Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC”
1.- “Totus Tuus”: Nguồn Gốc
THỨ BA 1/4/2008
Tuần Tưởng Niệm Đại Giáo Hoàng Gioan Phaolô II băng hà 3 năm 2/4/2005-2008
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
ĐTC Gioan Phaolo II
với
Thông Điệp Đấng
Cứu Chuộc Nhân Trần “Redemptor Hominis” Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC” 1.- “Totus Tuus”: Nguồn Gốc Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG CỦA “ĐẤNG CỨU CHUỘC NHÂN TRẦN” 1) Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần chi phối Hoạt Động cả giáo triều của Đức Gioan Phaolô II Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG “VUI MỪNG VÀ HY VỌNG” - “ĐỪNG SỢ” 1) Con Người Hiện Đại - tại sao cảm thấy lo âu sợ hãi?
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, phân tích và tuyển dịch
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II với
Thông Điệp Đấng Cứu
Chuộc Nhân Trần “Redemptor Hominis”
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC” 1.- “Totus Tuus”: Nguồn Gốc
Nếu Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lõi của Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II, trước hết, được chứng thực nơi Thông Điệp “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” là những gì liên quan trực tiếp đến Tác Nhân Cứu Chuộc, và sau nữa, được chứng thực nơi lời kêu gọi thế giới loài người tân tiến hiện đại, đối tượng thụ nhân của Mầu Nhiệm Cứu Chuộc, “Đừng sợ, hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô”, vào chính Lễ Đăng Quang mở màn cho giáo triều của ngài, thì, sau hết, còn được chứng thực qua đường lối cứu chuộc thời đại nữa, đó là Đường Lối Maria, Mẹ Đấng Cứu Chuộc, Vị được ngài hết lòng tin tưởng và liên lỉ cậy trông, bằng việc tận hiến cho Mẹ, với tâm niệm “totus tuus – tất cả của con là của Mẹ (hay) con hoàn toàn thuộc về Mẹ”.
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Đức Gioan Phaolô II đã chọn khẩu hiệu “totus tuus” mà không chọn một khẩu hiệu khác về Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần? Ngài có thực sự sống “totus tuus” này hay chăng hay chỉ là những gì hữu danh vô thực?? Và đâu là những tác hiệu của “totus tuus” đối với vị Giáo Hoàng này và từ vị Giáo Hoàng này???
1.- “Totus Tuus”: Nguồn Gốc
Như vị đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI, có lúc bản thân đã đặt vấn đề về Thánh Mẫu (xem The Ratzinger Report, ấn bản Anh Ngữ, trang 105), Đức Gioan Phaolô II cũng thú nhận là thoạt tiên ngài cũng cảm thấy không nên tôn sùng Đức Mẹ lắm kẻo làm giảm vị thế của Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần của ngài, nhưng sau đó, nhờ Thánh Long Mộng Phố (Louis de Montfort), qua cuốn “Luận về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria” của Thánh nhân, ngài chẳng những vỡ lẽ về Thánh Mẫu, mà còn dứt khoát chọn sống khẩu hiệu “totus tuus” từ đó cho tới khi làm Giáo Hoàng và cho tới chết, như chính ngài đã chia sẻ trong 2 tác phẩm thời danh của ngài là cuốn “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” và cuốn “Tặng Ân Và Mầu Nhiệm”.
· Trong tác phẩm “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” (ấn bản Anh Ngữ, 1994, trang 212-215), ngài cho biết:
“Totus Tuus. Câu này chẳng những là một lời diễn đạt của lòng thảo hiếu, hay đơn giản hơn là một lời diễn đạt của lòng tôn sùng. Mà còn hơn thế nữa kìa. Trong thời Thế Chiến Thứ Hai, vào lúc tôi đang làm công cho một xí nghiệp thì tôi đã được lòng tôn sùng Thánh Mẫu thu hút. Thoạt tiên, dường như tôi cảm thấy cần phải lơ là một chút với lòng tôn sùng Thánh Mẫu ở thuở niên thiếu, hầu chuyên chú tới Chúa Kitô hơn. Nhờ Thánh Long Mộng Phố, tôi đã hiểu được rằng lòng thành thực sùng kính Người Mẹ của Thiên Chúa là việc thực sự qui về Chúa Kitô, thật sự nó được bắt nguồn sâu xa nơi Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, cũng như nơi những mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc.
“Bởi thế, bấy giờ tôi đã tái khám phá ra lòng thảo hiếu Thánh Mẫu một kiến thức sâu xa hơn. Hình thức chín chắn của việc tôn sùng Người Mẹ của Thiên Chúa này đã tồn tại nơi tôi qua năm tháng, sinh hoa kết trái nơi các văn kiện Redemptor Mater – Mẹ Đấng Cứu Chuộc (Biệt chú của người dịch: Bức Thông Điệp thứ 6 này được ban hành ngày Lễ Mẹ Thai Lời 25/3/1987, sau Thông Điệp thứ 5 về Chúa Thánh Thần ngày Lễ Hiện Xuống 18/5/1986) và Mulieris Dignitatem – Phẩm Vị của Nữ Giới (Biệt chú của người dịch: Bức Tông Thư này được ban hành ngày Lễ Mẹ Mông Triệu 15/8/1988)….
