nhân của Thức – Duyên do là bởi Hành, tức bởi tất cả Nghiệp Báo của quá khứ thúc đẩy con người hành động; 11) cái nguyên Nhân của Hành – Duyên do là bởi Vô Minh, tức bởi con người hành động một cách mù quáng theo bản năng và xu hướng tự nhiên; 12) chính vì Vô Minh là Duyên do của khổ lụy, của Lão, Tử nên con người cần phải tiến đến chỗ Giác Ngộ.
Đó là lý do, một khi con người đã được Giác Ngộ, được ở vào tình trạng giống như Phật Tổ sau thời gian tọa thiền dưới gốc cây Bồ Đề, con người, về tiêu cực sẽ giữ đủ Ngũ Giới, và về tích cực hoàn toàn sống theo Bát Chính Đạo, một đời sống khiến họ, trước mắt chúng sinh, trở thành những bậc thánh nhân hay Bồ Tát, thành Phật sống, chẳng những bản thân họ được siêu độ, được thoát tục, được vào cõi Niết Bàn hiện sinh, mà còn có thể cứu nhân độ thế như Phật Tổ nữa, như Phật Tổ sau khi Giác Ngộ vậy. Ngũ Giới của Phật Giáo là không sát sinh, không trộm cắp, không gian dâm, không nói bậy và không rượu thịt. Bát Chính Đạo của Phật Giáo là chính kiến, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính định, chính niệm, chính tư duy và chính tinh tấn. Tóm lại, theo Phật Giáo, nếu căn nguyên khiến con người đau khổ là tham, sân, si, tức tham vọng, giận dữ và ngu muội, những gì khiến con người bị đầu thai luân hồi thì con người chỉ hoàn toàn thoát khổ và được cứu độ khi con người không còn luân hồi nữa, không còn bị Nghiệp Báo nữa, tức không còn Chấp Ngã trong cõi nhân gian Thường Trụ, song trở thành Vô Ngã trong cõi Vô Thường.
Kitô Giáo Với Đau Khổ: Thập Giá Cứu Độ
Theo Thánh Kinh Do Thái Giáo và giáo lý Kitô Giáo, con người được Tạo Hóa dựng nên ngay từ ban đầu là để hưởng phước, được tự do thoải mái, chứ không phải để bị đọa đầy, trừng phạt, khổ đau. Đó là lý do, Sách Sáng Thế Ký, cuốn sách đầu tiên trong bộ Thánh Kinh Do Thái Giáo đã cho thấy, Thiên Chúa Hóa Công sau khi dựng nên con người đã chẳng những đặt họ làm chủ tất cả những gì Ngài dựng nên trên thế gian, mà còn mang họ vào vườn địa đường để họ được sống một cuộc đời tự do thoải mái trong phạm vi tạo vật của họ nữa (xem 1:28; 2:15-17). Thế nhưng, như Cuốn Sách Thánh Kinh đầu tiên này cho biết, con người đã vượt biên, đã tự động ra khỏi phạm vi tạo vật của mình, tức đã lạm dụng quyền tự do của mình để làm trái ý muốn tối cao của Đấng đã tạo dựng nên mình.
Do đó, họ đã làm đảo lộn trật tự bẩm sinh nơi bản thân họ, ở chỗ họ muốn lên bằng Thiên Chúa, muốn tự mình toàn quyền quyết định như Thiên Chúa, một hiện tượng hằng diễn tiến trong suốt giòng lịch sử của con người, nhất là trong thời đại văn minh vật chất và nhân bản của họ hiện nay. Để rồi, với vai trò làm chủ trái đất của mình, tác động phản loạn của họ đối với chủ tể của họ cũng làm đảo lộn cả trật tự giữa họ và thiên nhiên tạo vật nữa, tức họ cho mình là chủ tể tối cao của những gì đã được trao cho họ, chứ không phải là quản lý của Đấng đã trao cho họ những gì Ngài dựng nên vì họ và cho họ. Hậu quả của hành động được Kitô Giáo gọi là nguyên tội này là ở chỗ, con người phải chịu đau khổ ở đời này, nam thì vất vả làm ăn sinh sống, nữ thì phải phục tùng chồng và mang nặng đẻ đau, để rồi cuối cùng sẽ phải chết, phải trở về với bụi đất (xem cùng nguồn 3:16,18-19).
Theo Kitô Giáo, tự bản chất, đau khổ là sự dữ do tội lỗi của con người mà có, nhưng nó đã được biến thành sự thiện nhờ Vị Thiên Chúa Làm Người là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tự nguyện chấp nhận vác Thập Giá và chết trên Thập Giá, tiêu biểu cho tội lỗi và sự chết, để cứu chuộc con người khỏi tội lỗi và sự chết, tức để nhân tính đã bị hư đi theo nguyên tội của con người, nhưng lại là một nhân tính đã được Ngài mặc lấy khi làm người, chẳng những được tái sinh, được trở về với tình trạng công chính tốt lành nguyên thủy, mà còn được sống một sự sống thần linh dồi dào hơn, nhờ đó họ cũng có thể như Ngài chiến thắng sự dữ bằng sự lành.
Đó là lý do Thập Giá chính là biểu hiệu cho Kitô Giáo, và những ai muốn theo Ngài mà không chịu vác thập giá không đáng làm môn đệ của Ngài. Đó cũng là lý do như lịch sử cho thấy trên khắp thế giới, thân phận của những ai theo Vị Sáng Lập Kitô Giáo này, ở nhiều nơi và nhiều thời điểm, thậm chí giữa thế giới văn minh nhân bản ngày nay, nhất là nơi thế giới Hồi Giáo và Ấn Giáo, đã và đang bị bách hại và tử đạo. Thực tế cho thấy, trong tất cả các đạo, chỉ có Kitô Giáo là bị bách hại và sát hại nhất, thế nhưng, càng bị khổ đau bởi bách hại và tử đạo khắp nơi trong suốt giòng lịch sử của mình, Kitô Giáo chẳng những không bị tiêu diệt, trái lại, còn lan tràn khắp thế giới, một thế giới Kitô Giáo coi như môi trường tông đồ truyền giáo của mình với vai trò làm men trong bột, được thể hiện sống động nhất qua đời sống tu trì dấn thân phục vụ tha nhân, thăng tiến xã hội, bằng các việc từ thiện bác ái, cứu nhân độ thế, như các dân nước đều tận mắt chứng kiến thấy.
Nếu Thập Giá thời đế quốc Rôma là biệu hiệu cho tội lỗi và sự chết, mà Thiên Chúa Làm Người đã giang tay chịu chết trên Thập Giá, thì Vị Thiên Chúa Vô Cùng Toàn Hảo này đã xuống tận cùng vực thẳm khốn nạn của loài người để tìm kiếm và cứu độ họ, và bởi thế, nhân loại cũng sẽ không thể nào có thể chắc chắn tìm thấy và hiệp thông với Vị Thần Linh Vô Cùng Siêu Việt này ngoài Thập Giá. Đó là lý do không một vị thánh Kitô Giáo nào không bị khổ, và càng được đau khổ thanh luyện càng trở nên đại thánh. Đó còn là lý do Thập Giá đối với Kitô Giáo là biểu hiệu cho ân phúc và sự sống. Tóm lại, nếu Thiên Chúa đã dùng Thập Giá để cứu nhân độ thế thì con người sa đọa và đã được cứu chuộc bởi Thập Giá của Đức Giêsu Kitô cũng chỉ tìm thấy hạnh phúc hiện sinh và đạt được vinh phúc ngàn thu qua đau khổ và nhờ đau khổ mà thôi. Linh đạo của Kitô Giáo chính là ở chỗ vượt qua sự chết mà vào sự sống vậy
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
||
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |