CHÚA NHẬT 23/3/2008
ĐTC Biển Đức XVI “‘Lạy Chúa tôi và lạy Thiên Chúa của tôi!’" Sứ Điệp Chúa Nhật Phục Sinh 8/4/2007 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức Loạt Bài về Thời Điểm Maria Lòng Thương Xót Chúa Tuần Chín dọn mừng Lễ Kính Chúa Tình Thương Chúa Nhật II Phục Sinh: Ngày 3 Nhật Ký của Chị Thánh Faustina Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL Cứu Độ Ơn Gọi Làm Người
ĐTC Biển Đức XVI
“‘Lạy Chúa tôi và lạy Thiên Chúa của tôi!’"
Sứ Điệp Chúa Nhật Phục Sinh 8/4/2007
Anh Chị Em thân mến trên khắp thế giới, Những con người nam nữ thiện tâm!
Chúa Kitô đã sống lại! Bình an cho anh chị em! Hôm nay chúng ta cử hành một mầu nhiệm cao cả, nền tảng của đức tin và niềm hy vọng Kitô Giáo, đó là Đức Giêsu Thành Nazarét, Đấng Tử Giá, đã sống lại từ trong kẻ chết vào ngày thứ ba theo lời Thánh Kinh. Hôm nay chúng ta cảm thấy lại xúc động lắng nghe lời loan báo của các vị thiên thần vào rạng đông của ngày thứ nhất sau Ngày Hưu Lễ với Maria Maiđệliên cũng như với những phụ nữ tại ngôi mộ rằng: ‘Tại sao các bà lại tìm kiếm nơi kẻ chết người còn sống chứ? Người không còn đây, Người đã sống lại rồi!’ (Lk 24:5-6).
Không khó khăn cho lắm khi mường tượng ra những cảm giác của những người phụ nữ này vào lúc ấy: những cảm giác buồn thảm trước cái chết của Chúa, những cảm giác không thể nào tin nổi và bàng hoàng trước một sự kiện có thật cũng đầy kinh hồn nữa. Thế nhưng ngôi mộ đã mở toang và trống không: thân thể không còn ở đó nữa. Phêrô và Gioan, được những người đàn bà này báo tin, đã chạy ra mộ và thấy các bà nói đúng. Đức tin của các vị Tông Đồ nơi Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai được trông chờ, đã phải trải qua một cuộc thử thách trầm trọng trước cái ô nhục của thập giá. Các vị đã tản mát khi Người bị bắt giam, bị kết án và tử nạn. Giờ đây các vị qui tụ lại một lần nữa, hoang mang bối rối. Thế nhưng, chính Đấng Phục Sinh xuất hiện để đáp lại nỗi khát khao cho một niềm tin mạnh mẽ hơn. Cuộc gặp gỡ ấy không phải là một giấc mơ hay một ảo tưởng hoặt một thứ tưởng tượng chủ quan; nó là một cảm nghiệm thực sự, cho dù là không ngờ, mà càng thế lại càng đặc biệt. ‘Chúa Giêsu đã đến đứng giữa các ông mà nói cùng các ông rằng: bình an cho các con!’ (Jn 20:19).
Trước những lời ấy, đức tin của họ, một đức tin hầu như mất tiêu nơi họ, lại được bừng lên. Các vị Tông Đồ bảo Tôma là người đã vắng mặt vào lần gặp gỡ đầu tiên ấy rằng: Đúng thế, Chúa đã làm trọn tất cả những gì Người đã nói trước; Người thực sự đã sống lại và chúng tôi đã thấy và chạm đến Người! Tuy nhiên, Tôma vẫn nghi ngờ và cảm thấy hoang mang. Khi Chúa Giêsu hiện đến lần thứ hai, 8 ngày sau ở Căn Thượng Lầu, Người đã nói cùng ông rằng: ‘Hãy xỏ ngón tay con vào tay của Thày, và hãy thọc bàn tay vào cạnh sườn Thày, đừng cứng lòng, nhưng hãy tin!’ Lời đáp ứng của vị tông đồ này là một lời tuyên xưng đức tin đầy cảm kích: ‘Lạy Chúa tôi và lạy Thiên Chúa của tôi!’ (Jn 20:27-28).
‘Lạy Chúa tôi và lạy Thiên Chúa của tôi!’ Cả chúng ta nữa cũng lập lại lời tuyên xưng đức tin này của tông đồ Tôma. Tôi đã chọn những lời này cho lời chào mừng Phục Sinh của tôi năm nay, vì ngày nay nhân loại trông đợi nơi Kitô hữu một chứng từ mới mẻ về cuộc phục sinh của Chúa Kitô; cần phải gặp gỡ Người và nhận biết Người là Thiên Chúa thật và là người thật. Nếu chúng ta có thể nhận thấy nơi vị Tông Đồ này những mối ngờ vực và bất định của rất nhiều Kitô hữu ngày nay, những nỗi sợ hãi và những niềm thất vọng nơi những người đương thời của chúng ta, thì với ngài chúng ta cũng có thể tái khám phá niềm tin tưởng vào Chúa Kitô tử nạn và phục sinh, bằng một niềm xác tín mới. Đức tin này, được truyền lại qua các thế kỷ bởi các vị thừa kế các Tông Đồ, tiếp tục thể hiện vì Chúa Kitô không còn chết nữa. Người đang sống trong Giáo Hội và mạnh mẽ hướng dẫn Giáo Hội hướng tới tầm vóc viên trọn của dự án cứu độ muôn đời.
Tất cả chúng ta đều bị thử thách bởi niềm bất tín như tông đồ Tôma. Đau khổ, sự dữ, bất công, sự chết, nhất là khi xẩy ra cho thành phần vô tội, như trẻ em nạn nhân của chiến tranh và khủng bố, của bệnh tật và đói khổ, chẳng phải là tất cả những gì thử thách đức tin của chúng ta hay sao? Ngược đời thay, niềm bất tín của tông đồ Tôma lại là những gì đáng giá nhất cho chúng ta trong những trường hợp ấy, vì nó giúp thanh tẩy tất cả những quan niệm sai lầm về Thiên Chúa và dẫn chúng ta tới chỗ khám phá ra chân dung của Ngài: chân dung của một Vị Thiên Chúa, Đấng, trong Đức Kitô, đã mang trên mình các thương tích của nhân loại bị thương. Tông đồ Tôma đã lãnh nhận từ Chúa, và chính ngài đã truyền đạt cho Giáo Hội, tặng ân của một đức tin bị thử thách bởi cuộc khổ nạn và tử nạn của Chúa Giêsu, và được củng cố bởi cuộc hội ngộ với Người. Đức tin của ngài hầu như đã chết song đã tái sinh nhờ việc ngài chạm tới các vết tích của Chúa Kitô, những vết thương mà Đấng Phục Sinh không giấu diếm song tỏ ra, và tiếp tục tỏ ra cho chúng ta trong các cơn gian nan thử thách và khổ đau của hết mọi người.
‘Nhờ thương tích của Người mà anh em được chữa lành’ (1Pt 2:24). Đó là sứ điệp được Thánh Phêrô ngỏ cùng thành phần tân tòng ban đầu. Những thương tích ấy, những thương tích ban đầu đã là chứơng ngại vật cho niềm tin của tông đồ Tôma, là dấu hiệu hiển nhiên thua bại của Chúa Giêsu, thì cũng những thương tích này đã trở thành những dấu hiệu của một tình yêu vinh thắng nơi cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh. Những thương tích Chúa Kitô đã chịu vì yêu thương chúng ta giúp chúng ta hiểu được Thiên Chúa là ai và lập lại rằng: ‘Lạy Chúa tôi và lạy Thiên Chúa của tôi!’ Chỉ có duy một mình Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta đến nỗi hứng chịu các thương tích và đớn đau của chúng ta, nhất là khổ đau vô tội, mới đáng chúng ta tin tưởng mà thôi.
Biết bao nhiêu là thương tích, bao nhiêu là khổ đau đang xẩy ra trên thế giới này! Không thiếu những tai ương thiên nhiên và những thảm cảnh nhân loại gây ra cho vô số nạn nhân và hủy hoại vật chất vô vàn. Tôi đang nghĩ đến các biến cố mới đây tại Madagascar, thuộc Hải Đảo Solomon, ở Mỹ Châu Latinh, cũng như ở các miền khác trên thế giới. Tôi đang nghĩ đến nạn đói khát, các thứ bệnh tật bất trị, đến nạn khủng bố và bắt cóc con người, đến hằng ngàn hình thức bạo động được một số người cố gắng biện minh nhân danh tôn giáo, về việc khinh khi sự sống, về việc vi phạm đến nhân quyền và về việc khai thác con người ta. Tôi e ngại nghĩ đến các điều kiện đang chi phối ở một số miền Phi Châu. Ở Darfur cũng như ở các xứ sở lân bang đang xẩy ra một tình trạng nhân đạo thảm khốc nếu không muốn nói là coi thường. Ở Kinshasa t huộc Cộng Hòa Dân Chủ Congo, vấn đề bạo động và hôi của trong những tuần qua gây ra âu lo cho tương lai của tiến trình dân chủ hóa người Congo và tái thiết xứ sở này. Ở Somalia, cuộc chiến tái diễn hủy hoại viễn tượng hòa bình và làm tồi tệ hơn cuộc khủng hoảng trong vùng, nhất là về việc phân tán dân chúng và việc buôn bán các thứ vũ khí. Zimbabwe đang bị khốn đốn với một cuộc khủng hoảng trầm kha nên các vị giám mục của xứ sở này, trong một văn kiện mới đây, đã xin cầu nguyện và cùng dấn thân cho công ích như là đường lối duy nhất để tiến lên.
Cũng thế, nhân dân ở Đông Timor cần hòa giải và an bình khi nước này sửa soạn thực hiện các cuộc tuyển cử. Cả các nơi khác nữa, hòa bình hết sức cần thiết như ở Sri Lanka thì chỉ cần giải quyết thương thảo là có thể chấm dứt cuộc xung khắc đã gây ra đổ máu rất nhiều; A Phú Hãn được đánh dấu bẳng tình trạng gia tăng hỗn độn và bất ổn; ở Trung Đông, ngoài một số dấu hiệu hy vọng trong cuộc đối thoại giữa Do Thái và thẩm quyền Palestine, không có gì là tích cực ở Iraq cả, một quốc gia bị tan nát bởi cuộc tàn sát liên tục trong lúc thành phần dân sự tháo chạy. Ở Libăng, tình trạng tê liệt của các cơ cấu chính trị nơi quốc gia này đang đe dọa tới vai trò mà quốc gia ấy được kêu gọi để đóng tại Trung Đông và đưa tương lai của nó đến một nguy cơ trầm trọng. Sau hết, tôi không thể quên được những khốn khó hằng ngày gây ra cho các cộng đồng Kitô hữu và cuộc xuất hành của các Kitô hữu khỏi Mảnh Đất phúc lành là cái nôi đức tin của chúng ta. Tôi thiết tha lập lại với những thành phần dân chúng này niềm bày tỏ gắn bó thiêng liêng của tôi.
Anh Chị Em thân mến, qua các vết thương của Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta có thể thấy các thứ sự dữ đang hành hạ nhân loại bằng con mắt hy vọng. Thật vậy, bằng việc phục sinh của mình, Chúa Kitô đã không cất đi khổ đau và sự dữ khỏi thế giới này, mà là khống chế chúng tận gốc của chúng với dồi dào ân sủng của Người. Người đã đương đầu với cái ngạo mạn của sự dữ bằng uy quyền của tình Người yêu thương. Người đã để lại cho chúng ta một tình yêu không sợ tử thần, như đường lối dẫn đến hòa bình và niềm vui. ‘Như Thày đã yêu thương các con thế nào – Người đã nói với các môn đệ của mình trước khi chết – thì các con cũng hãy yêu thương nhau như thế’ (x Jn 13:34).