“Khi tôi tham dự Công Đồng, tôi thấy phản ảnh nơi chương này (biệt chú, như ĐTC nói đến ngay trước đó là Chương Tám của Hiến Chế Tín Lỳ về Giáo Hội “Ánh Sáng Muôn Dân” là chương giành riêng bàn về Đức Mẹ), tất cả những cảm nghiệm thời niên thiếu của tôi, cũng như những liên kết đặc biệt tiếp tục nối thắt tôi với Người Mẹ Thiên Chúa nơi những cách thức luôn mới mẻ.
“Cách đầu tiên – và là cách lâu đời nhất – gắn liền với tất cả thời gian tôi còn nhỏ, thời tôi đã dừng chân đứng lại trước ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở nhà thờ giáo xứ Wadowice. Nó liên quan tới tập tục áo Đức Bà Carmêlô, phong phú về ý nghĩa và về biểu hiệu, những gì tôi đã biết từ khi còn trẻ nhờ đan viện Carmelo ‘ở trên đồi’ nơi tỉnh lỵ tôi ở. Nó còn gắn liền với truyền thống thực hiện hành hương tới Đền Kalwaria Zebrzydowska, một trong những địa điểm thu hút nhiều phái đoàn hành hương, nhất là từ miền nam Balan và từ cả ngoài dãy Núi Carpathia. Đền Thánh địa phương này là nơi đáng chú ý, vì nó chẳng những có tính cách Thánh Mẫu mà còn hoàn toàn tập trung vào Chúa Kitô nữa…
“Từ những năm thơ trẻ nhất của mình, việc tôn sùng của tôi đối với Mẹ Maria đã được liên kết chặt chẽ với đức tin của tôi nơi Chúa Kitô. Đền Kalwaria đã giúp tôi rất nhiều về điều này…
“Một chương khác nơi đời sống của tôi là Jasna Góra, với bức ảnh Hắc Đức Nữ …. (biệt chú: đoạn này được ngài làm sáng tỏ ở phần “Totus Tuus: Chủ Đích” cuối cùng sẽ được trích dẫn dưới đây)
“Tôi nghĩ rằng những gì tôi đã nói đủ để cắt nghĩa về lòng tôn sùng Thánh Mẫu của vị Giáo Hoàng này, và nhất là về thái độ ngài hoàn toàn phó mình cho Mẹ Maria – Totus Tuus của ngài”.
· Trong cuốn “Tặng Ân Và Mầu Nhiệm” (ấn bản Anh Ngữ, 1996, trang 28-30), ngài tự thuật rằng:
“Khi tôi còn ở Cracow, Debniki, tôi đã gia nhập nhóm ‘Kinh Mân Côi Sống’ thuộc giáo xứ Thánh Salesiô. Tại đây, đặc biệt là lòng tôn sùng Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu. Ở Debrini, ở vào lúc ơn gọi linh mục đang triển nở trong tôi, thì như tôi đã đề cập tới, chịu ảnh hưởng của Jan Tyranowski, tôi đã đổi thay việc hiểu biết của mình về lòng tôn sùng Người Mẹ của Thiên Chúa. Tôi vốn đã thâm tín rằng Mẹ Maria là vị dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô, thế nhưng, vào lúc ấy, tôi cũng bắt đầu nhận thấy rằng Chúa Kitô dẫn chúng ta tới với Mẹ của Người nữa. Có dạo tôi đã bắt đầu đặt vấn đề về lòng tôn sùng Mẹ Maria, với ý nghĩ rằng, nếu lòng tôn sùng này trở nên quá trớn thì có thể dẫn tới chỗ làm loãng đi tính cách thượng tôn của việc tôn thờ giành cho Chúa Kitô. Bấy giờ, tôi đã được trợ giúp rất nhiều bởi một tác phẩm của Thánh Louis Marie Grignion de Montfort mang tên Luận về Lòng Thành Thực Sùng Kính Đức Trinh Nữ. Ở đó, tôi đã tìm thấy những giải đáp cho các vấn nạn của tôi. Phải, Mẹ Maria thực sự mang chúng ta lại gần hơn với Chúa Kitô; Mẹ thực sự dẫn chúng ta tới với Người, nếu chúng ta sống mầu nhiệm của Mẹ trong Chúa Kitô. Luận phẩm này của Thánh Louis Marie Grignion de Montfort có thể là một cái gì hơi chướng, vì kiểu cách đánh bóng và kỳ dị của nó, thế nhưng, không thể chối cãi được rằng nó chất chứa những chân lý thần học thiết yếu. Tác giả là một thần học gia nổi tiếng. Tư tưởng về khoa Thánh Mẫu Học của ngài được bắt nguồn từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi cũng như mầu nhiệm Nhập Thể của Lời Thiên Chúa…
“Đây là nguồn gốc của khẩu hiệu Totus Tuus. Câu này xuất phát từ Thánh Louis Marie Grignion de Montfort. Nó là hai chữ viết tắt của toàn thể mẫu tận hiến cho Mẹ Thiên Chúa như thế này: Totus Tuus ego sum et omnia mea Tua sunt. Accipio Te in mea omnia. Praebe mihi Tuum, Maria.
“Bởi thế, nhờ Thánh Louis, tôi đã bắt đầu khám phá ra những kho tàng dồi dào của lòng tôn sùng Thánh Mẫu theo các quan điểm mới…”
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
VỊ GIÁO HOÀNG CỦA “ĐẤNG CỨU CHUỘC NHÂN TRẦN”
1) Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần chi phối Hoạt Động cả giáo triều của Đức Gioan Phaolô II
“Sự thật về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc và Đấng Cứu Chuộc” nơi Đức Gioan Phaolô II
Có thể nói mà không sợ sai lầm rằng, căn cứ vào những chủ hướng minh nhiên và hoạt động hiển nhiên trong một thời gian dài 26 năm rưỡi của mình, một thời gian kéo dài đứng vào hàng thứ 3 của lịch sử Giáo Hội Công Giáo, thì cốt lõi của giáo triều Đức Gioan Phaolô II chính là Mầu Nhiệm Cứu Chuộc.
Phải chăng chính Đức Gioan Phaolô II đã chính thức xác nhận điều này khi ngài tự thú trong tác phẩm “Tặng Ân và Mầu Nhiệm – Gift and Mystery” (ấn bản Anh Ngữ 1996), một tác phẩm được xuất bản để mừng kỷ niệm 50 năm thụ phong linh mục của ngài, (ở trang 82) như sau:
“Chúa Kitô là một vị linh mục vì Người là Đấng Cứu Chuộc của thế giới. Chức linh mục của tất cả thành phần giáo sĩ thuộc về mầu nhiệm Cứu Chuộc. Sự thật này về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc và Đấng Cứu Chuộc đã từng là những gì trọng yếu đối với tôi; sự thật ấy đã luôn tồn tại trong tôi qua tất cả những năm tháng ấy, nó đã thấm nhập vào tất cả mọi kinh nghiệm mục vụ của tôi, và nó đã tiếp tục cho tôi thấy những điều phong phú mới mẻ.
“Trong 50 năm làm linh mục này, tôi đã nhận thức được rằng, Việc Cứu Chuộc, cái giá phải trả cho tội lỗi, bao gồm cả một thứ phục hồi mới, một loại ‘tân tạo’ nơi toàn thể lãnh vực tạo sinh, ở chỗ, nó là những gì tái phục hồi con người là một ngôi vị, phục hồi con người được Thiên Chúa dựng nên có nam có nữ, một phục hồi của chân lý sâu xa nhất về tất cả mọi hoạt động của con người, về văn hóa và văn minh của con người, về tất cả những gì họ chiếm đạt cùng với các khả năng sáng tạo của họ.
“Sau khi tôi được bầu làm Giáo Hoàng, cái động lực thiêng liêng đầu tiên tôi cảm thấy đó là hướng về Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc. Đó là nguồn gốc của bức Thông Điệp ‘Redemptor Hominis – Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần’”. Như tôi đã chia sẻ về tất cả những biến cố này, tôi thấy rõ hơn bao giờ hết cái liên hệ chặt chẽ giữa sứ điệp của bức Thông Điệp này với hết mọi sự ở trong tâm can của con người qua việc họ được thông dự vào chức linh mục của Chúa Kitô”.
Thật vậy, nếu Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là những gì trực tiếp liên quan đến Tác Nhân Cứu Chuộc là chính Đấng Cứu Chuộc, đến đối tượng được cứu chuộc cho khỏi tội lỗi và sự dữ nhất là trong thời điểm văn hóa sự chết ngày nay là con người hiện đại, và đến đường lối cứu chuộc hiện đại là Người Mẹ của Đấng Cứu Chuộc, thì quả nhiên “Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lõi của Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II”.
Đúng thế, Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần chính là Đấng đã chi phối cả giáo triều của Đức Gioan Phaolô II, từ đầu cho đến cuối, cả về lãnh vực hoạt động lẫn tâm tưởng của ngài.
1) Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần chi phối Hoạt Động cả giáo triều của Đức Gioan Phaolô II
Trước hết, để mở màn, cho giáo triều của mình, Đức Gioan Phaolô II đã chính thức ban hành bức thông điệp gói ghém tất cả chủ hướng của giáo triều mình vào ngày Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay 4/3/1979, với tựa đề “Redemptor Hominis - Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”.
Sau hết, để kết thúc cho giáo triều của mình, ngài đã mở Năm Thánh Thể, năm hướng về, nhận biết và cử hành Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, Đấng vẫn còn hiện diện trên trần gian qua Bí Tích Thánh Thể và vẫn tiếp tục công cuộc cứu chuộc nhân trần qua Phụng Vụ Thánh Thể.
Trong giáo triều của mình, Đức Gioan Phaolô II còn mở Năm Cứu Chuộc 1983-1984, mừng 1950 năm Ơn Cứu Chuộc, một năm được kết thúc vào ngày Lễ Mẹ Thai Lời 25/3/1984, với việc Ngài hiến dâng chung thế giới và riêng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Đấng Cứu Chuộc.
Nhưng biến cố quan trọng nhất đó là ngài đã mở Đại Năm Thánh 2000 để toàn thể Giáo Hội hoàn vũ long trọng mừng Mầu Nhiệm Giáng Sinh của Lời Nhập Thể là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, một Đại Năm Thánh đã được ngài hướng về ngay từ đầu giáo triều của ngài, như chính ngài đã đề cập tới ở đoạn đầu bức Thông Điệp “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” của ngài, một thời điểm kéo dài cả 21 năm nữa trời (1979-2000), không biết ngài có còn sống tới đó hay chăng.
Để sửa soạn cho Đại Năm Thánh 2000 được tổ chức một cách trọng thể vô tiền (có thể nói cả khoáng hậu) này, ngài đã chẳng những ban hành vào ngày 10/11/1994 bức Tông Thư “Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba – Tertio Millennio Adveniente” để phác họa chương trình sửa soạn xa (1994-1996) và gần (1997-1999), mà còn triệu tập các cuộc Thượng Nghị Châu Lục về những chủ đề liên quan đến Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần:
Thượng Nghị Giám Mục Phi Châu, với 242 vị nghị phu, nhóm họp tại Rôma trong thời khoảngï 10/4-8/5/1994, về chủ đề "Giáo Hội ở Phi Châu với sứ mệnh truyền bá Phúc Âm hướng về năm 2000: 'Các con sẽ là nhân chứng của Thày'", một chủ đề đã được ngài đúc kết trong tông huấn “Ecclesia in Africa – Giáo Hội ở Phi Châu” ban hành ngày 14-9-1995, tại Yaoundé nước Cameroon;
Thượng Nghị Giám Mục Mỹ Châu, với 233 vị nghị phụ, nhóm họp tại Rôma trong thời khoảng 16/11-12/12/1997, với chủ đề "Gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô hằng sống: Con đường dẫn đến Hối Cải, Hiệp Thông và Đoàn Kết", một chủ đề đã được ngài đúc kết trong tông huấn “Giáo Hội ở Mỹ Châu - Ecclesia in America” ban hành dịp ngài thăm Mỹ Châu, tại Mexicô City ngày 22-1-1999;
Thượng Nghị Giám Mục Á Châu, với 191 vị nghị phụ, nhóm họp tại Rôma trong thời khoảng 19/4-14/5/1998, với chủ đề "Chúa Giêsu Kitô Cứu Thế với Sứ Mệnh Yêu Thương và Phục Vụ của Người ở Á Châu", một chủ đề được ngài đúc kết trong tông huấn “Giáo Hội ở Á Châu - Ecclesia in Asia” ban hành ngày 6/11/1999, dịp ngài thăm Á Châu ở Tân Đề Li Ấn Độ;
Thượng Nghị Giám Mục Đại Dương Châu, với 117 vị nghị phụ, nhóm họp tại Rôma trong thời khoảng 23/11-12/12/1998, với chủ đề "Chúa Giêsu Kitô và nhân dân Đại Dương Châu - 'Đi Con Đường của Người, nói Sự Thật của Người và sống Sự Sống của Người'", một chủ đề được ngài đúc kết trong tông huấn “Giáo Hội tại Đại Dương Châu - Ecclesia in Oceania” ban hành ngày 22/11/2001, và được ngài, lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, ban hành và gửi đi bằng hệ thống điện toán toàn cầu cho tất cả mọi giáo phận địa phương thuộc châu lục này.
Thượng Nghị Giám Mục Âu Châu, với 117 vị nghị phụ, nhóm họp lần thứ hai, (lần nhất với 137 vị, vào thời điểm sau Biến Cố Đông Âu 1989, trong thời khoảng 28/11-14/12/1991, ngay trước Biến Cố Nước Nga từ bỏ chủ nghĩa và chế độ Cộng Sản 25/12/1991), vào thời khoảng 1-23/10/1999 tại Rôma, với chủ đề "Chúa Giêsu Kitô vẫn sống nơi Giáo Hội, Nguồn Mạch Hy Vọng cho Châu Âu", một chủ đề được ngài đúc kết trong tông huấn “Giáo Hội tại Âu Châu - Ecclesia in Europe” ban hành ngày 28/6/2003.
Để kết thúc Đại Năm Thánh 2000 cũng là để mở màn cho một tân thiên kỷ thứ ba Kitô Giáo, Đức Gioan Phaolô II đã ban hành bức Tông Thư “Mở Màn Cho Một Tân Thiên Kỷ – Novo Millennio Ineunte” vào chính ngày Lễ Hiển Linh 6/1/2001, trong đó, ngài nhấn mạnh đến chủ đề “Duc in altum – Hãy ra chỗ nước sâu thả lưới đánh cá”, ở chỗ, (phần 1) gặp gỡ Chúa Kitô (trong năm Thánh 2000); (phần 2) chiêm ngưỡng Dung Nhan Chúa Kitô; (phần 3) bắt đầu lại từ Chúa Kitô; (phần 4) Chứng nhân tình yêu.
Sau hết, để kết thúc giáo triều của mình, (một kết thúc chính ngài cũng không biết sẽ xẩy ra thế nào và bao giờ), ngài đã mở Năm Thánh Thể và ban hành bức Thông Điệp thứ 14, bức thông điệp cuối cùng về Chúa Kitô. Cái trùng hợp ở đây là, trong 14 bức Thông Điệp là các văn kiện có tầm vóc quan trọng vào bậc nhất của thẩm quyền Giáo Hoàng, hai văn kiện đầu và cuối của ngài đều về Chúa Kitô: Nếu bức Thông Điệp thứ nhất về Chúa Kitô, “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần – Redemptor Hominis”, có liên quan tới toàn thể nhân loại, thì bức Thông Điệp thứ 14 về Chúa Kitô có liên quan tới Giáo Hội, tới việc nội bộ Giáo Hội cần phải “duc in altum” để có thể truyền bá phúc âm hóa thế giới tân tiến. Đó là lý do bức Thông Điệp cuối cùng về Chúa Kitô này mới mang tựa đề “Giáo Hội Sống Bởi Thánh Thể – Ecclesia de Eucharistia”.
Trên đây là những chứng cớ hiển nhiên cho thấy Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lõi của Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II, một mầu nhiệm, trước hết, liên quan trực tiếp tới tác nhân cứu chuộc là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, Đấng đã chi phối toàn thể hoạt động của giáo triều của vị giáo hoàng thứ 264 này. Sau đây là những tâm tưởng và thâm tín của vị giáo hoàng này về Chúa Giêsu Kitô, những gì được ngài bày tỏ trong 2 văn kiện tiêu biểu Người nói rõ ràng đến chủ đề Mầu Nhiệm Cứu Chuộc của ngài, đó là Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần và Tông Thư Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba.
(Những chỗ in nghiêng và đậm trong phần trích dịch và trích dẫn ở toàn bài viết này là do người dịch muốn nhấn mạnh đến chủ trương cứu chuộc và ý nghĩa cứu chuộc của vị Giáo Hoàng luôn qui hướng về Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG “VUI MỪNG VÀ HY VỌNG” - “ĐỪNG SỢ”
1) Con Người Hiện Đại - tại sao cảm thấy lo âu sợ hãi?
Nếu Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lõi của Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II, và nếu đối với Tác Nhân của Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Đấng đã được ngài tuyên xưng và loan báo, qua bức Thông Điệp đầu tiên cho thấy tất cả chủ hướng giáo triều của ngài, là “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần – Redemptor Hominis”, thì, đối với Thụ Nhân của Mầu Nhiệm Cứu Chuộc này là con người, nhất là thành phần thế hệ nhân loại thuộc thời tân tiến hiện đại (có thể nói kể từ thập niên 1960 của Công Đồng Chung Vaticanô II) cần đến Ơn Cứu Chuộc hơn bao giờ hết, mà ngay trong Lễ Đăng Quang của mình được cử hành vào Chúa Nhật 22/10/1979, ngài đã mạnh mẽ lên tiếng, vừa để trấn an vừa để kêu gọi, với chung thế giới rằng: “Đừng sợ, hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô”.
Tại sao con người tân tiến, chẳng những về nhân bản, với Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền được Tổ Chức Liên Hiệp Quốc ban hành ngày 10/12/1948, mà còn về cả khoa học và kỹ thuật nữa, bắt đầu từ thập niên 1960, với những chuyến thám hiểm không gian đầu tiên (Nga 1961, Mỹ 1962, tới Cung Trăng 1969), mà theo vị Giáo Hoàng là tiêu biểu cho Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Tân Tiến mang tựa đề “Vui Mừng và Hy Vọng” này, lại nhận thấy họ cảm thấy đang lo âu sợ hãi? Họ đã tỏ ra lo âu sợ hãi những gì và ra sao?? Và làm sao họ mới có thể được cứu khỏi sự dữ bất an mà an tâm vui sống???
1) Con Người Hiện Đại - tại sao cảm thấy lo âu sợ hãi?
Loài người ở vào giữa thời của bức Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần với thời của đầu thiên kỷ thứ ba chẳng những không khá hơn mà còn càng ngày càng tệ hơn nữa, càng nguy vong hơn nữa.
Trước mắt của vị giáo hoàng mới đăng quang được gần 5 tháng (22/10/1978-4/3/1979), khi ngài ban hành bức thông điệp đầu tay của ngài, thế giới hiện lên như sau:
"Con người ngày nay hình như chưa bao giờ bị đe dọa bởi cái họ làm ra như vậy, nghĩa là từ thành quả của việc do bàn tay họ làm, và còn hơn thế nữa, của công việc do lý trí con người nghĩ ra cũng như của những khuynh hướng do ý con người muốn. Tất cả những gì do hoạt động đa diện này của con người sản xuất ra, thường bằng một đường lối không thể nào thấy trước được, rất là nhanh chóng, chẳng những nó gây nên 'sự tách biệt', ở chỗ nó thường lấy đi khỏi con người là tác nhân sản xuất ra chúng, mà hơn thế nữa, nó còn trở mặt phản lại chính con người, ít là một phần nào đó, qua những hậu quả gián tiếp nó tác dụng khi trả về cho họ. Nó được và có thể được nhắm thẳng vào con người. Điều này có thể tạo nên một màn thảm kịch chính yếu cho việc hiện hữu của con người ngày nay trong một chiều kích rộng nhất và phổ quát của nó. Bởi thế, con người đang sống trong nỗi sợ hãi gia tăng. Họ sợ cái họ sản xuất ra - dĩ nhiên không phải là tất cả những cái ấy, hay hầu hết những thứ ấy, nhưng là một phần của nó, đích xác hơn là cái phần chứa đựng một thừa hưởng đặc biệt bởi tài năng và sự sáng tạo của họ - có thể phản lại chính họ tận gốc rễ; họ sợ rằng nó có thể trở thành phương tiện và dụng cụ cho một cuộc tự diệt không thể nào tưởng tượng nổi, so với tất cả những hủy hoại dữ dội và những hủy diệt bất ngờ trong lịch sử mà chúng ta biết đến thì chỉ là một bóng mờ. Điều này gợi lên một vấn đề là: Tại sao quyền năng được ban cho con người từ ban đầu để họ làm chủ trái đất (cf. Gen 1:28) lại quay ra chống lại họ, gây ra một tình trạng bất an không sao hiểu được, một nỗi sợ hãi ý thức hay vô thức, cũng như một mối nguy hiểm, mà qua những cách thức khác nhau, được truyền lan đến cả gia đình nhân loại ngày nay, và đang thể hiện dưới những phương diện khác nhau?...” (khoản số 15)
"Bởi thế, nếu trong thời điểm của chúng ta, thời điểm đang tiến đến tận cùng đệ nhị thiên niên của kỷ nguyên Kitô giáo, tỏ ra mình là một thời điểm phát triển lớn lao, thì nó cũng được thấy như là một thời điểm của mối đe dọa đối với con người bằng nhiều hình thức... Tình trạng của con người trong thế giới tân tiến này thật sự xa rời khỏi những đòi hỏi khách quan của trật tự luân lý, khỏi những đòi hỏi của công lý, và còn hơn thế nữa, của tình yêu thương trong xã hội... Ý nghĩa chính yếu của 'vai trò chủ tể' và 'thống trị' của con người trên thế giới hữu hình mà Chính Tạo Hóa trao cho con người như công việc của họ, hệ tại việc đạo đức ưu tiên hơn kỹ thuật, con người chính yếu hơn sự vật, và tinh thần trọng hơn vật chất… Thật vậy, đã có thể thấy được một cơn nguy biến ở chỗ, trong khi việc con người làm chủ trên thế giới sự vật đang tạo nên những phát triển khổng lồ, thì họ liều mất đi những cái cốt yếu làm nên chủ quyền của mình, và bằng nhiều cách thức khác nhau, để cho nhân tính của mình lụy thuộc vào thế gian, rồi chính mình cũng trở nên một vật làm tôi phục vụ cho sự lạm dụng dưới nhiều hình thức - sự lạm dụng này thường không trực tiếp thấy được - qua toàn thể cơ cấu của cuộc sống chung, qua hệ thống sản xuất và qua áp lực từ phương tiện truyền thông xã hội. Con người không thể nào vùi dập bản thân mình hay vị trí của mình trong cái thế giới hữu hình là một thế giới thuộc về họ; họ không thể nào trở nên nô lệ cho sự vật, nô lệ cho những cơ cấu kinh tế, nô lệ cho việc sản xuất, nô lệ cho những sản phẩm riêng của mình" (khoản số 16)
"Thế kỷ này, cho đến nay, vẫn là một thế kỷ của những hủy hoại lớn lao đối với con người, của những tàn phá vĩ đại, chẳng những về vật chất mà còn cả về luân lý, thực sự là thế, có lẽ trên hết là về mặt luân lý. Đồng ý là, về phương diện này, việc so sánh thời đại này hay thế kỷ này với thời đại khác hay thế kỷ khác không phải là một việc dễ dàng, vì điều này còn lệ thuộc vào những chuẩn mức lịch sử. Tuy nhiên, dù không mang ra so sánh chăng nữa, người ta cũng không thể nào không nhận thấy rằng thế kỷ này, cho tới nay, vẫn là một thế kỷ mà người ta đã gây ra cho nhau nhiều bất công và khổ đau. Diễn tiến này đã được dứt khoát chế ngự chưa?... Bất chấp những cơ sở ấy (điển hình là tổ chức Liên Hiệp Quốc), các quyền lợi con người vẫn đang bị vi phạm bằng nhiều hình thức, khi mà, trong thực hành, chúng ta thấy trước mắt có những trại tập trung, bạo lực, hành hạ, khủng bố, và kỳ thị dưới nhiều thể cách, thì sự kiện này phải là hậu quả của những chủ trương khác đang gặm nhấm và hầu như thường vô hiệu hóa những nền tảng nhân bản của những tổ chức và dự án hoạt động tân tiến này. Đối với hiện trạng như thế, cần phải có một trách nhiệm trong việc liên tục điều chỉnh những dự án hoạt động, dựa trên quan điểm về các quyền lợi khách quan và bất khả xâm phạm của con người”. (khoản số 17).
Thế rồi, vào thời điểm vị giáo hoàng không phải người Ý sau 455 năm xuất hiện “từ một xứ sở xa xăm” này về thăm quê hương lần cuối cùng vào mùa hè năm 2002, loài người bấy giờ đã ở vào một tình trạng nguy vong đến độ ngài đã phải chính thức và long trọng hiến dâng thế giới, một thế giới khốn khổ thảm thương về mọi lãnh vực, cho Lòng Thương Xót Chúa tại ngôi Đền Thờ Chúa Tình Thương vào ngày Thứ Bảy 17/8/2002. Bởi vì, ngài thấy rõ hiện trạng vô cùng đáng thương của con người tân tiến, của một thế giới từ thời điểm thế kỷ 20 càng ngày càng đi đến chỗ tự diệt vong, như ngài đã bày tỏ trong bài giảng phong chân phước cho 4 vị đồng hương của ngài vào Chúa Nhật 18/8/2002 trong chuyến thăm quê hương lần thứ 8 này, như sau:
“Thế kỷ 20, mặc dù có những thành đạt không thể chối cãi về nhiều lãnh vực, cũng đã bị ghi dấu một cách đặc biệt bởi ‘mầu nhiệm lỗi lầm - mystery of iniquity’. Chúng ta đã tiến vào ngàn năm mới với di sản vừa thiện vừa ác này. Những chân trời mới trong việc phát triển đang mở ra trước nhân loại, kèm theo đó có cả những cái nguy hiểm chưa từng có. Con người thường sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu, thậm chí đặt mình vào vị thế của Thiên Chúa nữa. Họ tự cho mình quyền hành của một Vị Tạo Hóa trong việc can thiệp vào mầu nhiệm sự sống con người. Họ muốn định đoạt sự sống con người bằng cách léo lái việc truyền giống cũng như muốn thiết định giới hạn sự chết. Khi loại trừ lề luật thần linh và những nguyên tắc luân lý, họ công khai tấn công cơ cấu gia đình. Bằng những cách thức khác nhau, họ cố gắng làm cho Thiên Chúa phải im hơi lặng tiếng nơi tâm can của con người; họ muốn làm cho Thiên Chúa ‘hoàn toàn khuất bóng’ nơi văn hóa và lương tâm các dân tộc. ‘Mầu nhiệm lầm lỗi’ tiếp tục đánh dấu cái thực tại của thế giới này. Cảm nghiệm được mầu nhiệm ấy, con người mới sống trong nơm nớp lo sợ về tương lai, lo sợ về tình trạng trống rỗng, lo sợ phải khổ đau, lo sợ bị hủy diệt” (đoạn 3).
Thế rồi, cũng thế giới ấy, cũng loài người ấy, thành phần đã được vị giáo hoàng thú nhận “con người đã trở thành đề tài chính yếu cho hoạt động mục vụ của tôi” (xem ‘Vượt Qua Ngưỡng Cử Hy Vọng’, Chương về ‘Nhân Quyền’, bản Anh ngữ, giòng cuối cùng ở trang 199), 26 năm sau bức Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, đã nhận định về thời điểm lịch sử loài người vừa tiến vào thiên niên kỷ thứ ba của Kitô giáo 5 năm, trong tác phẩm “Hồi Niệm và Căn Tính” được xuất bản 2/2005, hai tháng trước khi ngài qua đời.
Thật ra đây là nhận định của ngài về Tây Âu chứ không phải chung thế giới, khi ngài phân tích tình hình giữa Đông Âu và Tây Âu. Tuy nhiên, vì Tây Âu, cũng được gọi là Tây Phương và đồng nghĩa với Tây Phương, căn cứ vào văn minh của nó, một nền văn minh đã bắt nguồn từ nó và lan tràn khắp thế giới cũng từ nó, một Tây Phương bao gồm cả Bắc Mỹ bởi khuynh hướng văn hóa hầu như đồng nhất của nó, có thể biểu hiệu cho nhân loại nói chung, đang ở vào một tình trạng suy thoái khủng khiếp về luân thường đạo lý và khủng hoảng trầm trọng về văn hóa, như được ngài diễn tả trong Chương 9, về “Những Bài Học của Lịch Sử Vừa Qua”, (ấn bản Anh ngữ, trang 46-48):
“Dĩ nhiên là sai lầm khi nói quá lời về yếu tố chia đôi ở một Âu Châu được phân ra thành Đông Âu và Tây Âu. Những xứ sở Tây Âu có một truyền thống Kitô giáo lâu đời hơn…. Ở Tây Âu, Giáo Hội được phúc có vô số các vị thánh…. Chính ở đó đã xuất hiện các Summae Theologiae, đệ nhất vị là Thánh Tôma Aquinas; ở đó là nơi hình thành các truyền thống linh đạo Kitô giáo tuyệt đỉnh…. Ở đó xuất phát các đại dòng tu đan sĩ…. Cũng ở đó có cả những dòng tu hành khất xứng danh…. Nỗ lực truyền giáo lớn lao của Giáo Hội bắt nguồn chính yếu từ Tây Âu…. Chúa Kitô bao giờ cũng là ‘tảng đá nền’ cho việc xây dựng và tái thiết xã hội ở Tây Phương Kitô giáo.
“Tuy nhiên, chúng ta đồng thời cũng không thể bỏ qua việc liên lỉ tái diễn tình trạng chối bỏ Chúa Kitô. Chúng ta cứ gặp đi gặp lại những dấu hiệu của một thứ văn minh đang muốn thay thế cho thứ văn minh xây trên ‘tảng đá nền’ là Chúa Kitô – một thứ văn minh, cho dù không hoàn toàn là vô thần, ít ra cũng có tính cách duy nghiệm thức và bất khả thần tri, vì nó được xây dựng trên nguyên tắc suy tưởng và tác hành như thể không có Thiên Chúa. Đường lối này có thể dễ thấy được nơi thứ khoa học được gọi là tân tiến, hay đúng hơn nơi tâm thức khoa học, và có thể được nhận ra nơi cả văn chương, đặc biệt là nơi truyền thông đại chúng. Sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu nghĩa là sống vượt ra ngoài các giới hạn về thiện ác, ngoài liên hệ với các thứ giá trị xuất phát từ Thiên Chúa. Nó cho rằng con người tự mình có thể quyết định những gì là tốt hay xấu. Và chiều hướng chủ trương này được phát động rộng rãi bằng tất cả mọi kiểu cách.
“Nếu, một mặt, Tây Phương tiếp tục cho thấy chứng cớ về việc nhiệt tình truyền bá phúc âm hóa, thì mặt khác, những trào lưu phản phúc âm cũng mãnh liệt không kém. Những trào lưu này tấn công vào chính các nền tảng về luân lý của con người, gây ảnh hưởng đến đời sống gia đình và cổ võ một quan niệm luân lý bi quan yếm thế: ly dị, tự do luyến ái, phá thai, ngừa thai, chiến đấu chống lại sự sống ở những giai đoạn khai sinh cũng như ở vào giai đoạn lâm tử, mạo dụng sự sống. Chiều hướng hoạt động này được ủng hộ bởi những nguồn tài trợ khổng lồ, chẳng những ở trong các xứ sở mà còn trên tầm cấp quốc tế nữa. Nó có những trung tâm lớn về quyền lực kinh tế trong tay, nhờ đó, nó cố gắng áp đặt những điều kiện của mình trên các quốc gia đang phát triển. Trước tất cả những sự kiện ấy người ta có lý để đặt vấn đề rằng, đây có phải là hình thức khác của một thứ chủ nghĩa độc tài chuyên chế được che đậy một cách tinh khéo dưới những dạng thức dân chủ hay chăng”.
Cuộc khủng hoảng về luân lý của con người (tiêu biểu nơi văn minh Tây Phương) ở vào đầu thiên kỷ thứ ba Kitô giáo này đã trở nên vô cùng thảm khốc và cực kỳ nguy vong, như được cảm nhận bởi vị giáo hoàng tác giả cuốn “Hồi Niệm và Căn Tính”, một tác phẩm như một lời vừa di chúc vừa kêu gọi ngài muốn gửi tới thế giới rằng: “Thật vậy, chính nhờ hồi niệm mà cảm quan của chúng ta về căn tính được hình thành và hiện tỏ nơi tâm trí con người” (ấn bản Anh ngữ, đoạn cuối cùng Chương 23: “Về Lại Với Âu Châu”). Thật vậy, những gì vị giáo hoàng này đã nhận định về loài người liên quan đến “những hủy hoại lớn lao”, “những tàn phá vĩ đại” từ năm 1978, trước khi ngài vĩnh viễn ra đi, đã biến thành một hiện tượng diễn tiến như cuộc biển động sóng thần Nam Á xẩy ra vào ngày 26/12/2004, một thiên tai đã kinh hoàng tàn sát trên 200 ngàn người cách đột ngột trong một thời gian rất ngắn. Ngài viết trong tác phẩm cuối cùng của mình, “Hồi Niệm và Căn Tính”, ở Chương 2 về “Những Ý Hệ của Sự Dữ”, (ấn bản Anh ngữ, trang 11), như sau:
“Đến đây, chúng ta không thể câm lặng trước vấn đề ngày nay trở nên thảm khốc hơn bao giờ hết. Cuộc sụp đổ của các chế độ được xây dựng trên các ý hệ sự dữ (biệt chú của người dịch: theo tác giả nhận định ở phần trước đó là ‘ý hệ Xã Hội Quốc Gia’ ở Đức theo nguyên lý duy chủng tộc, và ‘ý hệ Mát Xít’ Cộng sản đặc biệt ở Nga) đã đi đến chỗ chấm dứt những hình thức diệt chủng vừa được đề cập tới ở những xứ sở liên hệ (biệt chú của người dịch: được tác giả liệt kê là ‘diệt chủng Do Thái, cùng các nhóm khác như nhân dân Romania, thành phần dân quê xứ Ukraine, và hàng giáo sĩ Chính Thống lẫn Công Giáo ở Nga, ở Belarus và ở bên ngoài rặng núi Urals’). Tuy nhiên, vẫn còn có một cuộc diệt chủng về pháp lý đối với những con người đang được cưu mang nhưng chưa vào đời. Trong trường hợp này, cuộc diệt chủng ấy được ban bố bởi những thứ quốc hội được chọn bầu theo dân chủ (biệt chú của người dịch: ở đây vị tác giả muốn nhấn mạnh đến tính cách khác biệt giữa những chế độ chuyên chế độc tài sắt máu trong thế kỷ 20 với thể chế được gọi là tự do dân chủ nhân quyền), những thứ quốc hội nhân danh quan niệm tiến bộ về dân sự cho xã hội và cho toàn thể nhân loại. Chúng ta cũng không thể thinh lặng trước những vi phạm trầm trọng khác đến việc làm hụt hẫng đi lề luật của Thiên Chúa. Tôi đang nghĩ tới, chẳng hạn, áp lực mãnh liệt của Quốc Hội Âu Châu trong việc nhìn nhận các cuộc hợp hôn đồng tính như là một loại gia đình khác, có quyền nhận con nuôi. Thật là hợp lý, thậm chí cần phải đặt vấn đề phải chăng đó không phải là công cuộc của một thứ ý hệ sự dữ khác hay sao, có lẽ còn tinh xảo và kín đáo hơn, có ý muốn khai thác chính nhân quyền để chống lại con người và đời sống gia đình”.
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
|
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |