THỨ BẢY 12/4/2008

 

Tuần Tưởng Niệm Đại Giáo Hoàng Gioan Phaolô II băng hà 3 năm 2/4/2005-2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Chiêm Ngưỡng Mầu Nhiệm Nhập Thể Giáng Sinh

Nơi Chúa Kitô, Thời Gian Nhân Trần đã được Tràn Đầy Vĩnh Cửu

   CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC”

2.- “Totus Tuus”: Hiện Thực - “Chúa Kitô sẽ chiến thắng qua Mẹ”: Vương Quốc của Thiên Chúa bao trùm…

   MẾN Yêu Thánh Thể  

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

"Đức Kitô vượt qua thực sự là cuộc nhập thể của tình thương, là dấu hiệu sống động của tình thương: trong lịch sử cứu độ cũng như vào lúc cánh chung"

Thông Điệp "Giầu Lòng Thương Xót - Dives in Misericordia"               

YÊU Thương Tha Nhân              

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II: VỊ GIÁO HOÀNG CỦA ĐẠI KẾT TOÀN CẦU

Ngày Hoà Giải: Xin Lỗi và Thứ Lỗi (tiêp)

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI
 

 

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

 

Chiêm Ngưỡng Mầu Nhiệm Nhập Thể Giáng Sinh  

 

Nơi Chúa Kitô, Thời Gian Nhân Trần đã được Tràn Đầy Vĩnh Cửu   

 

(Bài Giáo Lý dọn mừng Đại Năm Thánh 2000 ngày 10-12-1997; Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch)

 

 

 

“T

rong việc kêu mời chúng ta cùng tưởng niệm 2000 năm Kitô giáo, Cuộc Mừng Kỷ Niệm này đưa chúng ta về lại với biến cố khai mở cho kỷ nguyên Kitô giáo: đó là việc hạ sinh của Chúa Giêsu. Phúc Aâm thánh Luca kể cho chúng ta nghe về biến cố phi thường này bằng những lời đơn sơ và cảm kích: Maria “đã sinh con trai đầu lòng, bọc Người trong khăn và đặt Người nằm trong máng cỏ, vì không có quán trọ để trú ngụ” (2:7).

         

Việc hạ sinh của Chúa Giêsu làm cho mầu nhiệm Nhập Thể đã được hiện thực nơi cung dạ của Đức Nữ Trinh trong ngày Truyền Tin trở thành tỏ tường. Thật thế, Đức Trinh Nữ hạ sinh con trẻ này ở chỗ, là một dụng cụ chân thành và dễ dậy đối với ý định thần linh, Đức Trinh Nữ đã thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Linh. Nhờ nhân tính mặc lấy trong cung dạ của Mẹ Maria, Con hằng hữu của Thiên Chúa bắt đầu sống như một con trẻ, và lớn lên “trong khôn ngoan và tầm vóc, đẹp lòng Thiên Chúa và loài người” (Lk.2:52). Như thế Người tỏ mình ra Người là con người thật.

 

2-       Sự thật này được thánh Gioan nhấn mạnh trong Phần Nhập Đề Phúc Aâm cùa mình, khi viết: “Lời đã hoá thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (1:14). Khi viết “hoá thành nhục thể”, Thánh Ký chẳng những đang có ý nói đến nhân tính của Người theo thân phận tử vong mà còn với tính cách nguyên trọn nữa. Con Thiên Chúa đã mặc lấy tất cả những gì là nhân loại, ngoại trừ tội lỗi. Việc Nhập Thể là hoa trái của một tình yêu bao la, một tình yêu đã thúc đẩy Thiên Chúa tự động chia sẻ trọn vẹn thân phận loài người của chúng ta.

         

Trong việc trở nên con người, Lời Thiên Chúa đã mang lại một đổi thay sâu đậm nơi chính thân phận của thời gian. Chúng ta có thể nói rằng nơi Chúa Kitô thời gian nhân trần đã được tràn đầy vĩnh cửu.

         

Cuộc biến đổi này chạm đến định mệnh của tất cả nhân loại, vì “bởi việc Nhập Thể của mình, Người, Con Thiên Chúa, bằng một cách nào đó, đã liên kết mình với mỗi một người” (Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, đoạn 22). Người đã đến để hiến tặng cho mỗi một người việc thông dự vào sự sống thần linh của Người. Tặng ân của sự sống đời này bao gồm cả việc chia sẻ với cõi trường sinh của Người. Chúa Giêsu đã phán điều liên quan đến Thánh Thể này một cách rất đặc biệt: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì có sự sống đời đời” (Jn.6:54). Hiệu quả của bữa tiệc Thánh Thể đó là chúng ta có được sự sống này. Ngoài ra, Chúa Giêsu cũng đã xác định cùng một ý nghĩa như thế với hình ảnh tượng trưng của nước hằng sống làm cho giãn khát, một thứ nước hằng sống của Thần Linh được ban phát liên quan đến sự sống đời đời (x.Jn.4:14). Như thế, sự sống ân sủng đã cho thấy một chiều kích trường sinh, một chiều kích thăng hoa việc hiện hữu trần thế của chúng ta, và không ngừng liên tục hướng dẫn việc hiện hữu trần thế của chúng ta cho tới ngưỡng cửa sự sống thiên đình.

 

3-       Việc thông truyền sự sống trường sinh của Chúa Kitô còn có nghĩa là chúng ta thông phần với thái độ con cái mến thảo của Người đối với Chúa Cha.

         

Từ đời đời, “Lời ở với Thiên Chúa” (Jn.1:1), nghĩa là, ở trong một mối gắn bó trọn hảo hiệp thông với Chúa Cha. Khi Người hoá thành nhục thể, mối gắn bó này bắt đầu được diễn đạt ra nơi tất cả mọi tác hành của Chúa Giêsu. Con đã sống hiệp thông liên lỉ với Cha trên thế gian bằng một thái độ của đức tuân phục mến yêu trọn hảo.

         

Việc vĩnh cửu đi vào thời gian nơi cuộc sống trần gian của Chúa Giêsu là cửa ngõ của tình yêu đời đời liên kết Con với Cha. Bức thư gửi giáo đoàn Do Thái đề cập đến mối liên kết này khi nói về thái độ nội tại của Chúa Kitô vào chính lúc Người vào đời: “Này Con xin đến để thực thi ý Chúa, Oâi Thiên Chúa” (10:7). “Cái nhảy” vọt bao la từ sự sống thiên quốc của Con Thiên Chúa vào hố thẳm hiện hữu của loài người được kích động bởi ý muốn tự toàn hiến của Người trong việc hoàn tất ý định của Cha.

         

Chúng ta được kêu gọi để mặc lấy cùng một thái độ này, bằng cách bước theo con đường Con Thiên Chúa làm người đã khai mở, để chúng ta có thể thông phần cuộc hành trình của Người về với Chúa Cha. Cuộc sống trường sinh hội nhập với chúng ta là một quyền năng thống trị của yêu thương, một quyền năng tìm cách hướng dẫn trọn cuộc sống của chúng ta về tới mục đích tối thượng của mình được dấu ẩn nơi mầu nhiệm của Chúa Cha. Chính Chúa Giêsu đã nối kết hai hướng động bất khả phân ly xuống và lên xác nghĩa Nhập Thể này: “Từ Cha mà Thày đã đến và đã đến trong thế gian; để rồi, Thày lìa bỏ thế gian mà về cùng Cha” (Jn.16:28).

         

Cuộc sống trường sinh đã đi vào cuộc sống loài người. Bởi vậy cuộc sống loài người được kêu gọi để thực hiện cuộc hành trình với Chúa Kitô từ thời gian về vĩnh cửu.

 

4-       Nếu thời gian nơi Chúa Kitô được nâng lên tới một mức độ cao hơn, khi nhận đuợc khả năng tiến tới vĩnh cửu, thì có nghĩa là việc ngàn năm đang tiến tới không được coi như một tiến bước thuần túy theo giòng thời gian, mà là như một chặng hành trình của nhân loại hướng về đinh mệnh chung cuộc của nó.

 

Năm 2000 không phải chỉ là cửa qua một ngàn năm khác; nó là cửa cho cõi trường sinh mà, trong Chúa Kitô, tiếp tục mở ra trong thời gian để ban cho nó một hướng đi đích thực cũng như một ý nghĩa chuyên chính.

 

Năm 2000 tỏ bày cho tâm trí và cõi lòng của chúng ta một cái nhìn bao rộng hơn liên quan đến tương lai. Thời gian thường không được tri nhận. Nó dường như làm con người thất vọng về tình trạng bất ổn của nó, về việc trôi qua nhanh chóng của nó, khiến cho tất cả mọi sự thành vô dụng. Thế nhưng, nếu vĩnh cửu đã hội nhập thời gian, thì không thể chối bỏ được cái giá trị phong phú của chính thời gian. Việc trôi đi dứt khoát không phải là một hành trình tiến đến hư vô, mà là một hành trình tiến về vĩnh cửu.

 

Cái nguy hiểm thực sự không phải là việc trôi theo thời gian, mà là sử dụng nó một cách tệ hại, khi chối bỏ sự sống đời đời được Chúa Kitô hiến ban. Ước vọng được sự sống và hạnh phúc trường sinh phải được tái thức tỉnh không ngừng nơi tâm can con người. Việc cử hành Cuộc Mừng Kỷ Niệm có một ý nghĩa đích thực là làm tăng phát niềm ước vọng này, giúp cho các tín hữu và con người của thời đại chúng ta mở lòng mình ra cho một cuộc sống vô biên.  

 

 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC”

3.-  “Totus Tuus”: Tác Hiệu

  

 

·        

“Chúa Kitô sẽ chiến thắng qua Mẹ”: Vương Quốc của Thiên Chúa bao trùm…

 

Những lời trên đây của Thánh Long Mộng Phố chẳng những cho thấy việc Thiên Chúa chiến thắng qua Mẹ Maria, mà còn cả phương tiện được Ngài sử dụng trong tay Mẹ Maria để thực hiện cuộc chiến thắng này “là thành phần môn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô”, trong đó còn ai hơn (căn cứ vào những gì được thánh nhân diễn tả cùng đoạn và bản thân của vị giáo hoàng thứ 264 “đến từ một xứ sở xa xôi”) Đức Gioan Phaolô II. Ngoài ra, cũng trong lời tiên báo trên đây của Thánh Nhân, thì thứ tự sụp đổ của ba vương quốc bị bao trùm bởi vương quốc của Thiên Chúa này, đó là, trước hết, “vương quốc của người vô đạo”, sau đó đến “vương quốc của kẻ tôn thờ ngẫu tượng”, và  cuối cùng mới tới “vương quốc của Tín Đồ Hồi Giáo”.

 

Lịch sử đã cho thấy lời tiên báo này đã và đang trở thành sự thật, ở chỗ, vương quốc thứ nhất là vương quốc của người vô đạo, được hiện thân nơi chế độ vô thần Cộng Sản, thế mà, vương quốc này đã bị vương quốc của Thiên Chúa là Giáo Hội Công Giáo nói chung và thế lực thiêng liêng của Đức Gioan Phaolô II nói riêng bao trùm, qua hiện tượng tự động sụp đổ của Khối Cộng Sản Đông Âu năm 1989 và tự động giải thể của Khối Cộng Sản Liên Bang Sô Viết năm 1991. (Nếu cả một lực lượng Cộng Sản đầu não của Cộng Sản là Liên Sô và Đông Âu còn bị vương quốc của Thiên Chúa bao trùm như thế, thì vấn đề tồn tại của tàn quân Cộng Sản nơi Trung Quốc, Việt Nam, Cuba và Bắc Hàn chỉ là một hiện tượng chẳng những đang mờ dần trước nạn khủng bố toàn cầu hiện nay mà còn đang chìm vào thế giới văn minh nhân quyền, gắng gượng bám víu lấy cái phao tư bản để sống còn trong trạng thái biến dạng).

 

Nếu vương quốc của Thiên Chúa, qua “Mẹ Đấng Cứu Chuộc”, đã quả thực, như lịch sử cho thấy, bao trùm vương quốc của thành phần vô đạo là Cộng Sản như thế, thì vương quốc của Thiên Chúa sẽ bao trùm vương quốc của lực lượng tôn thờ ngẫu tượng là một thế giới Tây Phương duy nhân bản chỉ biết tôn thờ con bò vàng tuyệt đối tự do “pro choice” ở mọi lãnh vực của cuộc sống văn minh vật chất và nhân quyền của mình này ra sao? Có thể xẩy ra một trong hai trường hợp được suy đoán theo chiều hướng lịch sử: chiều hướng tự động đại kết Kitô Giáo và chiều hướng nhu cầu đại kết Kitô Giáo vì Hồi Giáo.

 

Trước hết, về chiều hướng tự động đại kết Kitô Giáo có thể sẽ xẩy ra thế này. Nếu xuất thân từ Balan, từ Đông Âu, Đức Gioan Phaolô II đã làm cho Cộng Sản Đông Âu Sụp Đổ, kéo theo cả sự sụp đổ của Bức Tường Bá Linh (Berlin Wall) là biểu hiệu cho tình trạng phân cách Châu Âu, một Đông Âu và một Tây Âu, thì Giáo Hoàng Biển Đức XVI, xuất thân từ Tây Âu, từ Đức Quốc, từ một quốc gia gây ra hai Thế Chiến trong thế kỷ 20, và cũng chính là nơi xuất phát ra phong trào Thệ Phản Cải Cách từ đầu thế kỷ 16, có thể là vị cũng sẽ được Thiên Chúa quan phòng sử dụng để thực hiện cho một Âu Châu Hiệp Nhất như vậy. Bởi vì, chỉ khi nào Tây Phương, tiêu biểu là Âu Châu (chưa kể Bắc Mỹ), trở về với căn tính của mình, qua việc Hiệp Nhất Kitô Giáo, bấy giờ họ mới có thể làm cho Âu Châu Hiệp Nhất, một Hiệp Nhất Âu Châu hiện đang quằn quại dẵm chân tại chỗ theo chiều hướng duy kinh tế và chính trị, và một khi Âu Châu Hiệp Nhất, thì Kitô Giáo, hiện thân vương quốc của Thiên Chúa, “vương quốc của Đấng Tối Cao bao trùm vương quốc của tín đồ Hồi Giáo”.

 

Sau nữa, về chiều hướng chiều hướng nhu cầu đại kết Kitô Giáo vì Hồi Giáo có thể xẩy ra như sau. Với những cuộc khủng bố tấn công liều mạng theo chủ nghĩa tuyệt mạng và bảo thủ cuồng tín của một số con người thuộc tín đồ Hồi Giáo, những cuộc khủng bố tấn công chẳng những vào các cơ sở đầu não về chính trị và kinh tế của đệ nhất cường quốc Hoa Kỳ, mà còn cả vào các nơi ăn chơi của người Tây Phương hay theo kiểu Tây Phương ở bất cứ nơi nào trên thế giới nữa (điển hình nhất ở Bali năm 2002), cuộc chiến này phần thắng có thể sẽ về tay Hồi Giáo. Họ thắng không phải vì họ có vũ khí và lực lượng quân sự cùng kinh tế mạnh hơn Tây Phương, nhưng vì Thiên Chúa muốn dùng họ để trừng phạt thế giới Tây Phương văn minh tội lỗi, như Ngài đã từng sử dụng “cái roi” Cộng Sản để trừng trị con cái của Ngài vì những bất công xã hội xẩy ra từ Thời Cách Mạng Kinh Tế.

 

Bấy giờ, phải, chỉ bấy giờ Kitô giáo, Công Giáo, Chính Thống Giáo, Anh Giáo và các giáo phái Tin Lành, vì định mệnh tồn vong của chung đạo giáo của mình, mới có thể gắn bó với nhau, mới có thể nhờ đó tiến đến chỗ hiệp nhất nên một Giáo Hội duy nhất như Chúa Kitô mong muốn, một tình trạng hiệp nhất mà nếu không ở trong hoàn cảnh như một dân Yến Duyên bị lưu đầy Babylon như thế, Kitô giáo chắc không thể nào hay rất khó lòng đạt được, dù có cố gắng đối thoại đại kết với nhau từ ngay sau Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962-8/12/1965). Nếu thực sự cần phải bị trừng trị bởi cái roi “Hồi Giáo”, Kitô giáo mới hiệp nhất nên một, thì không phải là Hồi Giáo chỉ là dụng cụ Thiên Chúa muốn dùng để thưc hiện ý định của Ngài hay sao, Đấng toàn năng có thể biến dữ nên lành cho những ai tin vào Ngài. Đằng nào cuối cùng thì “vương quốc của Đấng Tối Cao (cũng) bao trùm vương quốc của tín đồ Hồi Giáo” vậy.

 

Chưa hết, nếu Khối Cộng Sản Đông Âu, nhất là “Nước Nga trở lại”, là những gì có liên hệ với Biến Cố Fatima và Bí Mật Fatima, qua sự kiện trực tiếp liên quan tới bản thân của Đức Gioan Phaolô II, thì việc Âu Châu Hiệp Nhất, để “vương quốc của Đấng Tối Cao bao trùm vương quốc của tín đồ Hồi Giáo” cũng liên quan đến Biến Cố Fatima và Bí Mật Fatima như vậy. Bởi vì, không phải ngẫu nhiên Mẹ Maria chọn địa điểm hiện ra ở một nơi được gọi là “Fatima”, tên gọi của người con gái được vị Giáo Tổ Hồi Giáo Mohammed sinh ra. Và cũng không phải vô tình mà Mẹ Maria đã tự xưng mình ở Fatima ngày 13/10/1917 này rằng “Mẹ là Đức Mẹ Mân Côi”, một tước hiệu liên quan đến biến cố quân Kitô Giáo đang yếu thế đã có thể toàn thắng lực lượng dũng mãnh của Hồi Giáo ở trận hải chiến Lepantô năm 1571. 

 

Nếu thực sự, như Bí Mật Fatima phần thứ hai tiết lộ: “Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”, một thế giới đã được biến đổi sau Biến Cố Đông Âu cuối thập niên 1980 và Biến Cố Nước Nga đầu thập niên 1990, thì chắc chắn Ngài cũng sẽ làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến qua biến cố “vương quốc của Đấng Tối Cao bao trùm vương quốc của tín đồ Hồi Giáo”, bằng biến cố Âu Châu Hiệp Nhất, qua cuộc Hiệp Nhất Kitô Giáo, một cuộc Hiệp Nhất Kitô Giáo, biết đâu, sẽ xẩy ra vào năm 2017, dịp kỷ niệm 100 năm Biến Cố Fatima, cũng là dịp kỷ niệm đúng 500 năm xuất phát Phong Trào Thệ Phản Cải Cách ở Đức, năm có thể là cuối đời của Vị Giáo Hoàng Biển Đức XVI, vị đã lấy danh hiệu của mình theo Giáo Hoàng Biển Đức XV là vị Giáo Hoàng chăn dắt Giáo Hội Chúa vào thời điểm của Biến Cố Fatima.

 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 


Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

 

"Đức Kitô vượt qua thực sự là cuộc nhập thể của tình thương, là dấu hiệu sống động của tình thương: trong lịch sử cứu độ cũng như vào lúc cánh chung"

 

Thông Điệp "Giầu Lòng Thương Xót - Dives in Misericordia"

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh

 

8- "Thập giá của Đức Kitô trên đồi Canvê còn là một chứng cớ nói lên sức mạnh của sự dữ phạm đến chính Con Thiên Chúa, phạm đến Đấng duy nhất trong cả con cái loài người, theo bản tính của mình, tuyệt đối ngay lành (innocent) và không vương tội (free from sin), và cũng là Đấng đến trong thế gian không bị nhiễm lây việc bất tuân phục của Adong và bị nguyên tội truyền nhiễm. Mà đây, chính ở nơi Người, nơi Đức Kitô, công chính lại hành xử tội lỗi bằng giá hy sinh của Người, của việc Người tuân phục 'cho đến chết' (Phil.2:8). Người là Đấng vô tội mà 'Thiên Chúa lại vì chúng ta làm cho Người thành tội' (2Cor.5:21). Công chính cũng được thực thi để loại trừ sự chết, một sự chết mà ngay đầu lịch sử của con người đã bắt tay với tội lỗi. Sự chết bị công chính hành xử bằng giá của cái chết nơi Người là Đấng vô tội và là Đấng duy nhất, với cái chết của mình, bắt cái chết phải chết (to inflict death upon death) (1Cor.15:54-55). Như thế, thập giá của Đức Kitô, thập giá mà trên ấy, Người Con đồng bản thể với Cha, hoàn trả trọn vẹn công chính cho Thiên Chúa, cũng là tất cả mạc khải của tình thương, hay của tình yêu đương đầu với cái làm nên chính căn nguyên của sự dữ trong lịch sử cũa loài người: tức đương đầu với tội lỗi và sự chết.

            "Thập giá là một cuộc hiển hiện chính yếu nhất của Thiên Chúa trước con người và trước cái mà con người - đặc biệt trong những giây phút khó khăn và đau đớn - nhìn lên như là một định mệnh bất hạnh của mình. Thập giá chẳng khác gì như tình yêu đời đời chạm đến những vết thương đau đớn nhất trong cuộc hiện hữu trần gian của con người; nó là việc hoàn tất trọn vẹn chương trình thiên sai được Đức Kitô một lần phác họa trong hội đường thành Nazarét (x.Lk.4:18-21), và còn lập lại cho những sứ giả của Thánh Gioan Tẩy Giả (Lk.7:20-23). Theo những lời đã được viết trước của tiên tri Isaia (x.35:5;61:1-3), thì chương trình này gồm có việc mạc khải tình yêu nhân hậu cho người nghèo, kẻ khổ đau và những tù nhân, kẻ mù lòa, người bị áp bức và những tội nhân. Trong mầu nhiệm vượt qua, những giới hạn của sự dữ đa diện mà con người thừa hưởng nơi cuộc hiện hữu trần thế của mình bị khỏa lấp: thập giá của Đức Kitô, thật vậy, làm cho chúng ta hiểu rằng những cội gốc sâu xa nhất của sự dữ được gắn liền với tội lỗi và sự chết; do đó mà thập giá trở thành một dấu hiệu cánh chung (an eschatological sign). Chỉ trong việc hoàn thành cánh chung và cuộc canh tân cuối cùng của thế giới tình yêu mới thắng được, nơi tất cả mọi người được chọn, những gốc rễ sâu xa nhất của sự dữ, mang lại như những hoa trái chín mùi nhất của mình cho vương quốc sự sống và thánh thiện, cũng như cho một cuộc trường sinh bất tử hiển vinh. Nguồn gốc của việc hoàn thành cánh chung này đã được hàm chứa trong thập giá của Đức Kitô cũng như nơi cái chết của Người. Sự việc Đức Kitô 'ngày thứ ba sống lại' (1Cor.15:4) tạo nên một dấu hiệu cuối cùng cho sứ vụ thiên sai, một dấu hiệu làm hoàn hảo toàn thể mạc khải của tình yêu nhân hậu trong một thế giới bị lụy thuộc vào sự dữ. Đồng thời nó cũng làm nên một dấu hiệu báo trước 'một trời mới và một đất mới' (Rev.21:1), khi mà Thiên Chúa 'sẽ lau khô mọi giọt lệ cho khỏi mắt họ, sẽ không còn chết nữa, hay than van, khóc lóc, hay đớn đau, vì những gì trước đây đã qua đi' (Rev.21:4).

            "Trong việc hoàn thành cánh chung, tình thương sẽ được mạc khải như là tình yêu, ngược lại, ở giai đoạn tạm thời này, nơi lịch sử nhân loại cũng là lịch sử của tội lỗi và sự chết, tình yêu trước hết phải được mạc khải như là tình thương và cũng phải hiện thực như là tình thương. Chương trình thiên sai của Đức Kitô, một chương trình của tình thương, trở thành chương trình của dân Người, chương trình của Giáo Hội. Ngay chính tâm điểm của chương trình này luôn luôn vẫn là thập giá, vì chính ở nơi thập giá mà mạc khải của tình yêu nhân hậu đạt tới tuyệt đỉnh của mình. Cho đến khi 'những gì trước đây đã qua đi' thập giá vẫn là điểm đối chiếu của những lời khác nữa trong Khải Huyền của Thánh Gioan: 'Này đây Ta đứng ở ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe thấy tiếng Ta mà mở cửa cho Ta, Ta sẽ vào và ăn uống với họ rồi ở cùng họ' (Rev.3:20). Theo một ý nghĩa đặc biệt, Thiên Chúa cũng mạc khải tình thương của Ngài ra khi Ngài mời gọi con người 'thương xót' Con Một của Ngài, một con người tử giá.

            "Đức Kitô, thực sự như một con người tử giá, là Lời không qua đi (x.Mt.24:35), và Người cũng là Đấng đứng ở cửa mà gõ vào lòng của mọi người mà không đụng chạm gì đến tự do của họ, trái lại tìm cách rút lấy tình yêu từ chính niềm tự do này, một tình yêu không phải chỉ là một tác động liên kết với nỗi khổ đau nơi Con của con người, mà còn là một 'tình thương' mỗi người trong chúng ta tỏ ra đối với Con của Cha hằng sống. Trong tất cả chương trình thiên sai này của Đức Kitô, trong toàn thể mạc khải của tình thương nơi cây thập giá, phẩm vị của con người còn có thể nào được tôn trọng và cao qúi hơn nữa, vì, khi nhận lấy tình thương, một cách nào đó, đồng thời Người cũng là Đấng 'tỏ bày tình thương'.

            "Tóm lại, đây không phải hay sao là thân phận của Đức Kitô liên quan đến con người qua lời Người phán: 'Khi các ngươi làm điều này cho một trong những anh em nhỏ mọn nhất của Ta... là các ngươi làm cho chính Ta' (Mt.25:40)? Những lời của Bài Giảng Trên Núi: 'Phúc cho người xót thương, vì họ sẽ được thương xót' (Mt.5:7), theo một nghĩa nào đó, tạo nên một tổng luận (synthesis) của toàn thể Tin Mừng, của tất cả 'cuộc trao đổi diệu kỳ' (admirabile commercium) được hàm chứa trong đó hay sao? Cuộc trao đổi này là một luật lệ cho chính dự án cứu độ, một luật lệ giản dị, mạnh mẽ, đồng thời cũng 'dễ dàng' nữa...

            "Mầu Nhiệm Vượt Qua là Đức Kitô xẩy ra vào lúc tột đỉnh của mạc khải về mầu nhiệm khôn thấu của Thiên Chúa. Chính lúc bấy giờ mà những lời được loan báo trên Căn Gác ấy được nên trọn: 'Ai thấy Ta là thấy Cha' (Jn.14:9). Thật vậy, Đức Kitô, Đấng mà Cha vì con người 'đã không dung tha' (Rm.8:32), và Đấng mà trong cuộc tử nạn của Người, cũng như trong cực hình thập giá, không chiếm được tình thương của con người, đã mạc khải nơi cuộc Phục Sinh của Người tầm mức viên trọn của tình yêu mà Chúa Cha đã dành cho Người, và trong Người, cho tất cả mọi người. 'Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống' (Mk.12:27). Trong cuộc phục sinh của mình, Người đã mạc khải Thiên Chúa của tình yêu nhân hậu, chính là bởi vì Người đã chấp nhận thập giá như một đường lối để phục sinh...

            "Đó là Con Thiên Chúa, Đấng trong cuộc phục sinh của mình, đã cảm nghiệm một cách thấâm thiá tình thương dành cho Người, đó là tình yêu của Cha là một tình yêu mạnh hơn sự chết. Cũng một Đức Kitô này, Con Thiên Chúa, Đấng đi tới cùng tận sứ vụ thiên sai của mình - và, một cách nào đó, vượt cả ra ngoài mức tận cùng này - tỏ mình ra như là một nguồn mạch khôn cùng của tình thương, của cùng một tình yêu, mà theo quan điểm sau này của lịch sử cứu rỗi trong Giáo Hội, được đời đời xác nhận là mạnh hơn cả tội lỗi. Đức Kitô vượt qua thực sự là cuộc nhập thể của tình thương, là dấu hiệu sống động của tình thương: trong lịch sử cứu độ cũng như vào lúc cánh chung..."


 

 

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II: VỊ GIÁO HOÀNG CỦA ĐẠI KẾT TOÀN CẦU

Ngày Hoà Giải: Xin Lỗi và Thứ Lỗi  (tiếp)

 

 

Sau Thánh Lễ của Ngày Tha Thứ 12/3/2000 này trong Đền Thờ Thánh Phêrô, ở Huấn Từ Truyền Tin trưa hôm đó tại Quảng Trường Thánh Phêrô, vị giáo hoàng của Lòng Thương Xót Chúa dẫn giải thêm về ý nghĩa của tác động xin lỗi và thứ lỗi như sau:

“Anh Chị Em thân mến!

 

“1.        Trong tinh thần đức tin của Đại Năm Thánh, hôm nay, chúng ta đang cử hành Ngày Tha Thứ. Sáng hôm nay, tại Đền Thờ Thánh Phêrô, tôi đã chủ sự một hành động thống hối cảm kích và long trọng. Vào Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay này, các Vị Giám Mục và các Cộng Đồng Giáo Hội ở các phần đất khác nhau trên thế giới đã quì xuống trước nhan Thiên Chúa, nhân danh toàn thể dân Kitô giáo, nài xin Ngài thứ tha.

 

“Năm Thánh này là thời gian thanh tẩy: Giáo Hội là thánh, vì Chúa Kitô là Đấu và là Phu Quân của Giáo Hội; Thần Linh là hồn sống của Giáo Hội; Trinh Nữ Maria và các thánh là hiện thân đích thực nhất của Giáo Hội. Tuy nhiên, con cái của Giáo Hội cảm nhận được tội lỗi, thành phần làm cho Giáo Hội trở nên mờ tối, mất đi vẻ đẹp của Giáo Hội. Vì lý do ấy Giáo Hội không thôi nài xin Chúa thứ tha cho những tội lỗi của con cái mình.

 

“2.        Đây không phải là một phán đoán về trách nhiệm chủ quan của những người anh chị em chúng ta đã ra đi trước chúng ta: phán đoán này chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa mà thôi, Đấng, không giống như nhân loại chúng ta, ‘thấy được tâm trí’ (x Jer 20:12). Tác động của ngày hôm nay là việc thành tâm nhìn nhận tội lỗi gây ra bởi con cái của Giáo Hội trong quá khứ xa gần, và là một việc khiêm tốn xin Chúa thứ tha. Tác động này làm cho lương tâm bừng tỉnh lại, giúp cho Kitô hữu có thể tiến vào ngàn năm thứ ba một cách cởi mở hơn trước Thiên Chúa và dự án yêu thương của Ngài. 

 

Trong khi chúng ta xin lỗi chúng ta cũng hãy thứ lỗi. Đó là những gì chúng ta hằng ngày nói khi chúng ta đọc kinh Chúa Giêsu dạy: ‘Lạy Cha… xin tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con’ (Mt 6:12). Đối với tất cả mọi tín hữu, chớ gì hoa trái của Ngày Thánh này là sự tha thứ lẫn cho nhau!

 

Việc hòa giải xuất phát từ sự tha thứ. Đó là niềm hy vọng của chúng ta đối với hết mọi Cộng Đồng Giáo Hội, với tất cả mọi tín hữu trong Chúa Kitô cũng như đối với toàn thể thế giới.

 

“3.        Được thứ tha và sẵn sàng tha thứ như thế, Kitô hữu mới tiến vào ngàn năm thứ ba như là những chứng từ hy vọng khả tín hơn nữa. Sau những thế kỷ đầy những bạo lực và hủy hoại, nhất là thế kỷ thê thảm vừa qua, Giáo Hội cống hiến cho nhân loại, khi Giáo Hội vượt qua ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba, Phúc Âm của lòng thứ tha và của sự hòa giải, một điều kiện tiên quyết cho việc xây dựng hòa bình chân chính.

 

“Hãy trở thành những chứng nhân của niềm hy vọng! Đây cũng là đề tài cho Tuần Phòng tôi sẽ bắt đầu tối hôm nay với những vị cộng sự viên của tôi trong Giáo Triều Rôma. Giờ đây tôi xin cám ơn tất cả những ai muốn hỗ trợ tôi bằng lời cầu nguyện, và tôi xin Đức Mẹ là Mẹ của Lòng Thương Xót Chúa, giúp mọi người sống Mùa Chay được tốt đẹp”.

 

Qua những huấn dụ của vị giáo hoàng được Thiên Chúa sai đến để dẫn Giáo Hội của Con Ngài tiến vào ngàn năm thứ ba Kitô giáo qua ngưỡng cửa Đại Năm Thánh 2000, qua việc thiết tha tưởng niệm và cử hành Mầu Nhiệm Nhập Thể, chúng ta thấy ngài đã cùng với Giáo Hội chẳng những cử hành việc Thiên Chúa là Đấng đã bị con người xúc phạm ngay từ ban đầu qua nguyên tội lại chủ động đi hòa giải với loài người tội lỗi khi tự động sai Con Ngài là Lời Nhập Thể đến với con người, mà còn đáp ứng việc hòa giải của Thiên Chúa bằng cách thú nhận lỗi lầm của mình, xin Ngài tha thứ và thứ tha lẫn cho nhau, một việc hòa giải không phải chỉ trong nội bộ Giáo Hội có tính cách đại kết Kitô giáo, mà còn có tính cách liên tôn và tính cách nhân bản toàn cầu nữa.

 

Trong văn kiện “Ký Ức và Hòa Giải: Giáo Hội và Lỗi Lầm Quá Khứ” được soạn thảo bởi Ủy Ban Thần Học Quốc Tế dưới sự lãnh đạo và chuẩn nhận của ĐHY Tổng Trưởng Thánh Bộ Đức Tin Joseph Ratzinger, một văn kiện được phổ biến trên tờ L’Osservatore Romano ấn bản Anh ngữ ngày 12/3/2000 ở 8 trang đặc biệt giữa tờ báo, người ta thấy nội dung và mục đích của văn kiện này là để dẫn giải về nền tảng (thánh kinh, thần học, lịch sử, đạo lý, và mục vụ) hợp tình hợp lý cho việc hòa giải của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, như văn kiện này đã đề cập đến ở tiết đoạn 1.4:

 

“Như thế, một số vấn đề có thể được nhận diện như sau: Có thể nào lương tâm ngày nay lại cảm thấy ‘lỗi lầm’ về hiện tượng lịch sử riêng biệt như những Cuộc Thánh Chiến hay Vấn Đề Tòa Án Xử Lạc Giáo? Không phải là quá dễ dàng hay sao trong việc phán đoán con người ngày xưa với lương tâm ngày nay (như thành phần Luật Sĩ và Biệt Phái đã làm theo Phúc Âm Thánh Mathêu 23:29-32), như thể lương tâm luân lý hầu như là những gì cố định theo thời gian vậy? Trái lại, có thể nào chối bỏ là phán đoán về đạo lý bao giờ cũng khả dĩ, ở chỗ sự thật của Thiên Chúa cùng với những đòi hỏi về luân lý của sự thật này luôn giữ nguyên giá trị của nó?... Bởi thế, vấn đề trên hết đó là vấn đề làm sáng tỏ việc cần phải xin tha thứ, đặc biệt khi ngỏ với những nhóm người ngày nay, về những lỗi lầm trong quá khứ là những gì theo chiều hướng thánh kinh và thần học của vấn đề hòa giải với Thiên Chúa cũng như với tha nhân”.

 

(còn tiếp)

 

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

TRONG THỜI ÐIỂM MARIA

MẸ MARIA XUẤT HIỆN NHƯ BÌNH MINH 

BÁO HIỆU MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH RẠNG NGỜI TỎ HIỆN...

 

“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất

thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai,

cho dù không cùng một kiểu cách -

  Being the way by which Jesus came to us the first time,

    she will also be the way by which He will come the second time,  

 though not in the same manner

      (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)

 

"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.

Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài,

nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể...

the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary,

He sees that his time is getting short,

and he is making every effort to gain as many souls as possible..."

(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes  ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,

The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)

 

"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".

"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day.
He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".

     (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)

 

Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc

thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của

nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành

của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy

‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó

cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ

với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng

hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con

người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến

trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675)

"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”

March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you.     

(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;

tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha.

Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;

sau đó sẽ là ngày của công lý.

Speak to the world about My mercy;

let all mankind recognize My unfathomable mercy.

It is a sign for the end times;

after it will come the day of justice.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...

Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..."  

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -

Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng

(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa;

nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài,

vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus',

vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis',

là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử',

qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,

vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,

một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương)

để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha -

From her will come forth the spark

that will prepare the world for My final coming”

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)

 

 Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,

và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến

để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -

We are all living in the Advent of the last days of history,

and all trying to prepare for the coming of Christ,

to build the kingdom of God which he proclaimed”

(ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).

 

 

 

Thời Điểm Maria ra mắt ngày 8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được 30.224 lần viếng thăm. Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006. Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006.
 Từ đó TĐM tiếp tục được thêm Hit Counter lần viếng thăm. Đa tạ.

Webmaster@ThoiDiemMaria.Net