Những anh chị em trong niềm tin, những người đang nghe tôi ở khắp nơi trên thế giới! Chúa Kitô đã sống lại và Người đang sống giữa chúng ta. Người chính là niềm hy vọng cho một tương lai tốt đẹp hơn. Với tông đồ Tôma chúng ta hãy thưa rằng: ‘Lạy Chúa tôi, lạy Chúa Trời tôi, chớ gì chúng ta nghe nó một lần nữa trong tâm can của chúng ta những lời tuyệt vời song đòi hỏi của Chúa là: ‘Nếu ai phụng sự Tôi thì hãy theo Tôi; Tôi ở đâu thì tôi tớ Tôi cũng ở đó; ai phụng sự Tôi thì Cha sẽ tôn vinh họ’ (Jn 12:26). Hiệp nhất với Người và sẵn sàng hiến đời mình cho anh chị em của chúng ta (x 1Jn 3:16), chúng ta hãy trở nên những tông đồ của hòa bình, những sứ giả của một niềm vui không sở đớn đau – niềm vui của Phục Sinh. Chớ gì Mẹ Maria, Mẹ của Chúa Kitô Phục Sinh, xin cho chúng ta được tặng ân Phục Sinh này. Chúc mừng Phục Sinh cho tất cả mọi anh chị em.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/messages/urbi/documents/hf_ben-xvi_mes_20070408_urbi-easter_en.html
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức Loạt Bài về Thời Điểm Maria Cuộc Mẹ Maria hiện ra ở Lourdes miền tây nam Nước Pháp, vào năm 1858, với một em gái 14 tuổi, Bernadette Soubirous (được Đức Piô XI phong hiển thánh năm 1933, lễ kính ngày 16/4) 18 lần, thứ tự vào những ngày như sau: 11/2, 14/2, 18-19/2, 20-28/2, 1-2/3, 4-3, 25-3, 7-4, và 16-7, Lễ Đức Mẹ Xuống Tuyết hay Lễ Đức Mẹ Carmêlô. Trong 18 lần hiện ra, Mẹ chỉ nói rất ít và rất ngắn, không như ở năm 1830, 1846 hay 1917. Sứ Điệp được Mẹ ban bố ở Lộ Đức được ghi lại thứ tự như sau: Lần nhất (11/2), Mẹ làm hiệu cho Bernadette đến lần hạt với Mẹ, nhưng Mẹ chỉ đọc chung kinh sáng danh thôi; Lần ba (18/2), Mẹ báo cho Bernadette biết: “Mẹ không hứa làm cho con hạnh phúc ở đời này mà là ở đời sau”; Lần sáu (21/2), Mẹ xin Bernadette “hãy cầu nguyện cho các tội nhân”; Lần tám (24/2), dân chúng thấy Bernadette quì lê gối đến bụi hồng, chỗ Mẹ đứng, mỗi bước mỗi sấp mình xuống đất và quay lại phía họ mà kêu lên “Hãy thống hối! Hãy thống hối!”; Lần chín (25/2), Mẹ chỉ cho Bernadette suối nước và khuyên: “Hãy uống và tắm nước suối này”; Lần mười (26/2), Mẹ xin Bernadette “Hãy hôn đất thay cho các tội nhân”; Lần mười bốn (2/3), Mẹ yêu cầu xây lên một nguyện đường ở ngay nơi Mẹ hiện ra; Lần mười sáu (25/3), theo Bernadette cho biết, “Đức Mẹ đứng trên bụi hồng theo cách thế rất giống như trong Mẫu Ảnh Làm Phép Lạ” (như Mẹ đã xin chị Catherine Laboure làm năm 1830), và để đáp lại câu hỏi của Bernadette trong ba lần hiện ra trước đó về tên của Mẹ, lần này Mẹ đã trả lời cho Bernadette biết rằng: “Mẹ là Đấng đầu thai vô nhiễm nguyên tội”. Trong cuốn St. Marie Bernadette Soubirous, Ep. Ad P. Gondrand, a 1861: cf. A. Ravier, Les Eùcrits de Sainte Bernadette, Paris 1961, trang 53-59, chúng ta đọc thấy những gì được chính Chị Thánh Bernadette thuật lại về Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức nguyên văn như sau: “Ngày kia tôi cùng với hai đứa con gái khác đi xuống bờ sông Gave, thì thình lình tôi nghe thấy một cái gì đó như tiếng gió vi vu. Tôi ngoảnh đầu lại hướng về phía đồng cỏ gần bờ sông, song cây cối vẫn lặng lẽ, rõ ràng là tiếng động không xuất phát từ chúng. Đoạn tôi nhìn lên và thấy ngay trong động đá một vị nữ lưu mặc chiếc áo trắng dễ thương với chiếc giây thắt óng ánh. Trên chân của bà mỗi bên đều có một bông hồng mầu vàng nhạt, cùng mầu với những hột ở tràng chuỗi mân côi của bà. “Thấy thế tôi giụi hai mắt, nghĩ rằng tôi đang thấy một cái gì đó, và tôi xỏ tay vào viền quần đựng cỗ tràng hạt. Tôi muốn làm dấu thánh giá, nhưng tôi không thể làm được, và tay tôi trở nên rụng rời. Bấy giờ vị nữ lưu này làm dấu thánh giá và tôi cố làm dấu như bà, mặc dù tay tôi run lẩy bẩy. Thế là tôi bắt đầu lần hạt mân côi, trong khi đó vị nữ lưu này lấy ngón tay đưa hạt chuỗi mà không nhép miệng gì cả. Khi tôi hết đọc Kinh Kính Mừng thì bà liền biến đi. “Tôi hỏi hai cô bạn của mình xem họ có thấy được điều gì chăng, họ nói không. Dĩ nhiên họ muốn biết tôi đã làm gì, và tôi cho họ biết rằng tôi đã thấy một vị nữ lưu mặc bộ áo trắng đẹp, mặc dù tôi không biết bà ấy là ai. Tôi dặn họ đừng nói điều gì về câu chuyện này, và họ cho tôi rằng tôi ngớ ngẫn với những thứ ấy. Tôi nói là họ sai rồi, và tôi đã cảm thấy bị thúc đẩy trở lại nơi này vào hôm Chúa Nhật sau đó… “Lần thứ ba tôi đến đó thì vị nữ lưu này đã mở miệng nói với tôi và xin tôi hãy trở lại hằng ngày trong vòng 15 ngày. Tôi nói tôi sẽ làm như thế, đoạn bà bảo tôi rằng bà muốn tôi nói với các vị linh mục hãy xây cất lên một nguyện đường ở đó. Bà cũng bảo tôi hãy uống nước ở rạch nước. Tôi đã đến con sông Gave là giòng nước duy nhất tôi thấy. Thế rồi bà làm tôi nhận ra rằng bà không nói về con sông Gave, mà là một tia nước nhỏ gần chỗ tôi đứng. Tới nơi, tôi chỉ thấy có một vài giọt nước, còn toàn là bùn. Tôi chụm tay lại để hớt lấy một chút nhưng không được, tôi liền cào đất lên. Tôi cố tìm lấy một ít giọt nước, nhưng mãi vào lần thứ bốn tôi mới có đủ lượng nước để uống. Đoạn người nữ biến đi và tôi trở về nhà. “Tôi đã trở lại đấy 15 ngày, trừ một ngày Thứ Hai và một ngày Thứ Sáu, và lần nào bà cũng hiện ra và bảo tôi tìm một rạch nước mà tắm cũng như để xem chuyện các vị linh mục xây nguyện đường ở đó thế nào. Bà nói tôi cũng phải cầu nguyện nữa để cầu cho tội nhân ăn năn cải thiện đời sống. Tôi đã hỏi bà nhiều lần về ý định của bà, song bà chỉ mỉm cười. Sau cùng, với cánh tay giang ra và đôi mắt ngước lên trời, bà bảo tôi rằng bà là Đấng Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội. “Trong 15 ngày đó, bà đã nói với tôi ba điều bí mật, nhưng tôi không được phép nói với ai cả, và tôi vẫn giữ cho tới nay”. Trong chuyến Tông Du cuối cùng của mình, chuyến 104, chuyến tông du đến Lộ Đức 15/8/2004 để mừng 150 năm Tín Điều Vô Nhiễm, ĐTCGPII đã ban Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật ở Prairie de la Ribère như sau: “Từ tảng đá ở động Massabielle, Vị Trinh Nữ này đã hiện ra với Bernadette. Tỏ mình ra như Đấng đầy ơn phúc của Thiên Chúa, Mẹ đã kêu gọi thống hối và nguyện cầu. Mẹ đã chỉ cho Bernadette một mạch nước, và xin em uống mạch nước này. Mạch nước mới mẻ ấy đã trở thành một trong những biểu hiệu của Lộ Đức: một biểu hiệu của sự sống mới được Chúa Kitô ban cho tất cả những ai hướng về Người. Kitô Giáo thực sự là một suối nước sự sống, và Mẹ Maria là bảo quản viên đầu tiên của suối nước này. Mẹ chỉ nó cho tất cả mọi người thấy, bằng cách kêu mời họ từ bỏ cái kiêu hãnh của mình mà học sống khiêm hạ, nhờ đó họ mới có thể kín múc được tình thương của Con Mẹ và từ đó mới cùng nhau hoạt động cho bừng lên một nền văn minh yêu thương”.
Tuần Chín dọn mừng Lễ Kính Chúa Tình Thương Chúa Nhật II Phục Sinh
Nhật Ký của Chị Thánh Fuastina Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh chuyển dịch
Chúa Giêsu chỉ cho con viết xuống và thực hiện trước Lễ Kính Tình Thương tuần chính ngày này. Nó bắt đầu vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Cha mong ước là trong chín ngày này, con đem các linh hồn đến mạch nguồn của tình thương Cha, để họ có thể kín múc từ đó sức mạnh mà hồi sinh, cùng với những ơn cần thiết cho họ trước những khó khăn của cuộc đời, nhất là trong giờ lâm tử.
Mỗi ngày con mang về cho Trái Tim Cha một nhóm các linh hồn khác nhau, rồi con hãy dìm họ vào trong đại dương này của tình thương Cha, phần Cha sẽ đưa tất cả những linh hồn này về nhà Cha Cha. Con sẽ làm như thế ở cả đời này lẫn đời sau. Cha sẽ không từ chối một sự gì cho linh hồn mà con mang về mạch nguồn của tình thương Cha. Mỗi ngày, con hãy van xin Cha Cha các ơn lành cho những linh hồn này, dựa vào công lực của cuộc Khổ Nạn đắng cay của Cha.
Con đã đáp lại: "Chúa Giêsu ơi, con đâu có biết làm tuần chín ngày này, hay phải mang những linh hồn nào trước vào Trái Tim Rất Xót Thương của Chúa đây". Chúa Giêsu trả lời là Người sẽ nói cho con biết những linh hồn nào mỗi ngày cần phải mang vào trong Trái Tim Người.
Ngày 3
Hôm nay, con hãy mang về cho Cha tất cả những linh hồn sốt sắng và tín trung mà dìm họ vào trong biển cả của tình thương Cha. Những linh hồn này đã đem lại cho Cha niềm ủi an trên Con Đường Thánh Giá. Họ là giọt ủi an như thế giữa một đại dương cay đắng.
Lạy Chúa Giêsu Rất Xót Thương, từ kho tàng tình thương của Chúa, Chúa thông ban thật dồi dào các ơn của Chúa cho mỗi một linh hồn cũng như cho tất cả mọi linh hồn. Hãy đón nhận chúng con hết thẩy vào trong cung lòng của Trái Tim Rất Cảm Thương Chúa và đừng bao giờ để chúng con lọt khỏi Trái Tim Chúa. Chúng con van xin Chúa điều này, bằng tình yêu tuyệt vời nhất đã nóng nẩy thiêu đốt Trái Tim Chúa đối với Cha trên trời.
Những phép lạ của tình thương thì khôn thấu. Cả tội nhân lẫn chính nhân cũng không lường được. Khi ghé mắt xót thương đến chúng con, Chúa kéo chúng con tất cả lại gần tình yêu Chúa hơn.
Lạy Chúa Cha Hằng Sống, xin hãy ghé mắt xót thương của Cha trên các linh hồn trung tín, như trên gia nghiệp của Con Cha. Vì cuộc Khổ Nạn đau thương của Người, xin Cha ban cho họ phúc lành của Cha và luôn luôn chở che bao bọc họ. Nhờ đó, họ không bao giờ hết mến yêu hay làm mất đi kho tàng đức tin thánh hảo, trái lại, cùng với tất cả các triều Thần Thánh, họ có thể tôn vinh tình thương vô hạn Cha đến muôn đời. Amen.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Tuần Bát Nhật Phục Sinh
Cứu Độ
Ơn Gọi Làm Người
Vấn Đề Cứu Độ với Nhân Sinh Dù vô thần hay hữu thần, cứu độ là vấn đề then chốt nhất của cuộc sống con người. Đúng thế, không phải chủ trương vô thần mà có thể phủ nhận được tình trạng xung khắc nội tâm nơi mỗi một người. Không cần tìm hiểu lý do tại sao có cuộc xung khắc nội tâm nơi mỗi người này, chỉ cần đặt vấn đề tại sao con người phải đương đầu với cuộc chiến nội tâm ấy là đủ rõ. Thực tế cho thấy cuộc chiến nội tâm nơi mỗi người đều giống nhau ở chỗ họ phải chọn lành bỏ dữ, phải đối diện với sự thật làm người, một sự thật mà nếu họ không sống theo họ sẽ bị bất an và bất hạnh là những gì họ không bao giờ muốn và tìm hết cách tránh né nếu chưa xẩy ra và chữa trị nếu đang mắc phải. Thế nhưng, tội nghiệp thay, kinh nghiệm phũ phàng cho thấy, chính lúc con người đi tìm hạnh phúc theo lòng mong ước, họ lại chuốc lấy khổ đau vào mình. Điển hình nhất là việc một số người đi tìm hạnh phúc nơi nghiện hút, nhưng cuối cùng họ chỉ gặp được một bản thân bị quằn quại trong cảnh nô lệ ngục tù không thể vượt thoát. Chưa hết, hiện tượng ly dị ngày nay không cho thấy chính lúc con người được tự do luyến ái, chứ không bị ép buộc theo kiểu cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, song họ vẫn không tìm được hạnh phúc như họ tưởng và chọn hay sao?! Bởi đó mới có câu “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”, “tránh hùm phải hạm”, “cầu cho bạo Chúa sống lâu” v.v.
Như thế, theo chủ quan, sở dĩ con người cần phải đương đầu với cuộc chiến nội tâm là vì họ muốn sống hạnh phúc, cho đến khi họ thực sự được hoàn toàn thỏa nguyện. Tuy nhiên, theo khách quan, trong khi đi tìm hạnh phúc, con người phải trả bằng một giá rất đắt, thậm chí bằng cả mạng sống của mình, bằng trinh tiết của mình, như tình trạng vượt biên của dân Việt sau biến cố Tháng Tư Đen. Thậm chí trong cuộc tìm kiếm hạnh phúc hết sức khổ sở này, con người hầu như gặp nhiều đau khổ hơn là hạnh phúc như lòng mong ước, và dù có đạt được những gì ước mong, song lại rất mong manh và lắm khi cái hạnh phúc ấy lại trở thành đại họa cho họ nữa. Chẳng hạn như trường hợp thiên đường Mỹ Quốc, một thiên đường dân Việt đã phải trả bằng mọi giá để được hưởng, đã trở thành một địa ngục trần gian, đến nỗi đã tiêu diệt hạnh phúc nhiều gia đình và đã đẩy một số người về lại nơi họ đã bất chấp mọi sự bỏ đi, một thiên đường mà nhiều người tỏ ra hết sức căm hận Mỹ song cũng không thể cưỡng lại sức hấp dẫn của nó, đành vuốt mặt hoan hưởng trong day dứt v.v.
Đó là lý do cuộc sống của con người trên trần gian này thực sự là một cuộc vượt qua sự chết mà vào sự sống. Sự sống con người muốn chiếm hưởng đây không phải là sự sống thể lý cho bằng sự sống tinh thần, sự sống viên mãn. Bởi thế mới xẩy ra trường hợp liều chết vượt biên, biết hút thuốc hại sức khỏe mà vẫn không bỏ được, biết lái xe ẩu nguy hiểm đến tính mạng mà vẫn cứ lái v.v. Và sự chết con người muốn vượt qua đây là gì, nếu không phải là sự dữ họ gặp trên đời hay ở ngay chính bản thân họ, như bệnh hoạn tật nguyền, tính mê nết xấu, ngu đần dốt nát, nghèo nàn túng thiếu, vụng về kém cỏi, xấu xí khó coi, xung khắc đụng chạm v.v. Như thế, con người vượt qua sự chết mà vào sự sống đây, một cuộc vượt qua mà họ phải đương đầu với một cuộc chiến nội tâm trường kỳ, tức là con người thực sự muốn được sống và sống viên mãn hơn, một sự sống trọn hảo không còn khổ đau, không còn sự dữ, tức một sự sống trường sinh bất tử, trường sinh vinh phúc. Thế nhưng, tự mình, vốn bất toàn và bất lực, con người không thể nào chiếm được sự sống toàn hảo và viên mãn này. Cứu độ chính là ở chỗ đó.
Nói đến cứu độ là nói đến tôn giáo, nói đến đạo. Vì, đối với con người nói chung, nhất là con người thiện tâm, con người hữu thần, đạo chính là đường lối giải thoát cho con người. Tuy nhiên, ý niệm và ý nghĩa cứu độ lại được các tôn giáo hiểu khác nhau, đúng hơn, được con người giải thích khác nhau. Trong các đạo giáo, vấn đề cứu độ được rõ ràng nói đến và trở thành một linh đạo của mình chỉ thấy tỏ tường nơi Do Thái Giáo, Phật Giáo và Kitô Giáo.
(Mai: Vấn Đề Cứu Độ với Do Thái Giáo)
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
|
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |