THỨ HAI 24/3/2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

ĐTC Biển Đức XVI

Con đã sống lại, con vẫn ở cùng Cha. Alleluia!"

 Sứ Điệp Chúa Nhật Phục Sinh 23/3/2007 

   CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Hành Hương Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức 

Loạt Bài về Thời Điểm Maria

   MẾN Yêu Thánh Thể  

 Lòng Thương Xót Chúa

Tuần Chín dọn mừng Lễ Kính Chúa Tình Thương Chúa Nhật II Phục Sinh: Ngày 4

Nhật Ký của Chị Thánh Faustina

               YÊU Thương Tha Nhân              

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Cứu Độ

 Ơn Gọi Làm Người

  Vấn Đề Cứu Độ với Do Thái Giáo

 

 

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI
 

 

ĐTC Biển Đức XVI

 

Con đã sống lại, con vẫn ở cùng Cha. Alleluia!"

 

Sứ Điệp Chúa Nhật Phục Sinh 23/3/2008   

 

 

 

Resurrexi, et adhuc tecum sum. Alleluia! Con đã sống lại, con vẫn ở cùng Cha. Alleluia! Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu, tử giá và phục sinh, lập lại lời loan báo này cho chúng ta hôm nay đây: lời loan báo Phục Sinh. Chúng ta hãy đón nhận lời loan báo ấy với nỗi sâu xa ngỡ ngàng và tri ân!

 

Resurrexi, et adhuc tecum sum… Con đã sống lại, con vẫn ở cùng Cha. Những lời này, trích từ một bản cổ bài Thánh Vịnh 138 (v.18b), được xướng lên mở đầu cho Thánh Lễ hôm nay. Nơi những lời ấy, khi vầng dương Phục Sinh xuất hiện,  Giáo Hội nhận ra tiếng của chính Chúa Giêsu là Đấng, khi sống lại từ kẻ chết, đã hướng về Cha với đầy hân hoan và yêu mến mà kêu lên rằng: Cha ơi, này con đây! Con đã sống lại, con vẫn ở với Cha và bởi vậy Con sẽ vĩnh viễn ở với Cha; Thần Linh của Cha không bao giờ lìa bỏ con.

 

Như thế, chúng ta cũng có thể hiểu được một cách mới mẻ những đoạn khác của bài thánh vịnh này: “Nếu con leo lên trời thì cha ở nơi ấy; nếu con xuống âm phủ thì cha ở đó… Cho dù tăm  tối c ũng không tối tăm đối với cha, và đêm thì sáng tỏ như ban ngày; đối với cha thì tối tăm giống như ánh sáng” (Ps 138:8,12). Thật vậy, trong đêm vọng Phục Sinh long trọng này, bóng tối đã trở thành ánh sáng, đêm nhường chỗ cho ngày không hề tàn. Sự chết và phục sinh của Lời Thiên Chúa nhập thể là một biến cố của tình yêu bất bại, nó là cuộc chiến thắng của tình yêu giải thoát chúng ta khỏi tình trạng làm tôi mọi cho tội lỗi và sự chết. Nó làm thay đổi giòng lịch sử, cống hiến cho sự sống con người cái ý nghĩa cùng với giá trị bất hoại và mới mẻ.

 

“Con đã sống lại, con vẫn ở cùng Cha muôn đời”. Những lời này mời gọi chúng ta hãy chiêm ngưỡng Chúa Kitô phục sinh, để cho tiếng của Người âm vang trong cõi lòng của chúng ta. Bằng hy tế cứu chuộc của mình, Chúa Giêsu Nazarét đã làm cho chúng ta trở thành những người con cái thừa nhận của Thiên Chúa, nhờ đó, giờ đây, cả chúng ta nữa được tham phần vào cuộc đối thoại nhiệm mầu của Người với Cha. Chúng ta được nhắc nhở về những gì Người đã từng nói về những ai biết lắng nghe: “Tất cả mọi sự Cha Tôi ban cho Tôi; nên không ai biết được Cha trừ ra Con và người nào được Con muốn tỏ Cha ra cho” (Mt 11:27).

 

Theo quan điểm này, chúng ta nhận thấy rằng những lời được Chúa Giêsu phục sinh thưa cùng Cha vào ngày này – “Con vẫn ở cùng Cha muôn đời” – gián tiếp cũng được áp dụng vào cả chúng ta nữa, “thành phần con cái của Thiên Chúa là là những kẻ đồng thừa tự với Chúa Kitô, nếu chúng ta chịu khổ với Người để chúng ta cũng được hiển vinh với Người” (x Rm 8:17). Nhờ cái chết và phục sinh của Chúa Kitô, cả chúng ta nữa, hôm nay cũng được phục sinh vào sự sống mới, và hợp tiếng của chúng ta với tiếng của Người, chúng ta công bố rằng chúng ta muốn được muốn đời ở với Thiên Chúa là Cha vô cùng thiện hảo và nhân hậu của chúng ta.

 

Nhờ vậy, chúng ta tiến sâu vào mầu nhiệm Vượt Qua. Biến cố phục sinh lạ lùng này của Chúa Giêsu chính yếu là một biến coô của yêu thương: Cha yêu thương phó nộp Con Mình cho phần rỗi của thế giới; Con yêu thương khi phó mình cho ý muốn của Cha vì tất cả chúng ta; Thần Linh yêu thương khi phục sinh Chúa Giêsu từ trong kẻ chết nơi thân xác biến hình của Người. Chưa hết, tình Cha yêu thương “ôm ấp cách mới mẻ” Người Con, bao bọc  Người trong vinh quang; tình Con yêu thương đáp trả Cha trong quyền năng của Thần Linh, được mặc lấy nơi nhân tính được biến hình của chúng ta. Từ cuộc long trọng cử hành hôm nay đây, nhờ đó chúng ta sống lại hoàn toàn cái cảm nghiệm một lần vĩnh viễn của việc Chúa Giêsu phục sinh, chúng ta nhận lãnh một lời kêu gọi hãy hoán cải vêàvới Tình Yêu; chúng ta lãnh nhận lời mời gọi hãy soông bằng việc loại trừ hận thù và vị kỷ, để chân  thành theo bước chân của Con Chiên đã bị sát hại vì phần rỗi của chúng ta, bắt chước Đấng Cứu Chuộc là Đấng “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”, Đấng là “sự nghỉ ngợi cho linh hồn của chúng ta” (x Mt 11:29).

 

(còn tiếp)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 23/3/2008 

 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Hành Hương Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức 

Loạt Bài về Thời Điểm Maria

    

  Trong cuộc Hành Hương Năm Thánh 2000, tôi được dịp viếng thăm Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức, tôi chợt nghĩ ra một điều, một điều mà nếu không đến đây, tôi nghĩ chắc chắn tôi không bao giờ nghĩ ra và nghĩ được. Thật vậy, trong các Linh Địa Thánh Mẫu, kể cả Linh Địa Fatima, thì phải công nhận một điều không thể chối cãi được là Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức thật là thơ mộng, thật là hữu tình. Có dịp mà không đến thì đúng là uổng mất nửa đời người! Tại sao? Cảm nghĩ của tôi tự nhiên có được ngay sau khi mới từ Linh Địa Thánh Mẫu Fatima tới, đó là vì Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức là nơi duy nhất Đức Mẹ hiện ra tươi cười, chứ không hoàn toàn nghiêm trọng đến buồn thảm như các nơi khác, như ở La Salette  (1846) hay ở Fatima (1917).

    Ở Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức có ba điều chuyên biệt: thứ nhất là mạch nước lạ, thứ hai là ngôi đền thờ, và thứ ba là tước hiệu Vô Nhiễm Nguyên Tội.

    Thứ nhất là mạch nước lạ, mạch nước này ở ngay trong hang đá, ở bên phải dưới ngay chỗ Đức Mẹ hiện ra. Mạch nước lạ này được đậy bằng một tấm pha lê trong và chảy về hai phía, một phía cho khách hành hương uống lấy phúc, và một phía cho họ tắm. Phía nước uống được hệ thống hóa xong từ năm 1949 và khu nước tắm được hoàn thành từ năm 1955. ĐTC Gioan Phaolô II đã uống nước này vào ngày 14/8/1983. Và vô số phép lạ đã thực sự xẩy ra tại đây, được hội đồng y khoa địa phương thành lập từ năm 1882 và hội đồng y khoa quốc tế thành lập từ năm 1952 công nhận, trong số đó, từ lần xẩy ra đầu tiên ngày 1/3/1858 đến ngày 28/6/1989, tất cả có 65 phép lạ được Giáo Hội chính thức công nhận, tới nay Giáo Hội đã công nhận thêm 2 phép lạ nữa.

     Theo chiều hướng so sánh vẻ đẹp của Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức với các linh địa Thánh Mẫu khác nổi tiếng trên thế giới, khách hành hương, nếu để ý suy nghĩ, sẽ thấy mỗi linh địa đều có một cái gì nổi bật làm nên đặc tính riêng của mình, phản ảnh nội dung biến cố Thánh Mẫu của mình. Chẳng hạn, nếu ở Biến Cố Thánh Mẫu Fatima có ánh sáng và phép lạ mặt trời nhẩy múa, thì ở Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức có mạch nước và phép lạ chữa lành phần xác. Phải chăng vì những gì làm nên đặc tính riêng ở hai Linh Địa Thánh Mẫu này có liên quan tới hai Tước Hiệu Thánh Mẫu? Theo cảm nhận riêng của mình, tôi thấy rằng, nếu Tước Hiệu Thánh Mẫu ”Mẹ là Đức Bà Mân Côi”, được Mẹ tuyên bố ngày 13/10/1917, tỏ ra quyền năng của Mẹ đối với phần rỗi tội nhân và hòa bình thế giới, một quyền năng được biểu hiện qua phép lạ mặt trời nhẩy múa thế nào, thì Tước Hiệu Thánh Mẫu “Mẹ là Đấng Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội”, được Mẹ tuyên nhận ngày 25/3/1858 cũng thế, cũng tỏ ra mức độ đầy ơn phúc của Mẹ, một mức độ Mẹ có là để thông ban cho đồng loại vướng mắc nguyên tội của Mẹ, qua việc chữa lành phần xác của họ khỏi các thứ tật nguyện bất trị là hậu quả của tội lỗi và là tiêu biểu cho sự chết. Như thế, nếu Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức, một biến cố liên quan tới niềm tin tưởng cá nhân và phần xác con người, là rạng đông báo hiệu Biến Cố Thánh Mẫu Fatima, một biến cố liên quan tới mặt trời, đến phần rỗi của chung các tội nhân cũng như đến định mệnh của toàn thế giới, đến lịch sử!

    Thứ hai là ngôi đền thờ, như Mẹ yêu cầu, đã được thực hiện, đó là Đại Thánh Đường Vô Nhiễm. Đại Thánh Đường Vô Nhiễm này là một trong 4 đại thánh đường tại Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức. Ba đại thánh đường khác là Đại Thánh Đường Mân Côi, Đại Thánh Đường Thánh Giáo Hoàng Piô X, và Đại Thánh Đường Thánh Bênađét được thánh hiến năm 1988. Đại Thánh Đường Vô Nhiễm được bắt đầu xây vào năm 1866, lúc mà Ngôi Nhà Nguyện Hầm nhỏ được xây nằm ở phía bên trên được hoàn tất cùng năm. Đại Thánh Đường Vô Nhiễm được hoàn tất năm 1871 và được thánh hiến năm 1876. Đại Thánh Đường Vô Nhiễm này ở tầng hai, dưới Ngôi Nhà Nguyện Hầm ở tầng nhất và trên Đại Thánh Đường Mân Côi ở tầng đất. Đại Thánh Đường Mân Côi được xây cất 30 năm sau biến cố Thánh Mẫu Lộ Đức và được thánh hiến vào năm 1901. Đại Thánh Đường Thánh Giáo Hoàng Piô X được thánh hiến năm 1958, kỷ niệm bách chu niên Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức, được xây dưới lòng đất theo hình chiếc tầu lật ngược, chứa được 27 ngàn người, nằm về phía Tây hang Mẹ hiện ra ở bên kia sông Gave, phải đi qua một chiếc cầu. Đại Thánh Đường Thánh Bênađét được thánh hiến năm 1988, chứa được 5000. Tổng Thánh Đường chính của Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức gồm có ba tầng: tầng nhất là Ngôi Nhà Nguyện Hầm nhỏ, tầng hai là Đại Thánh Đường Vô Nhiễm, và tầng ba là Đại Thánh Đường Mân Côi. Tổng Thánh Đường này, phía Tây ở bên hông dính liền với hang động chỗ Mẹ hiện ra, và phía Bắc trước mặt là Công Trường Lộ Đức hình tim.

    Thứ ba là tước hiệu Vô Nhiễm Nguyên Tội, một tước hiệu nói lên đặc ân vô cùng cao cả của Mẹ đã được Giáo Hội, qua Á Thánh Giáo Hoàng Piô IX, chính thức tuyên tín thành tín điều vào chính ngày Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12/1854, gần bốn năm trước Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức.

(còn tiếp)
 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 



  
Lòng Thương Xót Chúa

 

Tuần Chín dọn mừng Lễ Kính Chúa Tình Thương Chúa Nhật II Phục Sinh

 

Nhật Ký của Chị Thánh Fuastina

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh chuyển  dịch


 

Chúa Giêsu chỉ cho con viết xuống và thực hiện trước Lễ Kính Tình Thương tuần chính ngày này. Nó bắt đầu vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.

 

Cha mong ước là trong chín ngày này, con đem các linh hồn đến mạch nguồn của tình thương Cha, để họ có thể kín múc từ đó sức mạnh mà hồi sinh, cùng với những ơn cần thiết cho họ trước những khó khăn của cuộc đời, nhất là trong giờ lâm tử.

 

Mỗi ngày con mang về cho Trái Tim Cha một nhóm các linh hồn khác nhau, rồi con hãy dìm họ vào trong đại dương này của tình thương Cha, phần Cha sẽ đưa tất cả những linh hồn này về nhà Cha Cha. Con sẽ làm như thế ở cả đời này lẫn đời sau. Cha sẽ không từ chối một sự gì cho linh hồn mà con mang về mạch nguồn của tình thương Cha. Mỗi ngày, con hãy van xin Cha Cha các ơn lành cho những linh hồn này, dựa vào công lực của cuộc Khổ Nạn đắng cay của Cha.

 

Con đã đáp lại: "Chúa Giêsu ơi, con đâu có biết làm tuần chín ngày này, hay phải mang những linh hồn nào trước vào Trái Tim Rất Xót Thương của Chúa đây". Chúa Giêsu trả lời là Người sẽ nói cho con biết những linh hồn nào mỗi ngày cần phải mang vào trong Trái Tim Người.

 

Ngày 4

 

Hôm nay con hãy mang về cho Cha những người ngoại đạo và những người chưa nhận biết Cha. Cha cũng đã nghĩ đến họ trong cuộc Khổ Nạn thương đau của Cha, và lòng nhiệt thành sẽ có của họ đã ửi an Trái Tim Cha. Hãy dìm họ vào trong đại dương của tình thương Cha.

 

Lạy Chúa Giêsu Rất Xót Thương, Chúa là Ánh Sáng của toàn thế giới. Xin hãy đón nhận vào cung lòng của Trái Tim Rất Xót Thương Chúa linh hồn những người ngoại giáo là những linh hồn chưa nhận biết Chúa. Xin những tia sáng ơn Chúa chiếu soi họ để cả họ nữa , hợp với chúng con, được hân hoan chúc tụng tình thương tuyệt diệu của Chúa' và đừng để họ lọt khỏi cung lòng là Trái Tim Rất Xót Thương  Chúa.

 

            Xin ánh sáng của Tình Yêu Chúa

            Chiếu soi các linh hồn ở trong tăm tối'

            Xin ban cho những linh hồn này được nhận biết Chúa

            Để hợp với chúng con họ chúc tụng tình thương Chúa.

 

Lạy Chúa Cha Hằng Sống, xin hãy ghé mắt xót thương của Cha xuống trên linh hồn những người ngoại giáo và những linh hồn chưa nhận biết Chua, nhưng được ấp ủ trong Trái Tim Rất Xót Thương của Chúa Giêsu. Xin Cha hãy thu hút họ đến ánh sáng Phúc Âm. Những linh hồn này không biết đến hạnh phúc cao trọng là chừng nào trong việc yêu mến Cha. Xin Cha cho cả họ nữa được hân hoan chúc tụng tình thương bao dung của Cha đến muôn thuở muôn đời. Amen.


 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

  

Tuần Bát Nhật Phục Sinh

 

Cứu Độ

 

 Ơn Gọi Làm Người

 

Vấn Đề Cứu Độ với Do Thái Giáo

 

Trước hết, đối với Do Thái Giáo, theo Lịch Sử Cứu Độ của họ, như được ghi nhận và trình thuật trong bộ Sách Thánh của họ, bộ Sách Thánh được Kitô Giáo chấp nhận như bộ Thánh Kinh Cựu Ước của mình, thì vấn đề cứu độ là một Dự Án Thần Linh, một dự án được Giavê Thiên Chúa từ từ thể hiện bằng những việc làm của Ngài, nhất là bằng việc Ngài ra tay uy quyền giải cứu dân tộc này khỏi quyền lực ngoại bang. Hai lần Giavê Thiên Chúa của dân Do Thái đã thực hiện việc cứu độ họ quan trọng và đại thể nhất, liên quan trực tiếp đến cả lịch sử thế giới. Thứ nhất là lần Ngài cứu họ khỏi tình trạng làm nô lệ ở Ai Cập 450 năm, qua trung gian của Moisen, bằng một cuộc vượt qua biển đỏ, băng qua sa mạc 40 năm trường để đến mảnh đất Ngài đã hứa với tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp của họ là mảnh đất Palestine đang đẫm máu tranh chấp hiện nay. Cuộc vượt qua này xẩy ra 480 năm trước khi Vua Solomon xây thành và đền thờ Giêrusalem, tức vào triều đại 18 ở Ai cập hay 1440 năm trước Công Nguyên. Thứ hai là lần Ngài cứu họ khỏi tình trạng lưu đầy bên Babylon, bằng một cuộc hồi hương trở về xây dựng lại Thành Thánh và Đền Thờ Giêrusalem đã bị dân ngoại tục hóa và làm ô uế. Biến cố lưu đầy và hồi hương này của dân Do Thái xẩy ra trong giai đoạn lịch sử thế giới từ năm 587 đến năm 537 trước Công Nguyên, tức từ khi người Babylon phá hủy đền thờ Giêrusalem đến khi họ tái thiết trung tâm đạo giáo của họ.

 

Đối với Thiên Chúa Giavê của dân Do Thái, để tỏ ra mình là Thiên Chúa, một Thiên Chúa chân thật duy nhất trên trời dưới đất, một Thiên Chúa mà riêng dân Do Thái và chung loài người phải nhận biết và tôn thờ, Ngài đã tự tỏ mình ra cho họ, bằng việc Ngài tự dộng hứa hẹn với cha ông tổ phụ họ, rồi Ngài hoàn tất những gì Ngài hứa nơi con cháu của những vị tổ phụ này, cho dù họ có không trung thành với giao ước Ngài đã ký kết với cha ông họ. Là một Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và toàn năng, Ngài đã chẳng những bất chấp những bất trung của họ mà còn lợi dụng chính những bất trung của họ để chứng tỏ cho họ thấy Ngài thực sự là Thiên Chúa chân thật duy nhất họ phải nhận biết và tôn thờ. Ở chỗ, mỗi lần họ bỏ Ngài mà đi tôn thờ các thần ngoại lai hay sùng bái các thứ ngẫu tượng do họ nghĩ tạo ra, tức mỗi lần họ vi phạm đến Thánh Luật Ngài ban cho họ qua Moisen ở núi Sinai trong cuộc vượt qua sa mạc tiến vào Đất Hứa của họ, Ngài liền bỏ rơi họ, tức để họ bị rơi vào tay quyền lực ngoại bang, cho đến khi họ nhận biết lỗi lầm mà thực tâm trở về với Ngài, Ngài mới ra tay giải cứu họ một cách đặc biệt, qua những vị anh hùng cái thế xuất hiện suốt giòng lịch sử của họ. Bởi thế, đối với dân tộc Do Thái, Chúa là Thiên Chúa chân thực duy nhất của họ phải là và chính là Đấng Cứu Độ của họ.

 

Tiếc thay, cũng chính vì chiều hướng diễn tiến của giòng Lịch Sử Cứu Độ này, nhất là chính vì quan niệm Vị Thiên Chúa Toàn Năng của mình phải là một Vị Thiên Chúa Cứu Độ thường trực tiếp liên quan đến tình hình chính trị, mà dân tộc Do Thái chỉ mong đợi Thiên Chúa khi họ gặp cảnh cùng quẫn, nhất là lúc họ bị áp bức bởi một quyền lực chính trị ngoại bang. Ngoài ra, những lúc họ được an bình thịnh vượng, họ liền quên Ngài, và quay sang các thứ thần tượng ngoại bang hay các thứ ngẫu tượng do họ tạo ra. Bởi vậy, không lạ gì, cho tới nay, dân tộc Do Thái vẫn không chịu nhìn nhận nhân vật Giêsu Nazarét, Vị Sáng Lập Kitô Giáo, một con người thuộc huyết tộc của họ, là Đấng Thiên sai, Đấng được Thiên Chúa của họ sai đến để cứu độ họ nói riêng và nhân loại nói chung. Lý do là vì con người Giêsu Nazarét này đã chẳng những không giải thoát họ khỏi quyền lực của đế quốc Rôma bấy giờ, mà còn bị quyền lực này đóng đanh trên thập tự giá vô cùng ô nhục nữa. Như thế, vấn đề cứu độ theo Do Thái Giáo, đúng hơn, theo dân tộc Do Thái, là vấn đề cứu độ về chính trị hơn là về tinh thần và đạo lý.

 

(Mai: Vấn Đề Cứu Độ với Phật  Giáo)

 

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

TRONG THỜI ÐIỂM MARIA

MẸ MARIA XUẤT HIỆN NHƯ BÌNH MINH 

BÁO HIỆU MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH RẠNG NGỜI TỎ HIỆN...

 

“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất

thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai,

cho dù không cùng một kiểu cách -

  Being the way by which Jesus came to us the first time,

    she will also be the way by which He will come the second time,  

 though not in the same manner

      (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)

 

"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.

Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài,

nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể...

the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary,

He sees that his time is getting short,

and he is making every effort to gain as many souls as possible..."

(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes  ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,

The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)

 

"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".

"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day.
He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".

     (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)

 

Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc

thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của

nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành

của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy

‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó

cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ

với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng

hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con

người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến

trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675)

"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”

March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you.     

(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;

tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha.

Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;

sau đó sẽ là ngày của công lý.

Speak to the world about My mercy;

let all mankind recognize My unfathomable mercy.

It is a sign for the end times;

after it will come the day of justice.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...

Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..."  

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -

Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng

(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa;

nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài,

vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus',

vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis',

là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử',

qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,

vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,

một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương)

để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha -

From her will come forth the spark

that will prepare the world for My final coming”

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)

 

 Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,

và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến

để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -

We are all living in the Advent of the last days of history,

and all trying to prepare for the coming of Christ,

to build the kingdom of God which he proclaimed”

(ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).

 

 

 

Thời Điểm Maria ra mắt ngày 8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được 30.224 lần viếng thăm. Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006. Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006.
 Từ đó TĐM tiếp tục được thêm Hit Counter lần viếng thăm. Đa tạ.

Webmaster@ThoiDiemMaria.Net