|
||||
|
||||
THỨ BA 4/3/2008
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI:
Kêu gọi
trả tự do cho vị Tổng Giám Mục Giáo Chủ ở Mossul Iraq
Bí Mật
Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria
Việc Tận Hiến Cách Hoàn Hảo
cho Chúa Giêsu Kitô
2. Việc tôn
sùng này giúp chúng ta noi gương bắt chước Chúa Kitô
Thông
Điệp Thánh Thể
Mầu
Nhiệm Đức Tin
Cuộc Họp Quốc Tế Thứ Hai của
Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập Pháp ở Âu Châu diễn ra tại Vatican ngày
22-24/10/1998
Mối Liên Hệ giữa Bản
Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền Năm 1948 và Hiến Chương Nhân Quyền về Gia Đình
Năm 1983 của Tòa Thánh Rôma”
Hãy Ủng Hộ và Nâng Đỡ Gia Đình
(4.4-4.7)
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Kêu gọi trả tự do cho vị Tổng Giám Mục Giáo Chủ ở Mossul Iraq
Chiều tối ngày Thứ Sáu 29/2/2008, Văn Phòng Báo Chí Tòa Thánh đã phổ biến thông báo sau đây:
“Đức Thánh Cha Biển Đức XVI vừa mới được thông báo về vụ bắt cóc Đức Tổng Giám Mục Paulos Faraj Rahho ở Mossul thuộc lễ nghi Chaldeans, Iraq, một biến cố xẩy ra chiều hôm qua trong một cuộc tấn công sát hại hai cận vệ và tài xế của ngài. Đức Tổng Giám Mục Rahho vừa kết thúc Đường Thánh Giá, một nghi thức tôn giáo rất thân thương với tín hữu ở Iraq. Điều này cho thấy rằng hành động tội ác này đã được mưu tính trước.
“Cảm thấy đau buồn trước hành động tồi bại mới nhất này, một hành động như là một luồng gió mãnh liệt thổi vào toàn thể Giáo Hội ở xứ sở này, nhất là Giáo Hội theo lễ nghi Chaldean, Đức Giáo Hoàng bày tỏ lòng ngài gắn bó với Đức Hồng Y Emmanuel III Delly, vị thượng phụ ở Babylon thuộc lễ nghi Chaldean, cũng như với toàn thể cộng đồng Kitô hữu đang bị đớn đau sâu xé, và với họ hàng thân thuộc của các nạn nhân. Đức Thánh Cha kêu gọi Giáo Hội Hoàn Vũ hãy hợp lời thiết tha nguyện cầu với ngài để xin cho lý trí và lòng nhân đạo tác động nơi thành phần chủ mưu của cuộc bắt cóc ấy và cho Đức Tổng Giám Mục Rahho được trở về với đàn chiên của mình sớm bao nhiêu có thể. Ngài cũng lập lại niềm hy vọng của ngài là mong thấy nhân dân Iraq tái khám phá thấy con đường dẫn đến hòa giải và hòa bình”.
Về phần mình, Đức Hồng Y Leonardo Sandri, tổng trưởng Thánh Bộ Chư Giáo Hội Đông Phương, vị đang viếng thăm Amman, Jordan, đã thiết tha kêu gọi hãy lập tức trả tự do cho vị giáo chủ Iraq này.
Sau Kinh Truyền Tin Chúa Nhật 2/3/2008, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI còn bày tỏ nỗi xúc động của ngài về vụ bắt cóc này như sau:
“Tôi cảm thấy hết sức đau buồn khi theo dõi biến cố bi thảm bắt cóc Đức Ông Paulos Faraj Rahho, Đức Tổng Giám Mục lễ nghi Chaldean ở Mosul Iraq. Tôi xin hiệp lời kêu gọi với đức thượng phụ Hồng Y Emmanuel III Delly và những cộng tác viên của ngài yêu cầu thả ngay vị giáo chủ thân yêu này – vị cũng đang ở trong tình trạng yếu kém về sức khỏe. Tôi cũng dâng lời nguyện cầu cho linh hồn của ba con người trẻ đã đi với ngài và đã bị sát hại vào lúc bắt cóc. Ngoài ra, tôi muốn bày tỏ lòng gắn bó của tôi với toàn thể Giáo Hội ở Iraq, nhất là với Giáo Hội lễ nghi Chaldean, những người một lần nữa lại bị một cú giáng trầm trọng, đồng thời tôi cũng phấn khích tất cả mọi vị mục tử và giáo dân hãy mạnh mẽ và vững vàng trong cậy trông. Chờ gì các nỗ lực của những ai kiểm soát số mệnh của nhân dân Iraq gia tăng, để, nhờ việc quyết tâm và khôn ngoan của tất cả mọi người, nhân dân này có thể tìm thấy lại hòa bình và an ninh, cùng với một tương lai mà quyền lợi của họ không bị hủy hoại”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo VIS ngày 3/3/2008 và Zenit ngày 2/3/2008
Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria
Nguyên Tác của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort) Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Phần Hai: Việc Trọn Hảo Sùng Kính Đức Mẹ
Chương Thứ Ba: Việc Tận Hiến Cách Hoàn Hảo cho Chúa Giêsu Kitô
3. Việc tôn sùng này chiếm được nhiều phúc lành từ Đức Mẹ
144. Đức Trinh Nữ, một người mẹ diụ hiền và xót thương, không bao giờ để cho mình thua kém về lòng yêu thương và quảng đại. Khi Mẹ thấy một ai đó hoàn toàn hiến mình cho Mẹ để kính tôn và phục vụ Mẹ, và tước lột mình khỏi những gì được họ trân quí nhất để trang điểm cho Mẹ, thì Mẹ hoàn toàn ban mình cho họ một cách lạ lùng. Mẹ nhận chìm họ vào đại dương các ân sủng của Mẹ, trang điểm họ bằng công nghiệp của Mẹ, nâng đỡ họ bằng quyền năng của Mẹ, dẫn dắt họ bằng ánh sáng của Mẹ, và làm cho họ được tràn đầy tình yêu của Mẹ. Mẹ chia sẻ các nhân đức của Mẹ với họ – đức khiêm nhượng của Mẹ, đức tin, đức tinh tuyền v.v. Mẹ bù đắp những sai sót của họ và làm đại diện cho họ trước Chúa Giêsu. Như người tận hiến hoàn toàn thuộc về Mẹ Maria thế nào thì Mẹ Maria cũng hoàn toàn thuộc về con người này như thế. Chúng ta có thể tin tưởng nói rằng người tôi tớ hoàn hảo và là người con này của Mẹ Maria những gì Thánh Gioan đã nói về mình trong Phúc Âm là “Ngài đem Mẹ về nhà mình”.
145. Tình trạng này làm phát sinh nơi linh hồn của họ, nếu họ kiên trì, một niềm bất tín sâu xa, coi thường và ghét bỏ bản thân, và sâu xa tin tưởng vào Mẹ Maria bằng việc hoàn toàn phó mình cho Mẹ. Họ không còn cậy dựa vào những khả năng riêng của mình, những ý hướng, công nghiệp, nhân đức và việc lành của họ nữa, vì họ đã hoàn toàn hy sinh cho Chúa Giêsu qua người Mẹ yêu dấu của Người. Giờ đây họ chỉ còn một kho tàng duy nhất là nơi chất chứa tất cả mọi thứ giầu sang của họ. Kho tàng này không phải ở trong bản thân họ mà là Mẹ Maria. Đó là lý do tại sao bấy giờ họ có thể đến với Chúa mà không còn cảm thấy bất cứ một nỗi hãi sợ tôi đòi và rụt rè nhút nhát nào nữa, và hết sức tin tưởng nguyện cầu cùng Người. Họ cũng có cùng những cảm thức với vị Đan Viện Phụ Rupert đạo hạnh và thức giả, vị , khi đề cập tới việc Giacóp chiến thắng thiên thần, đã thân thưa cùng Đức Mẹ những lời lẽ này: “Ôi Maria, Nữ Vương của con, Người Mẹ Vô Nhiễm của Vị Thiên Chúa Làm Người Giêsu Kitô, con muốn vật lộn với Con Người là Lời Thần Linh này, khi được trang bị bằng những công lênh sự nghiệp của Mẹ chứ không phải của riêng con”.
Mạnh mẽ nhiều biết mấy và có thế hơn biết bao trong việc chúng ta tiến đến với Chúa của chúng ta, khi chúng ta được trang bị bằng những công nghiệp và lời nguyện cầu của Người Mẹ xứng đáng của Thiên Chúa, Vị mà, như Thánh Âu Quốc Tinh nói, đã chiến thắng Đấng Toàn Năng bằng tình yêu của Mẹ! (còn tiếp)
Thông Điệp Thánh Thể
Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/encyclicals/documents/hf_jp-ii_enc_17042003_ecclesia-de-eucharistia_en.html
11. “Chúa Giêsu vào đêm Người bị phản nộp” (1Cor 11:23) đã thiết lập Hy Tế Thánh Thể mình máu của Người. Nhũng lời của Thánh Tông Đồ Phaolô mang chúng ta trở về với thảm cảnh hạ sinh Thánh Thể. Thánh Thể được đánh dấu bất khả phai mờ bằng biến cố khổ nạn và tử nạn của Chúa Kitô, nhờ đó Thánh Thể chẳng những là một sự nhắc nhở mà còn là một tái hiện thực về bí tích nữa. Chính hy tế Thập Giá đã được kéo dài qua các thế kỷ (9). Chân lý này được diễn tả rõ ràng nơi những lời cộng đồng theo lễ nghi Latinh đáp lời công bố “Mầu Nhiệm Đức Tin” của vị linh mục, đó là “Ôi Chúa, chúng tôi loan truyền việc Chúa chịu chết”. Giáo Hội đã lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể từ Đức Kitô là Chúa của mình, không phải như là một tặng ân duy nhất, cho dù quí báu đến đâu chăng nữa, trong số nhiều tặng ân khác, mà là một tặng ân tuyệt hạng, vì đó là tặng ân chính bản thân Người, tằng ân ngôi vị của Người nơi nhân tính linh thánh của Người, cũng như tặng ân công cuộc cứu độ của Người. Tặng ân này cũng không chỉ giới hạn trong quá khứ, vì “tất cả những gì Chúa Kitô là – tất cả những gì Chúa Kitô làm và chịu vì toàn thể con người – đều tham dự vào sự vĩnh hằng thần linh, do đó siêu việt qua tất cả mọi thời đại” (10) Khi Giáo Hội cử hành Thánh Thể, cuộc tưởng niệm việc Chúa chịu chết và sống lại, thì biến cố cứu độ trọng yếu này trở nên hiện tại thực sự và “công cuộc cứu chuộc của chúng ta được thể hiện” (11). Hy tế này quyết liệt cho phần rỗi loài người đến nỗi Chúa Giêsu Kitô đã hiến dâng hy tế này và về cùng Cha chỉ sau khi Người đã để lại cho chúng ta phương tiện để chia sẻ vào hy tế ấy như thể chúng ta đã hiện diện ở đó bấy giờ. Mỗi một phần tử tín hữu đều có thể tham dự vào hy tế này và hái được vô tận hoa trái của hy tế ấy. Đó là niềm tin đã làm cho các thế hệ Kitô hữu sống động qua các thế hệ. Huấn Quyền của Giáo Hội đã liên lỉ tái xác định niềm tin này với một tấm lòng hân hoan tri ân về tặng ân vô giá này (12). Một lần nữa Tôi muốn nhắc lại sự thật ấy và muốn hợp với anh chị em, hỡi anh chị em thân mến, để tôn thờ trước mầu nhiệm này, một mầu nhiệm cao cả, một mầu nhiệm tình thương. Chúa Giêsu còn có thể làm gì cho chúng ta hơn được nữa đây? Thật vậy, nơi Thánh Thể, Người tỏ cho chúng ta thấy một tình yêu “đến cùng” (x Jn 13:1), một tình yêu vô hạn (còn tiếp)
Cuộc Họp Quốc Tế Thứ Hai của Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập Pháp ở Âu Châu diễn ra tại Vatican ngày 22-24/10/1998
“Mối Liên Hệ giữa Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền Năm 1948 và Hiến Chương Nhân Quyền về Gia Đình Năm 1983 của Tòa Thánh Rôma”
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
Hãy Ủng Hộ và Nâng Đỡ Gia Đình
4.4 "Gia đình có 'trước' Chính Quyền và cần thiết hơn chính quyền, như Arsitote nói (Nicomachean Ethics, III, 12, 18). Gia đình 'trước hết... muốn căn tính của mình được nhìn nhận và muốn vị trí là chủ thể của nó trong xã hội phải được chấp nhận', nó là 'một chủ thể hơn bất cứ một cơ cấu tổ chức xã hội nào khác', như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhấn mạnh trong Bức Thư gửi Các Gia Đình, Gratissimam sane (các đoạn 15 và 17). Điều này có nghĩa là phải tôn trọng quyền tự quyết và ngay cả 'chủ quyền' của gia đình.
4.5 "Những mối liên hệ giữa gia đình và xã hội phải được dựa vào việc tôn trọng nguyên tắc phụ thuộc. Thật vậy, gia đình là nguồn mạch tự nhiên cho việc giáo dục và phát triển nhân bản. Gia đình là một cơ cấu có khả năng đào luyện con người trọn vẹn và làm cho họ phát triển về nhân tính. Hơn nữa, gia đình còn cung cấp việc chăm sóc và tình trạng an toàn cho những phần tử yếu hèn nhất trong xã hội, như trẻ em, người già, người tật nguyền và người yếu bệnh kinh niên. Gia đình bảo vệ những ai bị tổn thương nhất vì cuộc sống bơ vơ lạc lõng ngoài lề xã hội.
4.6 "Pháp luật và qui chế của xã hội cần phải bảo vệ vai trò của các người mẹ. Nữ giới phải được tự do trong phận sự làm mẹ và không bị áp lực kinh tế hay xã hội bó buộc phải làm việc ở ngoài nhà. Làm việc ở nhà cũng phải được công nhận như là một hoạt động kinh tế thực sự và thiết yếu góp phần vào các phúc lợi. Chúng tôi hoan hô những chính trị gia và các nhà lập pháp Âu Châu đã tranh đấu để cổ võ quyền lợi cho vai trò làm mẹ, bằng những luật pháp chính đáng cũng như bằng qui chế xã hội tốt lành. Chúng tôi kêu gọi tất cả đồng nghiệp của chúng tôi hãy cùng nhau cứu xét những gì có thể thực hiện để tạo điều kiện cho nữ giới thi hành công việc đào luyện thế hệ tương lai không thể châm chước của họ, mà không ngăn trở việc họ tham dự một cách bình đẳng vào sinh hoạt xã hội, trong công xưởng hay trên chính trường.
4.7 "Những sự kiện cho thấy việc khủng hoảng về dân số đang tác dụng trên Âu Châu ngày nay. Mức độ thụ thai thấp hơn mức độ bù trừ ở nhiều xứ sở khác nhau, đang làm giới già tăng lên nhanh chóng, sẽ gây ra những nạn xã hội và kinh tế trong tương lai. Nếu trẻ em là kho tàng của các quốc gia thì Âu Châu ngày nay đang bị nghèo nàn hết cỡ! Cần phải tăng thêm lòng tin tưởng vào tương lai và việc đầu tư vào các thế hệ mai sau phải được thế chỗ cho việc tìm kiếm vị kỷ, tìm kiếm những lợi lộc ngắn hạn. Gia đình là một yếu tố quan trọng nhất cho việc phát triển sau này, vì nó là một cộng đồng, nơi sản xuất ra vốn liếng nhân bản về tất cả mọi chiều kích của nó. Cần phải tu chính luật pháp nào không hỗ trợ hôn nhân và việc sinh sản hữu trách qua việc hỗ trợ nuôi con tại gia. Cần phải thay đổi luật thu thuế không thuận lợi cho các đôi vợ chồng có con cái.
(còn tiếp)
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
||||
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |