Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC”
3.- “Totus Tuus”: Tác Hiệu
THỨ NĂM 10/4/2008
Tuần Tưởng Niệm Đại Giáo Hoàng Gioan Phaolô II băng hà 3 năm 2/4/2005-2008
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II Chiêm Ngư ỡng Mầu Nhiệm Nhập Thể Giáng Sinh“Nơi Chúa Kitô, tôn giáo không còn là một ‘cuộc kiếm tìm Thiên Chúa một cách mù quáng’" Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC” 2.- “Totus Tuus”: Hiện Thực - “Mẹ Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”: “Đừng Sợ” Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II "Anh em hãy tự mình tái nhận thức... vẻ đẹp của Bí Tích Hòa Giải" Thư Thứ Năm Tuần Thánh 2002 Cho Hàng Linh Mục Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II: VỊ GIÁO HOÀNG CỦA ĐẠI KẾT TOÀN CẦU Ngày Hoà Giải: Xin Lỗi và Thứ Lỗi
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Chiêm Ngưỡng Mầu Nhiệm Nhập Thể Giáng Sinh
“Nơi Chúa Kitô, tôn giáo không còn là một ‘cuộc kiếm tìm Thiên Chúa một cách mù quáng’"
(Tông Thư Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba)
6- Chúa Giêsu được sinh ra từ dân tuyển chọn để hoàn tất lời hứa mà Abraham đã lãnh nhận và các tiên tri liên tục nhắc nhớ. Các tiên tri nhân danh Thiên Chúa và thay cho Ngài mà nói. Thật vậy, công cuộc của Cựu Ước được sắp xếp chính là để sửa soạn và loan truyền cho việc Đức Kitô đến, Đấng cứu chuộc hoàn vũ, cũng như cho vương quốc mà Người thiết lập. Bởi thế, những cuốn sách của Cựu Ưùớc mãi mãi là một chứng cớ cho một giáo thuyết thần linh xác thực (x. hiến chế Mạc Khải đoạn 15). Giáo thuyết này đã đạt mục tiêu của nó nơi Đức Kitô: đúng thếø Chúa Giêsu không chỉ "nhân danh Chúa" mà nói như các vị tiên tri, mà Người chính là Thiên Chúa nói bằng Lời hằng sống nhập thể của mình. Ở đây chúng ta chạm đến một điểm chính yếu làm cho Kitô giáo khác với tất cả mọi tôn giáo khác, những tôn giáo diễn tả việc con người tìm kiếm Thiên Chúa từ những thời cổ xưa nhất. Khởi điểm của Kitô giáo bắt nguồn từ việc Lời nhập thể. Như thế, không phải là con người tìm kiếm Thiên Chúa, mà là Thiên Chúa đích thân đến nói với chính con người, và chỉ cho con người đường nẻo để con người có thể đến với Ngài. Đó là điều đã được công bố trong Phần Nhập Đề của Phúc Âm thánh Gioan: "Chưa có ai đã từng thấy được Thiên Chúa; Người Con duy nhất, Đấng ở trong lòng Cha, Người đã tỏ Cha ra" (Jn.1:18). Như thế, Lời nhập thể làm thỏa nguyện ước vọng nơi tất cả các đạo giáo của nhân loại. Chính Thiên Chúa đã làm cho con người được thỏa nguyện, ngoài mọi ước mong của con người. Đó là một mầu nhiệm của ân sủng.
Nơi Chúa Kitô, tôn giáo không còn là một "cuộc kiếm tìm Thiên Chúa một cách mù quáng" (Acts 17:27) nữa, mà là một đáp ứng của đức tin vào Thiên Chúa là Đấng tỏ mình ra. Nó là một đáp ứng mà con người nói với Thiên Chúa như với Hóa Công, với một Người Cha, một đáp ứng đã thành hiện thực nhờ một con người cũng chính là Ngôi Lời, mà nơi Người, Thiên Chúa đã nói với từng người, và nhờ Người mỗi người có thể đáp lại Thiên Chúa. Còn nữa, cũng ở nơi con người này mà mọi tạo vật đáp lại Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô là một khởi sự mới cho tất cả mọi sự. Nơi Người, tất cả mọi sự có; chúng được thăng hóa rồi được trả về cho Hóa Công là Đấng dựng nên chúng. Như thế, Đức Kitô là mãn nguyện của ước vọng cho mọi tôn giáo trên thế giới, nên Người làø tầm mức viên trọn đích thực duy nhất của họ. Thiên Chúa nói thẳng với con người nơi Đức Kitô thế nào, tất cả loài người và toàn thể tạo vật cũng tự mình nói với Thiên Chúa trong Đức Kitô như vậy, thực sự đó là việc tự hiến mình cho Thiên Chúa. Mọi vật trở về với cội nguồn của mình là vậy. Chúa Giêsu Kitô làm cho mọi sự tái tạo (x.Eph.1:10), đồng thời làm hoàn tất mọi sự trong Thiên Chúa: một hoàn tất làm vinh danh Thiên Chúa. Tôn giáo có nền tảng nơi Đức Kitô là một tôn giáo vinh quang; nó là một tầm vóc mới mẻ của sự sống để chúc tụng vinh quang Thiên Chúa (x.Eph.1:12). Tất cả mọi tạo vật thực sự là một biểu hiện của vinh quang Người. Đặc biệt con người (vivens homo) là sự hiển linh của vinh quang Thiên Chúa, một loài được kêu gọi để sống bằng sự sống viên trọn trong Thiên Chúa.
“Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa chẳng những nói với loài người mà còn tìm kiếm họ nữa”
(ĐTC Gioan Phaolô II: Tông Thư Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba)
7- Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa chẳng những nói với loài người mà còn tìm kiếm họ nữa. Việc Con Thiên Chúa nhập thể chứng tỏ là Thiên Chúa đi tìm kiếm con người. Chúa Giêsu nói về việc tìm kiếm này như tìm kiếm một con chiên lạc đàn (x.Lk.15:1-7). Đó là một cuộc tìm kiếm mà khởi điểm bắt đầu từ cõi lòng của Thiên Chúa và đích điểm ở nơi việc nhập thể của Ngôi Lời. Nếu Thiên Chúa đi tìm con người, loài được dựng nên theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài, là vì đời đời Ngài yêu thương họ nơi Ngôi Lời, và trong Đức Kitô Ngài muốn nâng họ lên danh phận làm một người con được thừa nhận. Thế nên, Thiên Chúa đi tìm kiếm con người là sở hữu đặc biệt của Ngài bằng một đường lối không giống như các tạo vật khác. Con người là sở hữu của Thiên Chúa bởi việc yêu thương chọn lựa: Thiên Chúa tìm kiếm con người theo tấm lòng hiền phụ rung cảm của mình.
Tại sao Thiên Chúa lại tìm kiếm con người? Là vì con người đã bỏ Ngài mà đi, ẩn mình đi như Adong đã làm trong Vườn Địa Đàng (x.Gn.3:8-10). Con người đã để cho mình bị kẻ thù của Thiên Chúa (x.Gn.3:13) làm lạc hướng. Satan đã đánh lừa con người, làm cho con người tin rằng họ cũng là một thần linh, như Thiên Chúa, họ có khả năng biết lành biết dữ, cai trị thế giới theo ý mình mà không cần phải căn cứ vào ý muốn thần linh (x.Gn.3:5). Đi tìm kiếm con người qua Con của mình như thế là Thiên Chúa muốn chinh phục con người, để họ rời bỏ những đường nẻo gian ác đã dẫn họ càng ngày càng đi sai lạc. "Làm cho họ rời bỏ" những đường nẻo này nghĩa là làm cho họ hiểu được rằng họ đang đi sai đường lạc hướng; nghĩa là chế ngự sự dữ ở bất cứ giai đoạn nào trong lịch sử loài người. Chế ngự sự dữ: đó là ý nghĩa của việc cứu chuộc. Điều này đã được thực hiện nơi việc hy sinh của Đức Kitô, nhờ đó loài người được cứu cho khỏi nợ nần tội lỗi và được hòa giải cùng Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã làm người, nhận lấy một thân xác và một linh hồn trong cung lòng một Trinh Nữ, chính vì: để trở nên một hy tế cứu độ hoàn hảo. Tôn giáo của mầu nhiệm Nhập Thể là một tôn giáo của ơn cứu thế, nhờ hiến tế của Đức Kitô, một hiến tế chiến thắng sự dữ, tội lỗi và chính sự chết. Chấp nhận cái chết trên thập giá là Đức Kitô cùng một lúc vừa tỏ bày sự sống vừa thông ban sự sống, vì Người đã sống lại và sự chết không còn làm gì được Người nữa.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC” 3.- “Totus Tuus”: Tác Hiệu
· “Mẹ Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”: “Đừng Sợ”
Đức Gioan Phaolô II cho biết nguồn gốc của “Totus Tuus” xuất phát từ Linh Đạo Thánh Mẫu của Thánh Long Mộng Phố, và ngài đã hết sức hiện thực “Totus Tuus” qua giáo huấn và tác động đầy tính cách Thánh Mẫu của ngài. Thế nhưng, ngài còn tiết lộ một chi tiết rất đặc biệt nữa nơi “Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lõi của Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II”, một chi tiết liên hệ giữa chiều kích “Mẹ Đấng Cứu Chuộc” và thành phần Thụ Nhân Cứu Chuộc được ngài trấn an “Đừng sợ”, một chi tiết, có thể nói, chẳng những cho thấy chủ đích của việc ngài chọn khẩu hiệu “Totus Tuus” mà còn cho thấy được thành quả hay tác hiệu vượt bực ngoài cả sức tưởng tượng của ngài (nhất là vụ ngài bị ám sát thoát chết liên quan tới Biến Cố Đông Âu). Chi tiết quạn trọng cho thấy ngài luôn thực hiện việc phó dâng và sống tin tưởng nơi “Người Mẹ Đấng Cứu Chuộc” này đã được ngài cho biết trong cuốn “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” (ấn bản Anh ngữ, trang 220-221).
“Đến đây, một lần nữa, chúng ta cần trở lại với Totus Tuus. Nơi những câu hỏi trước đây của bạn về Người Mẹ của Thiên Chúa cũng như về nhiều mạc khải tư đã xẩy ra, nhất là trong hai thế kỷ vừa qua. Tôi đã giải đáp bằng việc giải thích lòng tôn sùng Mẹ Maria đã phát triển ra sao nơi cuộc sống của bản thân tôi, bắt đầu từ tỉnh lỵ tôi sinh sống, đến đền thánh Kalwaria, sau cùng là tới Jasna Góra. Jasna Góra đã thuộc về lịch sử của quê hương tôi trong thế kỷ thứ 17, như một thứ ‘Đừng sợ!’ được Chúa Kitô nói qua môi miệng của Mẹ Người. Vào ngày 22/10/1978, khi tôi thừa kế Tác Vụ của Thánh Phêrô ở Rôma, thì đó chính là cái cảm nghiệm và lòng tôn sùng Mẹ Maria nơi đất nước của tôi, những gì tôi đã mang theo mình hơn bất cứ một cái gì khác.
“’Đừng sợ!’ Chúa Kitô nói với các vị tông đồ (x Lk 24:36) cũng như nói cùng các người phụ nữ (x Mt 28:10) sau khi Phục Sinh. Theo các Phúc Âm thì những lời này không được ngỏ cùng Mẹ Maria. Đức tin của Mẹ mãnh liệt, Mẹ không biết sợ. Việc Mẹ Maria thông dự vào cuộc vinh thắng của Chúa Kitô đã sáng tỏ đối với tôi trước hết từ cảm nghiệm của dân tộc tôi. Đức Hồng Y Stefan Wyszynski đã nói với tôi rằng vị tiền nhiệm của ngài là Đức Hồng Y August Hlond, đã nói những lời tiên tri này trước khi chết: ‘Nếu có được một cuộc chiến thắng thì cuộc chiến thắng này xẩy ra nhờ Mẹ Maria’. Trong khi thi hành thừa tác mục vụ của mình ở Balan, chính tôi thấy được rằng những lời này xẩy ra đúng biết bao.
“Sau khi được bầu làm Giáo Hoàng, lúc tôi có liên hệ hơn nữa với các vấn đề của Giáo Hội hoàn vũ, tôi đã tiến đến chỗ có cùng một niềm xác tín như thế: Ở tầm cấp hoàn vũ này, nếu có được cuộc chiến thắng nào thì đều là những cuộc chiến thắng được Mẹ nhúng tay vào. Chúa Kitô sẽ chiến thắng qua Mẹ, vì Người muốn các cuộc chiến thắng của Giáo Hội hiện nay và tương lai đều liên hệ với Mẹ. “Tôi có được niềm xác tín này cho dù tôi không biết nhiều về Fatima. Tuy nhiên, tôi có thể thấy rằng có một sự liên tục nào đó giữa La Salette, Lộ Đức và Fatima – và trong quá khứ trước nữa, với cả Jasna Góra Balan nước tôi nữa.
“Vậy là chúng ta tiến đến với ngày 13/5/1981, ngày tôi bị đã thương bởi những viên đạn bắn vào người ở Quảng Trường Thánh Phêrô. Mới đầu, tôi không để ý tới sự kiện là cuộc cố sát này đã xẩy ra vào ngay ngày kỷ niệm Mẹ Maria hiện ra với 3 thiếu nhi Fatima ở Bồ Đào Nha và nói với các em những lời mà giờ đây, vào cuối thế kỷ này, dường như đã gần được nên trọn.
“Qua biến cố ấy, không phải hay sao, Chúa Kitô có lẽ muốn nói lại một lần nữa rằng: ‘Đừng sợ’? Không phải hay sao, Người đã lập lại lời huấn dụ Phục Sinh ấy cho vị Giáo Hoàng này, cho Giáo Hội, và một cách gián tiếp cho toàn thể nhân loại?”.
"Anh em hãy tự mình tái nhận thức... vẻ đẹp của Bí Tích Hòa Giải"
“Năm nay Tôi muốn nói với anh em về một khía cạnh thuộc sứ vụ của chúng ta, một khía cạnh Tôi đã xin anh em chú trọng cũng vào dịp này năm ngoái. Tôi tin rằng nó sẽ gợi ý suy niệm hơn nữa. Tôi muốn nói đến sứ vụ Chúa Kitô đã trao cho chúng ta với vai trò đại diện của Người, không phải chỉ ở nơi Hy Tế Thánh Thể, mà còn ở cả Bí Tích Hòa Giải nữa”. “Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo nhắc nhở chúng ta rằng: ‘Thánh Thể không thể nào hiệp nhất chúng ta nên một với Chúa Kitô mà không đồng thời thanh tẩy chúng ta khỏi những tội lỗi đã phạm và gìn giữ chúng ta khỏi những tội lỗi sau này’ (số 1393). … ‘Thánh Thể không phải là để thứ tha các tội trọng. Đó là việc riêng của Bí Tích Hòa Giải… ai biết được mình đã phạm một trọng tội thì phải lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải trước khi lên hiệp lễ’ (số 1385)”. “Tôi cảm thấy rất cần phải thúc giục anh em, như Tôi đã làm hồi năm ngoái, là anh em hãy tự mình tái nhận thức, cũng như giúp cho những người khác cũng tái nhận thức lại vẻ đẹp của Bí Tích Hòa Giải. Trong những thập niên gần đây, và vì một số lý do khác nhau, bí tích này đã bị khủng hoảng làm sao ấy. …. (Ngày nay), cần phải có những liên lạc riêng tư, một điều đang càng ngày càng trở nên họa hiếm trong chiều tốc ào ạt của xã hội kỹ thuật ngày nay, song cũng chính vì lý do này mà việc liên lạc riêng tư lại càng cảm thấy cần phải có không thể thiếu. Chắc chắn là có thể thực hiện nhu cầu này bằng nhiều cách khác nhau. Thế nhưng, làm sao chúng ta lại có thể không nhìn nhận rằng - miễn là đừng lẫn lộn bí tích này với bất cứ hình thức trị liệu về tâm lý nào khác - Bí Tích Hòa Giải có thể đáp ứng nhu cầu liên lạc tư riêng này một cách hết sức dồi dào hay sao? Bí tích này thực hiện được điều ấy, bằng việc làm cho hối nhân giao tiếp với trái tim xót thương của Thiên Chúa, qua dung nhan thân tình của một người anh em”. “Tôi muốn lập lại rằng, hình thức bình thường của việc ban phát bí tích này là ở chỗ cử hành riêng tư, chỉ trong ‘những trường hợp hết sức cần thiết’ mới được phép sử dụng hình thức giải tội và xá tội chung mà thôi. Những điều kiện cần phải có cho hình thức xá tội này đã quá rõ ràng rồi; nhưng có lẽ chúng ta cần phải nhớ rằng, để việc xá tội thành hiệu, tín hữu phải có chủ ý xưng thú lại các tội trọng của mình một cách tư tiêng sau đó nữa (xem Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 1483)”. “Bị bủa vây bởi nhiều cảnh trạng mục vụ khác nhau, đôi khi chúng ta cảm thấy chán nản và mất hứng, vì rất nhiều Kitô hữu không chú trọng bao nhiêu tới đời sống bí tích, dù họ có đến với các bí tích, họ cũng thường làm một cách hời hợt vậy thôi. … Vị giải tội không được bỏ qua phương tiện gặp gỡ bí tích này để làm cho hối nhân hiểu được một phần nào về đường lối Thiên Chúa đầy tình thương muốn dùng để đến với họ, giang tay ra cho họ, không phải để giáng phạt mà là để cứu vớt. “Thừa tác vụ ngồi tòa giải tội … là một thừa tác vụ bao giờ cũng bị kẹp bởi hai thái cực đối chọi nhau, đó là nghiêm ngặt và dễ dãi. … Chúng ta phải luôn luôn cẩn thận giữ mức độ thăng bằng xứng hợp để tránh rơi vào một trong hai thái cực này. Tỏ ra nghiêm ngặt thì làm cho họ rút mình lại và đẩy họ ra xa. Tỏ ra dễ dãi lại làm cho họ tưởng thật và bị lầm lạc. “Bởi thế các vị giải tội cũng cần phải được huấn luyện một cách thích hợp để cử hành Bí Tích này. … Chúng ta cũng phải làm hết sức để cập nhật hóa việc huấn luyện cả về thần học nữa, nhất là về những vấn đề liên quan đến luân lý đạo đức. Đối diện với những vấn đề luân lý đạo đức phức tạp hiện nay, có thể xẩy ra trường hợp tín hữu ra khỏi tòa giải tội vẫn còn bị lẫn lộn sao đó, nhất là khi họ thấy rằng các vị giải tội không đồng nhất với nhau về phán đoán của các vị”. “Quí Linh Mục thân mến! Anh em hãy biết rằng Tôi đặc biệt gần gũi với anh em khi anh em qui tụ lại với các Vị Giám Mục của anh em vào Ngày Thứ Năm Tuần Thánh năm 2002. Theo chiếu hướng ‘bắt đầu lại từ Chúa Kitô’, tất cả chúng ta đều cảm thấy một thời điểm mới nơi Giáo Hội vào lúc bình minh của một tân thiên niên kỷ đây. Tất cả chúng ta phải hy vọng rằng thời điểm này đây phải đi liền với một kỷ nguyên mới của tình huynh đệ cũng như của hòa bình cho toàn thể nhân loại. Cho dù chúng ta có thấy cảnh máu đổ nhiều hơn. Chúng ta lại chứng kiến thấy chiến tranh xẩy ra. Chúng ta cảm thấy buồn chán bởi thảm trạng chia rẽ và hận thù tàn phá những mối liên hệ giữa các dân tộc với nhau. “Trong lúc này đây, là linh mục, mỗi người chúng ta cũng cảm thấy bị tác dụng sâu xa bởi những tội lỗi của một số trong anh em chúng ta đã bội phản lại với ơn Thánh Chức, khi dìm mình vào trong cả những hình thức trầm trọng nhất của mầu nhiệm tội lỗi 'mysterium iniquitatis’ đang tung hoành trên thế giới. Việc xẩy ra gương xấu nặng nề đã gây ra hậu quả là một bóng tối đen ngờ vực phủ chụp lên tất cả những vị linh mục tốt lành khác, những vị thi hành thừa tác vụ của mình một cách chân thành và liêm chính, một cách thường xả kỷ anh hùng. Trong lúc Giáo Hội tỏ thái độ quan tâm đến các nạn nhân, và cố gắng đáp ứng mỗi một trường hợp đau lòng này theo sự thật và công lý, tất cả chúng ta – ý thức nỗi yếu hèn của nhân loại, nhưng tin tưởng vào quyền năng chữa lành của ân sủng thần linh – được kêu gọi để ôm lấy mầu nhiệm Thập Giá ‘mysterim Crusis’, cũng như để quyết tâm trọn vẹn hơn nữa trong việc nên thánh. Chúng ta phải nài xin Thiên Chúa, trong Sự Quan Phòng của Ngài, hãy tác động để làm bùng lên lại những ước muốn thiết tha này trong việc hiến thân trọn vẹn cho Chúa Kitô, những ước muốn chính nền tảng của thứa tác vụ linh mục này”. “Chúng ta biết rằng con tim nhân loại luôn chiều theo sự dữ, và con người có thể chiếu tỏa an bình và yêu thương cho những người chung quanh mình, chỉ khi nào họ gặp gỡ Chúa Kitô và để cho mình ‘được chiếm đọat’ bởi Người”. “Là những thừa tác viên Thánh Thể
và Hòa Giải theo bí tích, chúng ta đặc biệt có nhiệm vụ truyền đạt hy vọng,
thiện hảo và bình an cho thế giới”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa
Thánh
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II: VỊ GIÁO HOÀNG CỦA ĐẠI KẾT TOÀN CẦU Ngày Hoà Giải: Xin Lỗi và Thứ Lỗi
Vị giáo hoàng của Lòng Thương Xót Chúa này, ngoài việc tha thứ có tính cách cá nhân như thế, cũng đã thực hiện một cử chỉ chưa từng thấy trong lịch sử Giáo Hội Công giáo, đó là việc ngài thực hiện Ngày Tha Thứ, Chúa Nhật 12/3/2000, Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay, và chính thức công khai nhân danh Giáo Hội lên tiếng xin lỗi và thứ lỗi, xin lỗi về những gì con cái mình đã lầm lỗi trong quá khứ và hiện tại, và thứ lỗi về tất cả những gì Giáo Hội Công giáo phải chịu trong giòng lịch sử.
Thật thế, trong Tông Thư Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba, văn kiện hướng dẫn Giáo Hội hoàn vũ long trọng dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, Năm Đại Hồng Ân của Thiên Chúa, ĐTC GPII chẳng những kêu gọi thế giới về vấn đề tha nợ hay giảm nợ nần quốc tế cho nhau (ở khoản 51), mà còn kêu gọi chính Giáo Hội cũng thực hiện một cử chỉ xin lỗi và thứ lỗi nữa, như ở khoản 35 và 36 dưới đây (những chỗ in nghiêng và đậm là để nhấn mạnh đến ý tưởng chính).
“Một chương lịch sử đau thương khác mà các đứa con nam nữ của Giáo Hội phải quay về với một tinh thần thống hối, đó là chương lịch sử, nhất là trong một số thế kỷ, về việc chiều theo tính bất nhẫn, và ngay cả việc dùng bạo lực, để phụng sự cho chân lý.
“Đúng thế, một phán đoán chính xác có tính cách lịch sử không thể nào lại cố tình bỏ qua việc tìm hiểu cẩn thận bối cảnh văn hóa của thời đại, một phán đoán mà căn cứ vào đó nhiều người lòng ngay lại chủ trương rằng, việc làm chứng thực sự cho chân lý có thể bao gồm cả việc đàn áp những ý kiến của kẻ khác, hay ít là không để ý gì đến những ý kiến đó. Nhiều yếu tố thường trùng hợp để tạo nên những giả thuyết biện minh cho việc bất nhẫn, đồng thời nung nấu một bầu khí sôi động, mà chỉ có tinh thần cao cả, thật sự tự do và đầy Thiên Chúa, mới có thể giải tỏa bằng một cách nào đó. Mặc dù có xét đến những căn cớ để làm cho sự việc nhẹ hơn đi nữa, thì Giáo Hội cũng không thể nào được miễn trừ khỏi việc cần phải tỏ ra một niềm tiếc xót sâu xa, đối với những yếu đuối của rất nhiều con cái nam nữ của mình, đã làm ám muội đi dung nhan Giáo Hội, khiến Giáo Hội không hoàn toàn phản chiếu hình ảnh của một vị Chúa tử giá là mẫu chứng siêu việt cho một tình yêu nhẫn nhịn và một đức hiền lành khiêm hạ. Từ những giây phút quá khứ đau thương này, có thể rút ra một bài học cho tương lai, dẫn tất cả mọi Kitô hữu đến việc hoàn toàn gắn chặt lấy nguyên tắc mà Công Đồng đã phát biểu: ‘Chân lý không thể nào tự mình áp đặt, ngoại trừ vì chính sự xác thực của nó, nếu nó muốn dùng cả sự dịu dàng lẫn mãnh lực để chiếm lấy tâm trí con người’ (tuyên ngôn Dignitatis Humanae, về tự do tôn giáo, đoạn 1)” (khoản số 35).
“Nhiều vị hồng y và giám mục đã tỏ ý muốn, trước hết, phải có một cuộc khảo sát lương tâm cẩn thận về phía Giáo Hội hôm nay. Trước ngưỡng cửa của một tân thiên niên, Kitô hữu cần phải khiêm tốn đặt mình trước nhan Chúa, xét mình về trách nhiệm mà họ cũng phải gánh chịu đối với những sự dữ của thời điểm chúng ta. Thật vậy, tuy có nhiều sáng sủa, thời hiện đại này cũng không phải là không có ít nhiều bóng tối.
“Chẳng hạn, chúng ta làm sao có thể giữ im lặng về tình trạng lạnh nhạt đạo đức làm cho nhiều người hiện nay sống như không có Thiên Chúa, hay sống theo một lòng đạo mơ hồ, không có khả năng nắm vững vấn đề chân lý, cần phải trước sau như một. Thêm vào đó, còn phải kể đến tình trạng mất đi một cách sâu rộng cái ý nghĩa siêu việt về sự sống con người, cũng như phải kể đến tình trạng lẫn lộn trong lãnh vực đạo lý, ngay cả về những giá trị căn bản trong việc tôn trọng sự sống và gia đình. Về mặt này, ngay những người con nam nữ của Giáo Hội nữa cũng cần phải xét mình lại. Họ đã bị nhuốm phải bầu khí của phong trào tục hóa (secularism) và khuynh hướng đạo lý tương đối (ethical relativism) đến đâu? Và họ phải gánh chịu trách nhiệm nào trong việc làm cho tình trạng thiếu lòng đạo tăng lên, vì họ không chứng tỏ được dung nhan chân thật của Thiên Chúa, bởi đã ‘không sống theo cuộc sống tôn giáo, luân lý hay xã hội của mình’ (hiến chế Gaudium et Spes, đoạn 19)?
“Không thể nào phủ nhận được rằng, đối với nhiều Kitô hữu, cuộc sống tâm linh của họ đang trải qua một thời gian chao đảo, gây ảnh hưởng cho chẳng những đời sống luân lý của họ mà cả đến đời sống cầu nguyện cũng như tư tưởng đúng đắn về thần học theo đức tin của ho nữạ. Đức tin, bị thử thách bởi những thách đố của thời đại chúng ta đã vậy, đôi khi còn bị hướng dẫn lệch lạc bởi những quan điểm thần học sai lầm, gây ra bởi tệ nạn đang sôi động lan truyền trong việc ngang nhiên bất phục tùng quyền giáo huấn của Giáo Hội .
“Về vấn đề liên quan đến Giáo Hội trong thời đại của chúng ta đây, làm sao chúng ta không ngậm ngùi trước tình trạng thiếu ý thức, thậm chí có những lúc nhiều Kitô hữu còn ưng theo việc phạm đến những quyền làm người căn bản, gây ra bởi những chế độ độc tài chuyên chế? Và chúng ta cũng không tiếc xót sao được, trong số những bóng tối nơi thời điểm của chúng ta, trách nhiệm mà rất nhiều Kitô hữu phải gánh chịu đối với những hình thức bất công và tẩy chay? Vấn đề được đặt ra là có bao nhiêu Kitô hữu thực sự hiểu biết và thực hành những nguyên tắc giáo huấn của Giáo Hội về xã hội.
“Cuộc khảo sát lương tâm cũng phải xét đến thái độ tỏ ra đón nhận thế nào đối với Công Đồng Vaticanô II, một tặng ân cao cả mà Thần Linh đã ban cho Giáo Hội vào cuối đệ nhị thiên niên. Lời của Thiên Chúa đã trở nên hốn sống của thần học và là nguồn hứng cho cả cuộc sống Kitô hữu, trọn đầy hơn nữa đến mức nào, theo như Dei Verbum (hiến chế về Mạc Khải)? Phụng vụ có được sống như là nguồn mạch và là thượng đỉnh của sinh hoạt thuộc về hội thánh không, theo giáo huấn của Sacrosanctum Concilium (hiến chế về Phụng Vụ)? Giáo hội học về việc hiệp thông được diễn giải trong Lumen Gentium (hiến chế về Giáo Hội) có được làm cho vững mạnh nơi Giáo Hội hoàn vũ cũng như nơi các Giáo Hội riêng biệt không? Những đặc sủng, những sứ vụ và những hình thức tham dự khác nhau của dân Thiên Chúa có được thể hiện chăng, một thể hiện không bị ảnh hưởng bởi ý hệ dân chủ và tính cách xã hội tương phản với quan niệm của Giáo Hội cũng như với tinh thần chân thực của Công Đồng Chung Vaticanô II? Một vấn đề quan trọng khác được nêu lên là bản chất của việc liên hệ giữa Giáo Hội và thế giới. Những chỉ dẫn của Công Đồng - được phác họa trong Gaudium et Spes (hiến chế Mục Vụ) và các văn kiện khác - về việc đối thoại một cách cởi mở, tôn trọng và thân tình, vẫn còn hiệu lực và mời gọi chúng ta phải dấn thân hơn nữa, tuy nhiên, nó phải được đi kèm với một nhận thức rõ ràng cùng với việc can đảm làm chứng cho chân lý” (khoản số 36).
Trong Tông Sắc Mầu Nhiệm Nhập Thể Incarnationis mysterium, ký ngày 29/11/1998, ở ngay đầu khoản số 11, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II còn nhắc lại vấn đề này như sau:
· “Việc thanh tẩy ký ức kêu gọi mọi người hãy thực hiện một hành động của lòng can đảm và khiêm tốn trong việc nhìn nhận những lỗi lầm đã vấp phạm bởi những ai đã hay đang mang danh Kitô hữu”.
Chính ngài đã làm gương trong việc ngài kêu gọi mọi người làm ấy trong Ngày Thứ Tha 12/3/2000, Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay. Ngài đã nhân danh Giáo Hội chính thức công khai lên tiếng xin lỗi và thứ lỗi trong bài giảng của ngài, ở đoạn 3 và 4, như sau:
“Trước Chúa Kitô là Đấng vì yêu thương đã nhận lấy tội lỗi của chúng ta, tất cả chúng ta được mời gọi để thực hiện một cuộc sâu xa tra vấn lương tâm. Một trong những yếu tố đặc biệt của Đại Năm Thánh là những gì tôi đã diễn ta như là ‘việc thanh tẩy ký ức’ (Tông Sắc Mầu Nhiệm Nhập Thể, 11). Với tư cách là vị Thừa Kế Thánh Phêrô, tôi đã xin là ‘trong năm tình thương này, Giáo Hội, vững mạnh trong thánh đức là những gì Giáo Hội lãnh nhận từ Chúa, cần phải quì xuống trước nhan Thiên Chúa mà van xin ngài tha thứ cho những tội lỗi quá khứ và hiện tại của thành phần con cái nam nữ của mình’ (cùng nguồn vừa dẫn). Hôm nay, Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay, tôi cho rằng là một cơ hội thích hợp cho Giáo Hội, qui tụ lại trong tinh thần chung quanh Vị Thừa Kế Thánh Phêrô, nài xin Chúa thứ tha cho các tội lỗi của tất cả mọi tín hữu. Chúng ta hãy thứ lỗi và hãy xin lỗi!” (khoản số 3)
“Chúng ta hãy thứ lỗi và hãy xin lỗi! Trong khi chúng ta chúc tụng Thiên Chúa là Đấng, vì tình yêu nhân hậu của Ngài, đã làm phát sinh trong Giáo Hội một mùa thua hoạch tuyệt vời về thánh đức, về nhiệt tình truyền giáo, về việc hoàn toàn dấn thân cho Chúa Kitô và cho tha nhân, chúng ta cũng không thể không nhìn nhận những bất trung với Phúc Âm gây ra bởi một số trong anh chị em của chúng ta, nhất là trong ngàn năm thứ hai. Chúng ta hãy xin Ngài tha thứ về những chia rẽ đã xẩy ra nơi thành phần Kitô hữu, về việc bạo lực đã được một số người sử dụng nhân danh sự thật, cũng như về những thái độ khinh thường và thù hằn đôi khi được tỏ ra đối với những tín đồ của các đạo giáo khác.
“Hơn thế nữa, chúng ta hãy xưng thú trách nhiệm của chúng ta là Kitô hữu đối với các sự dữ xẩy ra ngày nay. Chúng ta phải tự hỏi mình về trách nhiệm của chúng ta đối với chủ nghĩa vô thần, với tình trạng khô khan nguội lạnh, với trào lưu tục hóa, với khuynh hương tương đối hóa đạo lý, với những thứ vi phạm đến quyền sống, chưa kể đến đối với thành phần nghèo ở nhiều xứ sở.
“Chúng ta hãy hạ mình xuống xin tha thứ cho việc góp phần của mỗi một người trong chúng ta đối với những thứ sự dữ ấy qua những hành động của mình là những gì bởi thế làm méo mó dung nhan của Giáo Hội.
“Đồng thời, khi chúng ta xưng thú tội lỗi của mình, chúng ta cũng hãy thứ tha tội lỗi do người khác phạm đến chúng ta. Vô số lần trong giòng lịch sử Kitô hữu đã phải chịu đựng khốn khó, đàn áp và bách hại vì đức tin của họ. Như thành phần nạn nhân của những thứ lạm dụng ấy đã tha thứ cho họ thì chúng ta cũng hãy thứ tha nữa. Giáo Hội hôm nay đây cảm thấy và luôn cảm thấy cần phải thanh tẩy ký ức về những biến cố đau buồn ấy cho khỏi mọi cảm giác đắng cay hay trả đũa. Nhờ đó, Năm Thánh mới trở nên cho mọi người một cơ hội thuận lợi để thực tình trở về với Phúc Âm. Việc chấp nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa phải dẫn đến chỗ quyết tâm thứ tha cho anh chị em của chúng ta và hòa giải với họ” (khoản số 4).
(còn tiếp)
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
|
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |