THỨ TƯ 26/3/2008
ĐTC Biển Đức XVI Thập giá là chứng từ vĩnh viễn cho một tình yêu vô cùng Huấn Từ kết thúc Đường Thánh Giá ở Hí Trường Rôma Thứ Sáu Tuần Thánh 21/3/2008 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL Hành Hương Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức (tiếp) Loạt Bài về Thời Điểm Maria Lòng Thương Xót Chúa Tuần Chín dọn mừng Lễ Kính Chúa Tình Thương Chúa Nhật II Phục Sinh: Ngày 6 Nhật Ký của Chị Thánh Faustina Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL Cứu Độ Ơn Gọi Làm Người Vấn Đề Cứu Độ với Kitô Giáo
ĐTC Biển Đức XVI
Thập giá là chứng từ vĩnh viễn cho một tình yêu vô cùng
Huấn Từ kết thúc Đường Thánh Giá truyền thống ở Hí Trường Rôma Thứ Sáu Tuần Thánh 21/3/2008
Anh Chị Em thân mến,
Cả năm nay nữa chúng ta đã bước theo Đường Thánh Giá, Via Crucis, một con đường gợi lại theo niềm tin những chặng khổ nạn của Chúa Kitô. Mắt của chúng ta đã ngước lên chiêm ngưỡng những khổ đau và buồn sầu phải chịu của Đấng Cứu Chuộc chúng ta trong giây phút rất đau thương, giây phút cho thấy cao điểm đối với sứ vụ trần thế của Người. Chúa Giêsu đã chết trên thập tự giá và đã nằm trong mồ. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, một ngày thấm đẫm buồn đau về nhân loại và thinh lặng về tôn giáo, kết thúc trong trầm lắng và nguyện cầu. Trở về nhà, cả chúng ta nữa, như những ai đã hiện diện ở cuộc Chúa Giêsu hy tế, đấm ngực mình, khi nhớ lại những gì đã xẩy ra. Có thể nào cứ tỏ ra dửng dưng trước cái chết của Chúa, của Người Con Thiên Chúa hay chăng? Đối với chúng ta, Người đã làm người vì phần rỗi của chúng ta nên Người đã có thể khịu khổ và chết đi.
Hỡi anh chị em: Hôm nay chúng ta hãy hướng nhìn lên Chúa Kitô, một ánh mắt thường bị phân tán bởi những lợi thú trần thế rải rác mau qua. Chúng ta hãy dừng lại để chiêm ngưỡng cây thập tự giá của Người. Cây thập tự giá này, nguồn sự sống và học đường dạy công lý và hòa bình, là gia sản chung của sự thứ tha và lòng thương xót. Thập giá là chứng từ vĩnh viễn cho một tình yêu vô cùng tự hư không hóa bản thân mình đã khiến Thiên Chúa làm người có thể bị tổn thương như chúng ta cho đến độ tử giá.
Qua đường thánh giá khổ sầu này, con người của hết mọi thời đại, thành phần được hòa giải và cứu chuộc bởi máu của Chúa Kitô, đã trở thành bạn hữu của Thiên Chúa, trở nên những người con cái của Cha trên trời. “Hỡi bạn”, là chữ Chúa Giêsu gọi Giuđa và Người đã cống hiến cho con người này tiếng gọi hoán cải thảm thiết cuối cùng. “Hỡi bạn”, Người đã gọi mỗi người chúng ta, vì Người là người bạn đích thực của hết mọi người. Tiếc thay, chúng ta đã không luôn luôn thấu triệt được cái sâu xa của tình yêu vô tận được Thiên Chúa đối xứ với chúng ta ấy. Đối với Người, không có vấn đề phân chia chủng tộc hay văn hóa. Chúa Giêsu Kitô đã chết để giải thoát nhân loại xưa kia khỏi tình trạng vô thức về Thiên Chúa, khỏi cái vòng lẩn quẩn của hận thù và bạo lực, khỏi cảnh làm tôi cho tội lỗi. Cây thập tự giá làm cho chúng ta trở thành anh chị em với nhau.
Thế nhưng, chúng ta hãy hỏi mình, trong giây phút này đây, chúng ta đã làm gì với tặng ân ấy, chúng ta đã làm gì với việc mạc khải dung nhan của Thiên Chúa nơi Chúa Kitô, với mạc khải của tình yêu Thiên Chúa chiến thắng hận thù. Nhiều người, trong cả thời đại của chúng ta nữa, không biết Thiên Chúa và không thể gặp gỡ Ngài nơi Chúa Kitô tử giá. Nhiều người đang tìm kiếm một tình yêu hay một thứ tự do loại trừ Thiên Chúa. Nhiều người tin rằng họ không cần đến Thiên Chúa.
Các bạn thân mến, Sauk hi đã cùng nhau sống cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, đêm nay chúng ta hãy để cho hy tế trên thập tự giá của Người đặt vấn đề với chúng ta. Chúng ta hãy để Người thách đố những niềm tin tưởng nhân loại của chúng ta. Chúng ta hãy mở lòng mình ra. Chúa Giêsu là sự thật làm cho chúng ta được tự do yêu thương. Chúng ta đừng sợ: khi chết đi, Chúa Kitô đã hủy diệt tội lỗi và cứu độ tội nhân, tức là, cứu độ tất cả chúng ta. Tông Đồ Phêrô đã viết: “Chính Người mang lấy tội lỗi của chúng ta nơi thân xác của Người trên thập tự giá, để thoát khỏi tội lỗi chúng ta có thể sống chho sự công chính” (1Pt 2:24). Đây là sự thật của Thứ Sáu Tuần Thánh: Trên thập tự giá, Đấng Cứu Thế đã làm cho chúng ta trở thành những người con thừa nhận của Thiên Chúa, thành phần đã được Ngài dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Ngài. Vậy chúng ta hãy tiếp tục việc tôn thờ trước thập tự giá.
Lạy Chúa Kitô, xin ban cho chúng con an bình chúng con đang tìm kiếm, hạnh phúc chúng con đang ước mong, tình yêu làm thỏa nguyện cõi lòng chúng con khát khao vĩnh hằng. Đó là lời nguyện cầu của chúng con đêm nay Lạy Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, Đấng đã chết vì chúng con trên thập tự giá và sau ba ngày đã phục sinh.
Amen.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 21/3/2008 (những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Phép Lạ Lộ Đức: Tiến Trình Điều Tra và Công Nhận Loạt Bài về Thời Điểm Maria Gần văn phòng y khoa bận bịu là một chỗ trưng bày hình ảnh lạ lùng của những người hành hương đã được chữa lành, với những hàng chữ nói về tình trạng tật nguyện bệnh nạn của họ. Vấn đề này là những gì được phổ biến công khai. Những cuộc lành bệnh này không phải tự nhiên xẩy ra mà là chất chứa cả một đức tin trong ấy, thế nhưng làm thế nào để có thể chứng thực được những gì xẩy ra liên quan tới đức tin siêu nhiên như thế, nhất là giữa một thế giới thiên về duy thực dụng, coi khoa học như là chân lý ngày nay? Cũng chính vì con người trong thế giới văn minh ngày nay cần đến những chứng cớ về khoa học mà bằng chứng về y khoa liên quan tới những biến cố chữa lành này là những gì bất khả thiếu và hùng hồn cho thấy sự hiện diện thần linh của Đấng Vô Hình làm chủ lịch sử và định mệnh của từng người trên thế gian này. Ngoài ra, Giáo Hội cũng cần đến những chứng cớ về y khoa để có thể công nhận các biến cố chữa lành được gọi là phép lạ thật sự ở Lộ Đức.
Tiến Trình Điều Tra
Khi một người hành hương Lộ Đức cho rằng mình được chữa lành thì họ được vị bác sĩ ở đó khám nghiệm, trước khi chuyển đến các vị bác sĩ ở văn phòng y khoa là văn phòng được thiết lập chính thức vào năm 1947. Cơ quan này có trách nhiệm thẩm định đầu tiên để xem tính chất thực sự của việc chữa lành. Người hành hương được chữa lành này, cùng với những ghi nhận từ các cuộc khám nghiệm trước đó, được các vị bác sĩ chủ trị khám nghiệm, tất cả đều được chứng dự bởi vị giám đốc đền thánh và vị linh mục đặc trách khách hành hương. Những qui chuẩn đòi phải có đối với một việc chữa lành bao gồm ít là 4 điều sau đây: chứng bệnh phải thực sự xẩy ra và việc chẩn bệnh xác đáng; dự đoán về chứng bệnh phải rành mạch, kể cả những dự đoán về tính chất vĩnh viễn hay bất trị của nó; việc được chữa lành phải xẩy ra tức khắc, chứ không phải tình trạng hồi phục, hoàn toàn, dứt khoát và mãi mãi; việc chữa trị được qui định không góp phần gì vào biến cố lành mạnh cả. Khi biến cố chữa lành được khẳng định rồi, thì cuộc thẩm định chung đòi người bệnh gặp gỡ văn phòng y khoa 3 năm nữa. Nếu đa số các bác sĩ đồng ý, thì hồ sơ của bệnh nhân được lành khỏi ấy sẽ được gửi đến cho Tiểu Ban Y Khoa Quốc Tế Lộ Đức (CMIL: Lourdes International Medical Committee) được thành lập vào năm 1954. Tiểu ban y khoa quốc tế này sẽ thẩm định những biến cố chữa lành trên 10 đến 15 năm để theo dõi việc phát triển của bệnh nhân. Sau khi văn phòng y khoa quốc tế này khẳng định việc chữa lành hoàn toàn vượt quá khả năng của y khoa thì hồ sơ của việc chữa lành được gửi đến cho các vị thẩm quyền của Giáo Hội.
Việc Công Nhận Phép Lạ
Việc công bố phép lạ chữa lành là phận sự của vị giám mục nơi ở của người được chữa lành. Nhưng trước khi vị giám mục địa phương công bố thì vấn đề hay hồ sơ của người bệnh được chữa lành được cứu xét bởi một Ủy Ban Giáo Phận bao gồm các vị linh mục, các vị chuyên gia về giáo luật, các thần học gia và các vị bác sĩ.
Y Khoa hay Phép Lạ chữa lành
Căn cứ vào thời điểm văn phòng y khoa được thiết lập vào năm 1947, thì trước đó, mức độ được chữa lành trước năm 1914 là 1:100, từ 1914 đến 1928 là 1:700, thế nhưng từ 1928 đến 1947 là 1:1600. Tóm lại, có 5 ngàn vụ được cho là chữa lành trước năm 1947. Từ 1947 đến 1990 chỉ còn 1000, trong số đó chỉ có 56 vụ được công nhận trong thời gian này, trung bình là 1.3 vụ mỗi năm, khác với 57 vụ mỗi năm trước năm 1914. Căn cứ vào các dữ kiện ấy, người ta có thể suy ra rằng càng văn minh hay y khoa càng tiến bộ, bao gồm cả các thứ thuốc men được sáng chế thêm, thì bệnh tật được chữa lành bởi khoa học hơn là bởi phép lạ. Từ thập niên 1960 con số được cho là phép lạ đã thụt giảm hẳn xuống. Vấn đề có thể đặt ra ở đây là chính vì khoa học tân tiến mà người ta tin vào khoa học hơn là trời cao, nên không đến để xin chữa lành nhiều như trước nữa, do đó không có nhiều phép lạ chữa lành xẩy ra nữa. Giống như vấn đề tại sao ngày nay Âu Châu là nơi đã từng là chiếc nôi Kitô Giáo và lan truyền Kitô Giáo khắp thế giới, nay lại là nơi xuất phát ra nền văn hóa sự chết và cần tái truyền bá phúc âm hóa hơn bao giờ hết. Phải chăng là vì Kitô Giáo đã lỗi thời, không còn tác lực cứu độ nữa? Vấn đề có thể đặt ngược lại là khoa học và kỹ thuật tân tiến hay văn minh của con người nếu quả thực là cứu tinh của con người, mang lại hạnh phúc thực sự và trọn vẹn cho con người, thì tại sao thế giới càng văn minh con người càng bạo loạn như thực tế không thể chối cãi ngày nay cho thấy! Như thế, vấn đề ở đây là phải chăng vì con người bỏ Thiên Chúa, bị khủng hoảng đức tin con người mới trở nên đáng thương như thế, cần phải được chữa lành cả về (nhất là về) phần hồn nữa vậy. Kể từ ngày thành lập của mình, tiểu ban y khoa quốc tế này đã cứu xét 1300 vụ và đã nộp 29 vụ cho Giáo Hội và được thẩm quyền Giáo Hội công nhận 19. Tư năm 1858 tới nay, tức sau 150 năm, Giáo Hội mới chính thức công nhận 67 phép lạ Lộ Đức. Sau đây là hai phép lạ cuối cùng, phép lạ thứ 66 và 67.
(còn
tiếp)
Tuần Chín dọn mừng Lễ Kính Chúa Tình Thương Chúa Nhật II Phục Sinh
Nhật Ký của Chị Thánh Fuastina Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh chuyển dịch
Chúa Giêsu chỉ cho con viết xuống và thực hiện trước Lễ Kính Tình Thương tuần chính ngày này. Nó bắt đầu vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Cha mong ước là trong chín ngày này, con đem các linh hồn đến mạch nguồn của tình thương Cha, để họ có thể kín múc từ đó sức mạnh mà hồi sinh, cùng với những ơn cần thiết cho họ trước những khó khăn của cuộc đời, nhất là trong giờ lâm tử.
Mỗi ngày con mang về cho Trái Tim Cha một nhóm các linh hồn khác nhau, rồi con hãy dìm họ vào trong đại dương này của tình thương Cha, phần Cha sẽ đưa tất cả những linh hồn này về nhà Cha Cha. Con sẽ làm như thế ở cả đời này lẫn đời sau. Cha sẽ không từ chối một sự gì cho linh hồn mà con mang về mạch nguồn của tình thương Cha. Mỗi ngày, con hãy van xin Cha Cha các ơn lành cho những linh hồn này, dựa vào công lực của cuộc Khổ Nạn đắng cay của Cha.
Con đã đáp lại: "Chúa Giêsu ơi, con đâu có biết làm tuần chín ngày này, hay phải mang những linh hồn nào trước vào Trái Tim Rất Xót Thương của Chúa đây". Chúa Giêsu trả lời là Người sẽ nói cho con biết những linh hồn nào mỗi ngày cần phải mang vào trong Trái Tim Người.
Ngày 6
Hôm nay, con hãy mang về cho Cha những linh hồn hiền lành và khiêm nhượng cùng với linh hồn của những con trẻ, mà dìm họ vào trong tình thương của Cha. Những linh hồn này giống gần như Trái Tim Cha nhất. Họ tăng sức cho Cha trong cuộc thương khó nghiệt ngã. Cha thấy họ như những Thiên Thần trần thế, những thần luôn chầu chực nơi các bàn thờ của Cha. Cha tuôn đổ xuống trên họ tất cả những trận mưa ân sủng. Chỉ có linh hồn khiêm hạ mới có thể nhận được ơn Cha. Cha ưa chuộng các linh hồn khiêm nhu tin tưởng vào Cha.
Lạy Chúa Giêsu Rất Xót Thương, chính Chúa đã phán "Hãy học cùng Cha vì Cha hiền lành và khiêm nhượng trong lòng". Xin đón nhận vào cung lòng của Trái Tim Rất Xót Thương Chúa tất cả những linh hồn hiền lành và khiêm nhượng và linh hồn của những con trể. Những linh hồn này làm cho tất cả thiên đàng ngất ngây và làm cho Chúa Cha trên trời mộ mến. Họ là một bó hoa ngát hương thơm ngát trước tòa Thiên Chúa' Thiên Chúa lấy làm thích thú thưởng thức mùi thơm của họ. Những linh hồn này vĩnh viễn ở trong Trái Tim Rất Xót Thương của Chúa, Ôi Chúa Giêsu, và họ không ngừng ca lên bản thánh ca mến yêu và thương xót.
Một linh hồn hiền lành và khiêm nhượng Dưới thế này đã hô hấp linh khí địa đường, Và nơi hương thơm từ tấm lòng linh hồn khiêm nhu Đấng Tạo Hóa lấy làm sướng vui.
Lạy Chúa Cha Hằng Sống, xin hãy ghé mắt xót thương của Cha xuống trên những linh hồn hiền lành và khiêm nhượng, cũng như trên linh hồn các trẻ nhỏ, họ là những linh hồn được ấp ủ trong cung lòng của Trái Tim Rất Xót Thương Con Cha. Hương thơm của họ phát tỏa từ trái đất bay lên thẳng tòa Cha. Lạy Cha của tình thương và của mọi sự tốt lành, con van xin Cha, vì tình yêu Cha đã cưu mang những linh hồn này và vì niềm vui mà Cha nhận được nơi họ: xin Cha chúc phúc cho toàn thế giới, để hết mọi linh hồn cùng nhau hát khen chúc tụng tình thương Cha đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Tuần Bát Nhật Phục Sinh
Cứu Độ
Ơn Gọi Làm Người
Vấn Đề Cứu Độ với Kitô Giáo
Phải, bóng tối không thể nào tự tan biến nếu không được ánh sáng chiếu soi thế nào, và một tử thi không bao giờ có thể tự mình sống lại ra sao, thì con người được dựng nên theo hình ảnh Thần Linh và tương tự như Thần Linh, ở hồn thiêng và tự do nơi bản tính nhân linh ư vạn vật của con người, ngay từ ban đầu bản tính ấy của họ đã bị hư đi theo nguyên tội, qua việc hai nguyên tổ của họ phản loạn bất phục tùng Đấng Hóa Công Tối Cao, cũng không thể tự mình cứu độ như vậy. Chưa hết, việc con người tạo vật vô cùng thấp hèn mà lại dám ngang nhiên bất tuân ý muốn thượng trí vô cùng khôn ngoan của Đấng Tối Cao là một trọng tội vô cùng nặng nề, không thể thứ tha và đền bù, nếu chính Ngài không tự ý tha cho họ và cứu chuộc họ. Đó là lý do, chẳng những vì con người không thể tự cứu mà còn vì tội họ phạm tự họ không thể đền bù, mà Đấng Hóa Công, chẳng những là một Vị Thiên Chúa toàn năng, ở chỗ dựng nên trời đất, mà còn là một Vị Thiên Chúa vô cùng toàn thiện, ở chỗ từ ái ra tay cứu chuộc (redemption) và cứu độ (salvation) con người, đã hứa ban cho họ một Vị Cứu Tinh (xem Sáng Thế Ký 3:15), một vị mà, theo các lời tiên tri và hình ảnh được tiên báo trong bộ Sách Thánh Do Thái Giáo, đó là Đấng Thiên Sai, là nhân vật mang tên Giêsu, nhân vật được sinh ra ở Bêlem đời hoàng đế Cêsa Augustô ban lệnh kiểm tra dân số lần đầu tiên trong toàn đế quốc của ông, nhân vật đã sinh trưởng tại Nazarét thời quận vương Archelau con Hêrôđê cai trị xứ Giuđêa, và cũng là nhân vật đã bị tử giá song đã phục sinh từ trong kẻ chết thời Tổng Trấn Philatô.
Đúng thế, Thiên Chúa Tối Cao không dựng nên con người để đầy đọa con người, nhất là để trừng phạt con người khi bị họ phạm thượng đến mình, mà chính Ngài đã tự động tuyên hứa cứu độ con người, không cần con người phải ngỏ lời xin. Và cách thức Vị Thiên Chúa vô cùng toàn năng và toàn hảo này sử dụng để cứu độ con người là Nhập Thể Hóa Thân Làm Người như loài người. Bởi vì, loài người đã dùng chính bản tính được dựng nên theo hình ảnh Thần Linh và tương tự như Thần Linh vô cùng cao trọng của mình để phạm thượng đối với Ngài, một tội vô cùng trọng nặng con người không thể đền bù, thì phải làm sao để bản tính loài người này chẳng những được tái sinh, được phục hồi như thuở ban đầu, mà còn được hoàn toàn trở nên những gì Thiên Chúa muốn khi dựng nên loài người, đó là Ngài muốn loài người được hiệp thông với Ngài, được tham hưởng chính Sự Sống Thần Linh với Ngài, được nên trọn lành toàn hảo như Ngài.
Đó là lý do, vấn đề cứu độ nơi Kitô Giáo, về phần tiêu cực, chẳng những là việc cứu chuộc (redemption) con người khỏi tội lỗi và sự chết, về phần tích cực, còn là việc cứu độ (salvation) con người cho họ được hưởng một Sự Sống Thần Linh và là một sự sống viên mãn hơn, đến nỗi làm cho họ được quyền năng vô địch có thể lấy lành thắng dữ (xem Phúc Âm Marcô 16:17-18), như ánh sáng xóa tan bóng tối, nhất là làm cho họ có sức thu phục lòng người, khiến con người nhờ họ và qua họ có thể nhận biết chân lý. Cốt lõi của vấn đề cứu độ của Kitô Giáo là thế, là con người được cứu trước hết khỏi quyền lực tội lỗi, bằng quyền lực ân sủng, khỏi quyền lực tối tăm của gian ác, bằng quyền lực ánh sáng của chân lý, nhờ đó, con người dù sống nghèo khổ và bị áp bức là những gì Thần Học Giải Phóng chủ trương cần phải giải cứu, chẳng những vẫn có sức chịu đựng trong một trạng thái bằng an thế gian không thể ban cho họ (xem Phúc Âm Gioan 14:27), thậm chí có thể biến sầu khổ thành niềm vui cho mình (xem Phúc Âm Gioan 16:20), mà còn có sức chia sẻ bình an nội tâm sâu xa họ có cho anh chị em bất hạnh của họ nữa. Điển hình nhất là trường hợp của một Mẹ Têrêsa Calcutta, một vị không hề truyền bá Kitô Giáo bằng giáo thuyết như các vị thừa sai đã làm từ trước đến nay, nhưng cũng đã khiến cho thế giới Ấn Giáo nói riêng và con người văn minh khắp thế giới ở vào cuối thế kỷ 20 đẫm máu hận thù nói chung phải ngưỡng phục như một vị thánh sống, vị đã chết cách đây 5 năm, đã được tiễn đưa theo nghi thức quốc táng Ấn Độ như truyền hình quốc tế hiển nhiên cho thấy, và là vị sẽ được Giáo Hội Công Giáo phong chân phước vào ngày 19/10/2003 tới đây.
Quyền lực thần linh vô địch này đã được Đấng Tử Giá là Đức Giêsu Phục Sinh thông ban cho các môn đệ của Người, một quyền lực đã thực sự canh tân bộ mặt trái đất, thực sự làm cho nhân loại từ Biến Cố Thánh Thần Hiện Xuống vào Ngày Lễ Ngũ Tuần của Do Thái Giáo ở Giêrusalem, càng ngày càng được văn minh hóa theo văn hóa sự sống. Cho đến nay, thế giới đã hầu như không còn những chế độ phi nhân bản, như chế độ đa thê, chế độ nô lệ, chế độ đế quốc, chế độ thực dân v.v. Thế nhưng, tại sao ngày nay chính tại thế giới Kitô Giáo là Tây Phương lại phát xuất ra và tràn lan đi một thứ văn hóa ngược lại, một thứ văn hóa được vị lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo trên một tỉ tín đồ đặt tên cho là “văn hóa sự chết”, một thứ văn hóa giết người, một thứ văn hóa của phá thai, của trợ an tử, một thứ văn hóa phi nhân bản và phản luân thường đạo lý? Phải chăng là vì Kitô Giáo đã hết thời, đã chỉ có sức cứu độ trong một thời gian, thời gian lịch sử thế giới chưa đi đến chỗ văn minh vật chất và nhân bản như ngày nay, nhất là thời gian từ sau Thế Chiến Thứ Hai tới nay, tức từ sau Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền tới giờ?
Thật ra, nếu Kitô Giáo đã thực sự có một Quyền Năng Thần Linh canh tân bộ mặt trái đất ngay từ đầu như thế, thì sở dĩ Kitô Giáo đang bị khủng hoảng về đức tin hiện nay, nhất là ở tại Tây Phương tân tiến, là vì con người văn minh Tây Phương đã chối bỏ căn tính Kitô Giáo của mình. Đó là lý do Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhiều lần kêu gọi Khối Hiệp Nhất Âu Châu hãy xét lại vấn đề căn tính Kitô Giáo của mình, nhất là hãy trở về, hãy trung thành với căn tính làm nên lịch sử Âu Châu nói riêng và thế giới nói chung. Chính vì đã lìa bỏ căn tính Kitô Giáo của mình mà thế giới Kitô Giáo Tây Phương mới như chẳng những trở thành như một thi thể vô hồn, với những khoản luật cho phép ly dị và phá thai từ thập niên 1960 và 1970 tới nay, mà còn như một thi thể đang thối rữa, với những khoản luật từ thập niên 1990 tới nay cho phép đồng tính hôn nhân và tạo sinh ngoại nhiên.
Thế nhưng, như Đấng Sáng lập Kitô Giáo đã tự nguyện để cho loài người đóng đanh trên thập giá và đã phục sinh từ trong kẻ chết để chiến thắng sự chết thế nào thì Ơn Cứu Độ nơi Kitô Giáo chỉ hiện thực tất cả quyền năng của mình ở chỗ chiến thắng sự chết mà thôi, sự chết về thể lý. Đó là lý do Kitô hữu tin tưởng xác thể của con người cuối cùng sẽ sống lại, và biến cố phục sinh này sẽ xẩy ra và chỉ xẩy ra vào ngày tận thế, tức vào ngày Đấng Sáng lập của họ tái giáng trong vinh quang, một cuộc tái giáng chẳng những để phán xét và thưởng phạt toàn thể nhân loại nói chung, mà còn để cứu độ những ai trung thành với Người nói riêng (xem Thư Thánh Phaolô gửi Kitô Hữu Do Thái 9:28). Và, như chính Người đã tỏ cho các môn đệ của Người biết, (xem Phúc Âm Mathêu đoạn 24), trước ngày tận thế, thế giới sẽ lâm vào một tình trạng biến loạn chưa từng thấy từ tạo thiên lập địa tới bấy giờ, cả ở trên trời (như hiện tượng tinh tú trở nên tối tăm), lẫn dưới đất (như xẩy ra động đất), cả ở trong lòng người (băng hoại về luân thường đạo lý), lẫn ở ngoài xã hội (như chiến tranh loạn lạc khắp nơi).
Tuy nhiên, chính lúc lịch sử thế giới và vũ trụ ở vào một mùa đông hết sức lạnh lẽo và tăm tối cho thấy tràn ngập chết chóc như thế lại là lúc xuân sắp tới, một mùa xuân làm cho tất cả mọi sự nên tươi mới thế nào, thì Đấng Phục Sinh đã chiến thắng tội lỗi và sự chết nơi bản tính nhân loại của con người cũng tái giáng trong vinh quang lần thứ hai để canh tân tất cả mọi sự như vậy (xem Khải Huyền 21:5). Phải, chỉ cho đến khi Dự Án Cứu Độ và Công Cuộc Cứu Độ của Thiên Chúa được nên trọn thì bấy giờ Ơn Cứu Độ được ban cho loài người cũng mới hoàn tất. Đó là lý do Kitô hữu coi cuộc sống của mình trên trần gian này là một cuộc hành trình đức tin, một cuộc hành trình sống Ơn Cứu Độ, cho tới khi Ơn Cứu Độ được nên trọn nơi họ nói riêng và trên thế gian nói chung, một Ơn Cứu Độ con người đã được Thiên Chúa Hóa Công hứa ban cho ngay từ ban đầu sau biến cố nguyên tội (xem Sách Sáng Thế Ký 3:15).
Phải, nếu căn nguyên chính khiến con người sa ngã phạm tội ngay từ ban đầu là bởi con người tạo vật tự bản chất bất toàn, không toàn thiện như Thiên Chúa, thì một khi con người có Thần Linh của chính Thiên Chúa, nhờ đó, họ sẽ không thể nào sa ngã phạm tội được (xem Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan 3:9), tức họ sẽ luôn biết được Ngài muốn gì để đáp ứng, như trường hợp của tạo vật thuần túy đầy ơn phúc đẹp lòng Ngài nhất là Trinh Nữ Maria, Mẹ của Đức Giêsu Kitô. Đó là lý do, ngay sau khi Phục Sinh, Đức Giêsu, Đấng mang sứ mệnh đến làm phép rửa cho con người trong Thánh Thần (xem Phúc Âm Marcô 1:8), đã ban cho các môn đệ của Người Thánh Thần tha tội (xem Phúc Âm Gioan 20:22-23), và căn dặn các vị hãy ở lại Giêrusalem chờ đợi cho đến khi được mặc lấy quyền lực từ trên cao (xem Phúc Âm Luca 24:49).
Thế nhưng, tự bản chất hữu hình và hữu hạn của mình, ngay từ ban đầu, dù còn ở trong tình trạng công chính nguyên thủy, nhân tính của con người cũng không thể lãnh nhận tất cả Thần Linh vô cùng thượng trí và toàn năng của Thiên Chúa Tối Cao. Bởi đó, chính Thiên Chúa đã phải Hóa Thân Làm Người, trở thành một con người thực sự, nhưng lại một Con Người Thần Linh, vì Thần Tính của Ngài đã hoàn toàn chiếm hữu nhân tính ngay từ giây phút đầu tiên khi Ngài Nhập Thể trong lòng dạ trinh nguyên của Mẹ Ngài là Đức Maria. Kết quả là, trong mầu nhiệm Ngôi Hiệp, mầu nhiệm hai bản tính được hiệp nhất làm nên một Ngôi Vị duy nhất là Con Người Giêsu Kitô, nhân tính của Con Người Thần Linh này đã trở thành một phương tiện, một Bí Tích thông ban Thần Linh cho loài người, để loài người nhờ đó có thể tin nhận Người, một niềm tin sẽ đạt đến tột đỉnh của mình qua những chứng từ của kẻ tin, những chứng từ sống động phản ảnh Thần Linh, phản ảnh một Đức Giêsu Kitô Tử Giá và Phục Sinh, những chứng từ bởi đó có sức thu phục lòng người, giải phóng con người khỏi quyền lực tối tăm, để con người có thể nhận ra sự thật là Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế Duy Nhất của loài người.
Tóm lại, vấn đề cứu độ nơi Kitô Giáo là như thế này: Con người linh ư vạn vật đã được Thiên Chúa Hóa Công dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa, nhưng họ đã không sống xứng với Danh Phận Thần Linh vô cùng cao trọng này của họ, tức họ đã bị hư đi trong một trạng thái chết chóc về tâm linh, một trạng thái xung khắc được bộc lộ qua cuộc chiến nội tâm trường kỳ hết sức gay go. Thế nhưng, là Đấng Tối Cao, chẳng những Toàn Năng mà còn Toàn Thiện, Thiên Chúa Hóa Công đầy từ bi thương xót đã tự hứa cứu độ họ, và Ngài thực sự đã thực hiện Dự Án Thần Linh này nơi Đức Giêsu Kitô, Vị Thiên Chúa Nhập Thể, Tử Giá và Phục Sinh. Bởi đó, để có thể lãnh nhận Ơn Cứu Độ vô cùng cao cả và khẩn thiết này, trước hết và trên hết, con người cần phải nhìn nhận và chấp nhận Đức Giêsu Kitô, Vị Thiên Chúa Làm Người (xem Phúc Âm Gioan 1:10-11) là Đấng Cứu Thế duy nhất của loài người, một khi họ thấy được những Chứng Từ Thần Linh nơi Giáo Hội Kitô Giáo, những chứng từ được thể hiện sống động và trung thực nhất qua Đức Ái Trọn Hảo (xem Phúc Âm Gioan 13:35) của thành phần mang danh Kitô Hữu. Và lịch sử thế giới trong hai ngàn năm qua hiển nhiên cho thấy nhiều người đã thực sự nhận biết chân lý và trở về với Đấng tự xưng mình “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (xem Phúc Âm Gioan 14:6), nhờ hoạt động bác ái xã hội của Kitô Giáo khắp nơi trên thế giới, và những tranh đấu nhân quyền theo giáo thuyết nhân bản xã hội của Giáo Hội Công Giáo, như được chứng thực nơi vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, những hoạt động và tranh đấu đã và đang đẫm máu tử đạo.
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
|
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |