Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC”
3.- “Totus Tuus”: Tác Hiệu
THỨ SÁU 11/4/2008
Tuần Tưởng Niệm Đại Giáo Hoàng Gioan Phaolô II băng hà 3 năm 2/4/2005-2008
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II Chiêm Ngư ỡng Mầu Nhiệm Nhập Thể Giáng SinhVới Chúa Kitô, Vĩnh Cửu đã đi vào Thời Gian Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC” 2.- “Totus Tuus”: Hiện Thực - "Chúa Kitô sẽ chiến thắng qua Mẹ”: Bí Mật Fatima phần hai ứng nghiệm Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II "Tình thương là một chiều kích không thể nào tách rời của tình yêu; nó thực sự như là một danh hiệu thứ hai của tình yêu"
Thông Điệp "Giầu Lòng Thương Xót - Dives in Misericordia" Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II: VỊ GIÁO HOÀNG CỦA ĐẠI KẾT TOÀN CẦU Ngày Hoà Giải: Xin Lỗi và Thứ Lỗi (tiêp)
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Chiêm Ngưỡng Mầu Nhiệm Nhập Thể Giáng Sinh
Với Chúa Kitô, Vĩnh Cửu đã đi vào Thời Gian
(Bài Giáo Lý dọn mừng Đại Năm Thánh 2000 ngày 26-11-1997; Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch)
iệc cử hành Cuộc Mừng Kỷ Niệm giúp chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Kitô như là tận điểm của thời gian trước Người và như là khởi điểm của tất cả thời gian sau Người. Thật thế, Người đã khai mào cho một tân sử, không những cho những ai tin Người mà còn cho cả cộng đồng nhân loại, vì ơn cứu chuộc Người hoàn thành là để hiến cho mỗi một con người. Từ đó, những hoa trái của việc Người cứu chuộc được thấm nhập tràn lan khắp giòng lịch sử một cách mầu nhiệm. Với Chúa Kitô vĩnh cửu đã đi vào thời gian.
“Ngay từ ban đầu đã có Lời” (Jn.1:1). Bằng những lời này, thánh Gioan khai mở cho Phúc Aâm của ngài, mang chúng ta vượt ra ngoài khởi điểm thời gian của mình, đến tận cõi vĩnh hằng thần linh. Lời diễn tả này đã vang vọng lời diễn tả trong đoạn sáng tạo: “Ngay từ ban đầu Thiên Chúa đã dựng nên các tầng trời và đất” (Gn.1:1). Thế nhưng, trong việc tạo dựng, nó là một vấn đề của thời gian, trong khi đó, nơi mà Lời được nói đến, lại là một vấn đề của vĩnh hằng.
Có hai khoảng cách vô cùng giữa hai yếu tố. Nó là một khoảng cách giữa thời gian và vĩnh cửu, giữa tạo vật và Thiên Chúa.
2- Là Lời từ đời đời hiện hữu, Chúa Kitô có một nguồn gốc vượt xa khỏi cuộc hạ sinh của Người trong thời gian.
Lời minh xác của thánh Gioan được căn cứ vào chính những lời của Chúa Giêsu. Để trả lời cho những người Do Thái hạch trách Người vì Người cho rằng Người đã thấy Abraham trong khi Người chưa đầy 50 tuổi, Chúa Giêsu đáp: “Thật vậy, thật vậy, Tôi nói cho qúi vị hay, Tôi hiện hữu trước khi có Abraham” (Jn.8:58). Lời minh xác này nhấn mạnh đến cái tương phản giữa việc trở nên (the becoming) của Abraham và việc hiện hữu (the being) của Chúa Kitô. Chữ “genésthai” được dùng trong bản văn Hy Lạp chỉ về Abraham thực sự có nghĩa là “trở nên” (to become), hay “hình thành” (to come into being): nó là một động từ xác đáng để chỉ về thể thức hiện hữu hợp với loài tạo vật. Ngược lại, chỉ có một mình Chúa Giêsu mới có thể nói: “Tôi hiện hữu” (I am), một diễn tả xác định mức độ hoàn toàn của hiện thể, vượt ra ngoài tất cả những năng thể. Như thế là Người chứng tỏ Người nhận thức được việc Người có một hiện hữu cá biệt từ đời đời.
3- Khi áp dụng lời “Tôi hiện hữu” cho chính mình, Chúa Giêsu đã làm cho danh của Thiên Chúa thành tên của Người, một danh xưng được tỏ cho Moisen trong sách Xuất Hành. Sau khi trao cho Moisen sứ mệnh giải thoát dân của mình khỏi cảnh làm tôi ở Ai Cập, Giavê là Chúa đã bảo đảm sẽ hộ giúp và sát cánh với Moisen, và để đoan quyết cho lòng trung thành của mình, Ngài đã tỏ cho ông biết mầu nhiệm danh tánh của Ngài: “Ta là Đấng hiện hữu” (Ex.3:14). Nhờ đó, Moisen có thể nói cùng các người Yến-Duyên rằng: “Đấng hiện hữu đã sai tôi đến với qúi vị” (ibid.). Danh xưng này chẳng những nói lên sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa dành cho dân của Ngài, mà còn nói lên mầu nhiệm khôn thấu của Ngài.
Chúa Giêsu lấy danh hiệu thần linh này làm của mình. Trong Phúc Aâm thánh Gioan, lời diễn tả này xuất hiện một số lần trên môi miệng Người (xem 8:24,28,58;13:19). Với danh hiệu này, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy một cách thực sự rằng, nơi bản thân Người, vĩnh cửu chẳng những có trước thời gian mà còn đi vào thời gian nữa.
Cho dù chia sẻ với thân phận con người, Chúa Giêsu vẫn nhận thức được việc hiện hữu đời đời của mình, một hiện hữu khiến cho tất cả mọi hoạt động của Người có một giá trị cao cả hơn. Chính Người đã nhấn mạnh giá trị đời đời này: “Trời đất có qua đi nhưng những lời của Tôi sẽ không qua đi” (Mk.13:31; par.). Những lời của Người, cũng như những tác hành của Người, có một giá trị chuyên biệt chung kết, và sẽ tiếp tục kêu gọi loài người đáp ứng cho đến cùng thời gian.
4- Việc làm của Chúa Giêsu có hai phương diện liên hệ chặt chẽ với nhau: việc của Người là một việc cứu độ giải thoát con người khỏi quyền lực sự dữ, việc của Người cũng là một việc tân tạo để con người được tham dự vào sự sống thần linh.
Việc giải thoát khỏi sự dữ đã được báo trước trong Cựu Ước, nhưng chỉ một mình Đức Kitô mới hoàn toàn chiếm được nó. Chỉ có một mình Người là Con mới có quyền năng vĩnh hằng trên lịch sử con người: “Nếu Con giải thoát cho qúi vị, qúi vị sẽ thực sự được giải thoát” (Jn.8:36). Thư gửi cho giáo đoàn Do Thái cũng hết sức nhấn mạnh đến sự thật này, khi tỏ cho thấy hy tế duy nhất của Con đã chiếm lấy cho chúng ta “ơn cứu độ đời đời” (Heb.9:12), vượt trên giá trị của những hy tế Cựu Ước.
Việc tân tạo chỉ có thể đạt được bởi Đấng toàn năng, vì nó bao hàm việc thông truyền sự sống thần linh cho việc hiện hữu của con người.
5- Quan điểm về nguồn gốc đời đời của Lời, đặc biệt được nhấn mạnh trong Phúc Aâm thánh Gioan, thôi thúc chúng ta đi sâu hơn vào mầu nhiệm này.
Bởi thế, chúng ta hãy tiến đến Cuộc Mừng Kỷ Niệm, bằng việc tuyên xưng đức tin của mình nơi Đức Kitô càng ngày càng mãnh liệt hơn bao giờ hết: “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Aùnh Sáng bởi Aùnh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”. Những đoạn của Kinh Tin Kính đây hiến cho chúng ta lối tiến vào mầu nhiệm này; chúng là một lời mời gọi tiến đến mầu nhiệm này. Chúa Giêsu tiếp tục làm chứng cho thế hệ của chúng ta, như Người đã làm 2000 năm trước đối với các môn đệ của Người cũng như với những ai nghe Người, về việc Người nhận thức được căn tính thần linh của Người: mầu nhiệm Tôi hiện hữu.
Vì mầu nhiệm này, lịch sử nhân loại không còn rơi vào tình trạng băng hoại nữa, nhưng có một ý nghĩa và một hướng đi: một cách nào đó, lịch sử nhân loại đã được thai nghén với vĩnh cửu. Lời hứa an ủi mà Chúa Kitô đã nói với các môn đệ của Người vang lên cho mọi người là: “Này đây Thày luôn ở cùng các con cho đến cùng thời gian” (Mt.28:20).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC” 3.- “Totus Tuus”: Tác Hiệu
·
Những lời chia sẻ rất chân thành trên đây của Đức Gioan Phaolô II cho thấy là ngài, qua câu: “Mẹ Maria hiện ra với 3 thiếu nhi Fatima ở Bồ Đào Nha và nói với các em những lời mà giờ đây, vào cuối thế kỷ này, dường như đã gần được nên trọn”, muốn nói tới lời tiên tri của Mẹ Maria ở Fatima, cuối phần Bí Mật Fatima thứ hai, thế này: “Cuối cùng, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ hiến dâng Nước Nga cho Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại và thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình”.
Những lời tiên báo của Mẹ Maria ở Fatima ngày 13/7/1917 này quả thực đã xẩy ra đúng từng chấm từng phẩy. Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria đã không thực sự “thắng” hay sao, khi mà, trước hết, Đức Gioan Phaolô II đã hợp cùng hàng giáo phẩm trên thế giới hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ ngày 25/3/1984 ở Giáo Đô Vatican; sau đó, Nước Nga đã trở lại, bằng cách tự động (chứ không phải bởi áp lực kinh tế hay chính trị từ khối tư bản trong thời Chiến Tranh Lạnh) giải thể chế độ và từ bỏ chủ nghĩa Cộng Sản; và nhờ đó, thế giới đã được hưởng một thời gian hòa bình… Một thời gian hòa bình bao lâu? Phải chăng thời gian bao lâu này là những gì được hàm ẩn nơi lời “dường như đã gần được nên trọn” của Đức Gioan Phaolô II trên đây, những lời ngài nói sau khi Nước Nga đã trở lại, qua tác phẩm “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” được xuất bản năm 1994.
Theo lịch sử diễn tiến cho thấy thì “thế giới được hưởng một thời gian hòa bình” là 10 năm. Không phải hay sao, nếu tính từ năm 1991, năm Nước Nga trở lại, thì biến cố 9/11 (2001) ở Hoa Kỳ, một biến cố khủng bố tấn công ngay giữa thanh thiên bạch nhật của một nhóm thuộc thế giới Hồi Giáo, một biến cố từ đó đã đẩy thế giới vào một giai đoạn lịch sử mới, hoàn toàn mới: một thế giới bạo loạn hơn bao giờ hết, một nhân loại hận thù sát hại nhau hơn bao giờ hết! Việc xuất hiện của một lực lượng thứ ba, đó là lực lượng khủng bố xuất phát từ một số thành phần thuộc Hồi Giáo, (sau lực lượng Cộng Sản sụp đổ ở Đông Âu năm 1989, nhất là Nga Sô năm 1991), một lực lượng thứ ba ngang nhiên ra mặt chống Hoa Kỳ là đệ nhất cường quốc tiêu biểu cho lực lượng tư bản và khối Tây Phương, phải chăng là những gì đã ứng nghiệm lời tiên báo của Thánh Long Mộng Phố trong tác phẩm “Luận về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria” của thánh nhân ở đoạn số 58 nhất là 59, những đoạn được vị thánh tác giả này, ngay từ đầu thế kỷ 18, đã viết về việc Thiên Chúa chiến thắng qua Mẹ Maria, đúng như cảm nhận của Đức Gioan Phaolô II trên đây, liên quan đến lời kêu gọi mở đầu cho giáo triều của ngài: “Đừng sợ!”. Câu của Thánh Long Mộng Phố là thế này:
“Họ sẽ là những vị tông đồ đích thực của những thời buổi sau này, thành phần mà Chúa các Đạo Binh sẽ ban cho họ lời nói và sức mạnh để họ thực hiện những điều kỳ diệu và vinh thắng tước đoạt các chiến lợi phẩm từ tay quân thù của Người...” (cùng nguồn, đoạn 58).
“Tóm lại, chúng ta biết rằng họ sẽ là thành phần môn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô, bước theo gót chân nghèo hèn, khiêm hạ, bị thế gian khinh chê, yêu thương bác ái của Người; họ giảng dạy con đường hẹp của Thiên Chúa bằng sự thật nguyên vẹn của Thiên Chúa theo Phúc Âm thánh hảo, chứ không theo những tâm niệm của thế gian... Họ sẽ ngậm nơi miệng của mình thanh gươm hai lưỡi Lời Thiên Chúa. Họ sẽ vác trên vai mình một thứ Thánh Giá đẫm máu, tay phải của họ cầm Tượng Chuộc Tội, tay trái của họ nắm Tràng Kinh Mân Côi, con tim của họ ghi Thánh Danh Chúa Giêsu và Mẹ Maria, hành vi cử chỉ của họ bộc lộ đức hạnh và khổ hạnh của Chúa Giêsu Kitô. Họ là những con người cao cả sẽ phải đến; còn Mẹ Maria, theo lệnh của Đấng Tối Cao, chính là vị sẽ trang bị cho họ, để vương quốc của Ngài bao trùm trên vương quốc của người vô đạo, vương quốc của kẻ tôn thờ ngẫu tượng và vương quốc của Tín Đồ Hồi Giáo” ( đoạn 59).
"Tình thương là một chiều kích không thể nào tách rời của tình yêu; nó thực sự như là một danh hiệu thứ hai của tình yêu"
"Sứ điệp thiên sai của Đức Kitô và hoạt động của Người giữa con người được kết thúc ở thập giá và cuộc phục sinh của Người... "Những biến cố của Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, và cả những biến cố trước đó, trong cuộc cầu nguyện ở Vườn Nhiệt, đưa đến một thay đổi toàn diện tất cả diễn trình mạc khải về tình yêu và lòng thương xót nơi sứ vụ thiên sai của Đức Kitô. Người là Đấng 'đi đây đó làm phúc và chữa trị' (Acts 10:38) và 'chữa khỏi mọi bệnh hoạn yếu đau' (Mt.9:35), nay lại chính là Đấng đáng thương nhất và là Đấng thiết tha kêu cầu tình thương, khi Người bị tống giam, bị xử tệ, bị lên án, bị hành hình, chịu đội mạo gai, khi Người bị đóng đanh trên cây thập giá và chết giữa những cực hình đau thương (x.Mk.15:37; Jn.19:30). Chính lúc bấy giờ là lúc Người đặc biệt xứng đáng được con người thương xót, thành phần Người đã làm ơn cho, song Người không được họ thương. Ngay cả những kẻ gần Người nhất cũng không thể bảo vệ Người và giật Người khỏi tay những kẻ đàn áp Người. Ở giai đoạn cuối cùng trong hoạt động thiên sai của Người này, những lời tiên tri, nhất là của Isaia, đã nói về Người Tôi Tớ của Giavê đã được nên trọn nơi Đức Kitô: 'Chúng ta được chữa lành nhờ những vết thương của Người' (Is.53:5). "Đức Kitô, một con người thực sự chịu khổ, và chịu khổ một cách khủng khiếp trong Vườn Cây Dầu và trên đồi Canvê, đã tự nói cùng Cha - một Người Cha mà Người đã giảng dậy tình yêu của Ngài cho con người, một Người Cha mà Người đã dùng tất cả mọi hoạt động của mình để làm chứng cho tình thương của Ngài. Thế nhưng Người cũng không được dung tha - bất kể là Người đi nữa - cho khỏi đau khổ khủng khiếp của cái chết trên thập giá: 'Vì chúng ta, Thiên Chúa đã làm cho Người là Đấng không biết đến tội lỗi thành tội lỗi' (2Cor.5:21). Thánh Phaolô sẽ viết, tóm tắt trong mấy chữ, tất cả tầm mức sâu xa của thập giá cùng với chiều kích thần linh nơi thực tại của việc Cứu Chuộc. Việc Cứu Chuộc này là mạc khải tối hậu và chính thực về đức thành thiện của Thiên Chúa, Đấng tuyệt đối viên toàn trọn hảo: viên toàn công chính và yêu thương, vì công chính dựa trên yêu thương, phát xuất từ yêu thương và qui về yêu thương. Trong cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Kitô - vì Chúa Cha đã không dung tha cho Con Một mình, song 'vì chúng ta mà làm cho Người nên tội lỗi' - công lý tuyệt đối đã được thể hiện, vì Đức Kitô đã chịu thương khó và thập giá bởi tội lỗi của nhân loại. Điều này tạo nên cả một mức độ 'thặng dư' của đức công chính, vì các tội lỗi của loài người được 'đền bù' bằng hy sinh của một vị Thiên Chúa làm Người (the Man-God). Tuy nhiên, đức công chính này, một đức công chính xứng hợp 'với tầm vóc của Thiên Chúa', lại hoàn toàn phát xuất từ tình yêu: từ tình yêu của Cha và của Con, hoàn toàn sinh hoa kết trái trong tình yêu. Chính vì lý do này mà đức công chính thần linh được tỏ hiện nơi thập giá của Đức Kitô hợp 'với tầm vóc của Thiên Chúa', vì nó phát xuất từ tình yêu và được hoàn tất trong tình yêu, sinh hoa trái kết trái cứu độ. Chiều kích thần linh của việc cứu chuộc này mang lại hiệu qủa, không những bằng cách đem lại cho đức công chính cuộc thắng trị trên tội lỗi, mà còn bằng cách phục hồi cho tình yêu quyền năng tạo tác nơi con người, nhờ đó, một lần nữa, họ có thể đạt được mức độ viên trọn của sự sống và thánh thiện do Thiên Chúa ban. Như thế, việc cứu chuộc bao gồm việc mạc khải của tình thương trong mức độ viên trọn của nó. "Mầu Nhiệm Vượt Qua là tột đỉnh của mạc khải cùng với hiệu qủa của tình thương này, một tình thương có thể công chính hóa con người, có thể phục hồi đức công chính trong ý nghĩa của trật tự cứu độ mà Thiên Chúa muốn có từ ban đầu nơi con người, và qua con người, nơi cả thế giới nữa. Đức Kitô khổ nạn nói với con người một cách đặc biệt, chứ không riêng gì tín hữu. Người không phải là tín hữu cũng có thể khám phá ra nơi Người lời nói hùng hồn về tình đoàn kết nơi quyết định của con người, cũng như khám phá nơi Người mức độ viên trọn hòa điệu của việc hiến thân vô vị lợi vì con người, cho chân lý và cho tình yêu. Tuy thế, chiều kích thần linh của Mầu Nhiệm Vượt Qua này còn sâu xa hơn nữa. Thập giá ở đồi Canvê, thập giá mà trên ấy Đức Kitô đã thực hiện một cuộc đối thoại cuối cùng với Cha, phát xuất từ chính tâm điểm của tình yêu mà con người, được dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Thiên Chúa, đã được ban cho như một tặng ân, theo dự án đời đời của Thiên Chúa. Thiên Chúa, như Đức Kitô đã mạc khải về Ngài, không chỉ gắn liền với thế giới như một Hóa Công và như một nguồn mạch tối hậu của việc hiện hữu. Ngài cũng là Cha: Ngài gắn liền với con người, thành phần mà Ngài đã kêu gọi vào thế giới hữu hình này, bằng một liên hệ còn thân tình hơn cả mối liên hệ tạo thành nữa. Đó là tình yêu, một tình yêu chẳng những tạo nên sự thiện mà còn ban cho nó được tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần. Vì Ngài là Đấng yêu thương muốn ban chính bản thân mình. "Thập giá của Đức Kitô trên đồi Canvê được dựng đứng bên cạnh con đường của admirabile commercium ấy, của việc thông ban kỳ diệu của Thiên Chúa cho con người ấy, cũng chất chứa cả một lời kêu mời con người đến để chia sẻ với sự sống thần linh, bằng việc họ hiến chính bản thân mình, và cùng với chính bản thân họ là toàn thể thế giới hữu hình, cho Thiên Chúa, và như một người con được thừa nhận, họ cũng được kêu mời đến để trở nên một người thừa hưởng trong chân lý và tình yêu, tức trong Thiên Chúa và từ Thiên Chúa. Chính ở bên cạnh con đường đời đời được tuyển chọn của con người này đến phẩm vị được thừa nhận làm dưỡng tử của Thiên Chúa mà trong lịch sử mới dựng đứng cây thập giá của Đức Kitô, Người Con duy nhất, Đấng 'là ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật', đã đến để minh chứng tối hậu cho giao ước diệu kỳ của Thiên Chúa với nhân tính, của Thiên Chúa với con người - với mọi người. Giao ước này, cổ như con người - bắt đầu từ chính mầu nhiệm tạo dựng - và sau đó, nhiều lần được canh tân với một dân được tuyển chọn duy nhất, cũng là giao ước mới và là giao ước sau cùng được thiết lập trên đồi Canvê ấy, không chỉ cho riêng một dân nào, cho Ích-Diên, mà là lập nên cho mỗi người và cho mọi người. "Thế thì thập giá của Đức Kitô còn gì để nói với chúng ta nữa, một thập giá mà, theo một nghĩa nào đó, là lời nói sau cùng của sứ điệp và sứ vụ thiên sai của Người? Thế mà đây cũng chưa phải là lời của một vị Thiên Chúa giao ước: lời đó sẽ được công bố vào lúc rạng đông, khi mà đầu tiên là các người nữ, sau đó đến các Tông Đồ, đến mồ của Đức Kitô tử giá, thấy ngôi mộ trống và thoạt tiên nghe thấy sứ điệp: 'Ngài sống lại' Họ sẽ lập lại sứ điệp này cho những người khác và sẽ là những nhân chứng cho Chúa Kitô phục sinh. Tuy nhiên, ngay cả trong cuộc khởi hoàn này của Con Thiên Chúa, thập giá vẫn còn đó, thập giá mà - nhờ tất cả chứng từ thiên sai của Con Người, Đấng đã chịu chết vì nó - nói và không ngừng nói về Thiên Chúa là Cha, Đấng tuyệt đối trung thành với tình yêu đời đời của Ngài dành cho con người, vì Ngài 'qúa yêu thế gian' - vì thế con người mới ở trong thế gian - đến nỗi 'đã ban Con một mình, để ai tin Con sẽ không phải chết nhưng được sự sống muôn đời' (Jn.3:16). Tin vào Người Con tử giá tức là 'thấy Cha' (Jn.14:9), tức là tin rằng tình yêu hiện diện trong thế giới này, và tình yêu này mạnh hơn bất cứ một loại sự dữ nào vây bọc cá nhân, loài người hay thế giới. Tin vào tình yêu này là tin vào tình thương. Vì tình thương là một chiều kích không thể nào tách rời của tình yêu; nó thực sự như là một danh hiệu thứ hai của tình yêu, đồng thời, là một thể thức đặc biệt cho tình yêu tỏ mình ra và tác dụng ngược lại với thực tại của sự dữ trong thế giới đang chi phối và bủa vây con người, đang thấm vào tận tâm can họ và có khả năng khiến cho họ bị 'tử vong trong Hỏa Ngục' (Mt.10:28)".
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II: VỊ GIÁO HOÀNG CỦA ĐẠI KẾT TOÀN CẦU Ngày Hoà Giải: Xin Lỗi và Thứ Lỗi (tiếp)
Trong Tông Sắc Mầu Nhiệm Nhập Thể Incarnationis mysterium, ký ngày 29/11/1998, ở ngay đầu khoản số 11, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II còn nhắc lại vấn đề này như sau:
· “Việc thanh tẩy ký ức kêu gọi mọi người hãy thực hiện một hành động của lòng can đảm và khiêm tốn trong việc nhìn nhận những lỗi lầm đã vấp phạm bởi những ai đã hay đang mang danh Kitô hữu”.
Chính ngài đã làm gương trong việc ngài kêu gọi mọi người làm ấy trong Ngày Thứ Tha 12/3/2000, Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay. Ngài đã nhân danh Giáo Hội chính thức công khai lên tiếng xin lỗi và thứ lỗi trong bài giảng của ngài, ở đoạn 3 và 4, như sau:
“Trước Chúa Kitô là Đấng vì yêu thương đã nhận lấy tội lỗi của chúng ta, tất cả chúng ta được mời gọi để thực hiện một cuộc sâu xa tra vấn lương tâm. Một trong những yếu tố đặc biệt của Đại Năm Thánh là những gì tôi đã diễn ta như là ‘việc thanh tẩy ký ức’ (Tông Sắc Mầu Nhiệm Nhập Thể, 11). Với tư cách là vị Thừa Kế Thánh Phêrô, tôi đã xin là ‘trong năm tình thương này, Giáo Hội, vững mạnh trong thánh đức là những gì Giáo Hội lãnh nhận từ Chúa, cần phải quì xuống trước nhan Thiên Chúa mà van xin ngài tha thứ cho những tội lỗi quá khứ và hiện tại của thành phần con cái nam nữ của mình’ (cùng nguồn vừa dẫn). Hôm nay, Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay, tôi cho rằng là một cơ hội thích hợp cho Giáo Hội, qui tụ lại trong tinh thần chung quanh Vị Thừa Kế Thánh Phêrô, nài xin Chúa thứ tha cho các tội lỗi của tất cả mọi tín hữu. Chúng ta hãy thứ lỗi và hãy xin lỗi!” (khoản số 3)
“Chúng ta hãy thứ lỗi và hãy xin lỗi! Trong khi chúng ta chúc tụng Thiên Chúa là Đấng, vì tình yêu nhân hậu của Ngài, đã làm phát sinh trong Giáo Hội một mùa thua hoạch tuyệt vời về thánh đức, về nhiệt tình truyền giáo, về việc hoàn toàn dấn thân cho Chúa Kitô và cho tha nhân, chúng ta cũng không thể không nhìn nhận những bất trung với Phúc Âm gây ra bởi một số trong anh chị em của chúng ta, nhất là trong ngàn năm thứ hai. Chúng ta hãy xin Ngài tha thứ về những chia rẽ đã xẩy ra nơi thành phần Kitô hữu, về việc bạo lực đã được một số người sử dụng nhân danh sự thật, cũng như về những thái độ khinh thường và thù hằn đôi khi được tỏ ra đối với những tín đồ của các đạo giáo khác.
“Hơn thế nữa, chúng ta hãy xưng thú trách nhiệm của chúng ta là Kitô hữu đối với các sự dữ xẩy ra ngày nay. Chúng ta phải tự hỏi mình về trách nhiệm của chúng ta đối với chủ nghĩa vô thần, với tình trạng khô khan nguội lạnh, với trào lưu tục hóa, với khuynh hương tương đối hóa đạo lý, với những thứ vi phạm đến quyền sống, chưa kể đến đối với thành phần nghèo ở nhiều xứ sở.
“Chúng ta hãy hạ mình xuống xin tha thứ cho việc góp phần của mỗi một người trong chúng ta đối với những thứ sự dữ ấy qua những hành động của mình là những gì bởi thế làm méo mó dung nhan của Giáo Hội.
“Đồng thời, khi chúng ta xưng thú tội lỗi của mình, chúng ta cũng hãy thứ tha tội lỗi do người khác phạm đến chúng ta. Vô số lần trong giòng lịch sử Kitô hữu đã phải chịu đựng khốn khó, đàn áp và bách hại vì đức tin của họ. Như thành phần nạn nhân của những thứ lạm dụng ấy đã tha thứ cho họ thì chúng ta cũng hãy thứ tha nữa. Giáo Hội hôm nay đây cảm thấy và luôn cảm thấy cần phải thanh tẩy ký ức về những biến cố đau buồn ấy cho khỏi mọi cảm giác đắng cay hay trả đũa. Nhờ đó, Năm Thánh mới trở nên cho mọi người một cơ hội thuận lợi để thực tình trở về với Phúc Âm. Việc chấp nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa phải dẫn đến chỗ quyết tâm thứ tha cho anh chị em của chúng ta và hòa giải với họ” (khoản số 4).
(còn tiếp)
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
||
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |