Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC”
3.- “Totus Tuus”: Tác Hiệu
CHÚA NHẬT 13/4/2008
Tuần Tưởng Niệm Đại Giáo Hoàng Gioan Phaolô II băng hà 3 năm 2/4/2005-2008
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI “Các Ơn Gọi Phục Vụ Giáo Hội Truyền Giáo” Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Nguyện Cầu Cho Ơn Gọi lần thứ 45 ngày Chúa Nhật Thứ Tư Phục Sinh 13/4/2008 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC” 2.- “Totus Tuus”: Hiện Thực - “Chúa Kitô sẽ chiến thắng qua Mẹ”: Bí Mật Fatima phần ba cảm nghiệm Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II Tại Sao Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II viết Thông Điệp "Dives in Mesericordia" Thông Điệp "Giầu Lòng Thương Xót - Dives in Misericordia" Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II: VỊ GIÁO HOÀNG CỦA ĐẠI KẾT TOÀN CẦU Ngày Hoà Giải: Xin Lỗi và Thứ Lỗi (tiêp)
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
“Các Ơn Gọi Phục Vụ Giáo Hội Truyền Giáo”
Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Nguyện Cầu Cho Ơn Gọi lần thứ 45 ngày Chúa Nhật Thứ Tư Phục Sinh 13/4/2008
Anh Chị Em thân mến,
1. Tôi đã chọn đề tài Các Ơn Gọi Phục Vụ Giáo Hội Truyền Giáo cho Ngày Thế Giới Nguyện Cầu Cho Các Ơn Gọi được cử hành vào ngày 13/4/2008. Chúa Kitô Phục Sinh đã truyền cho các Tông Đồ rằng: “Vậy các con hãy đi tuyển một môn đồ nơi tất cả mọi dân nước, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28:19), bảo đảm với các vị rằng “Thày ở cùng các con luôn mãi cho đến tận thế” (Mt 28:20). Giáo Hội là truyền giáo nơi chính mình cũng như nơi mỗi một phần tử của mình. Qua các bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, hết mọi Kitô hữu được kêu gọi để làm chứng và loan báo Phúc Âm, thế nhưng, chiều kích truyền giáo này được đặc biệt liên kết sâu xa với ơn gọi linh mục. Nơi giao ước với Yến Duyên, Thiên Chúa đã ủy thác cho một số người được Ngài kêu gọi và sai đến với dân chúng nhân danh Ngài, một sứ vụ như các vị tiên tri và tư tế. Ngài đã làm như thế, chẳng hạn như với Moisen: “Hãy đi – Thiên Chúa phán cùng ông – Ta sai ngươi đến với Pharaon, để ngươi mang dân của Ta… ra khỏi Ai Cập… khi ngươi mang dân Ta ra khỏi Ai Cập, ngươi sẽ phục vụ Thiên Chúa ở trên ngọn núi này” (Ex 3:10 & 12). Cũng tương tự như thế xẩy ra với các vị tiên tri.
2. Những lời hứa được ban bố cho các vị cha ông của chúng ta được hoàn toàn nên trọn nơi Chúa Giêsu Kitô. Về vấn đề này Công Đồng Chung Vaticanô II nói: “Bởi thế, Con đến bởi được Cha sai. Chính ở nơi Người, trước khi thế giới được tạo dựng, Cha đã chọn chúng ta và đã tiền định cho chúng ta được trở nên những người con được thừa nhận… Để thi hành ý muốn của Cha, Chúa Kitô đã khai mở nước trời trên thế gian này và đã mạc khải mầu nhiệm của vương quốc ấy. Bằng việc tuân phục của mình, Người đã mang lại ơn cứu chuộc” (Hiến Chế Tín Lý Ánh Sáng Muôn Dân, 3). Và Chúa Giêsu, ngay trong giai đoạn sống công khai của mình lúc Người giảng dạy ở Galilêa, đã chọn một số môn đệ để làm thành phần hợp tác thân cận của Người cho sứ vụ thiên sai. Chẳng hạn, ở trường hợp hóa bánh ra nhiều, Người đã nói với các Tông Đồ rằng: “Các con hãy kiếm gì cho họ ăn đi” (Mt 4:16), thúc giục các vị hãy đáp ứng nhu cầu của đám đông mà Người muốn cống hiến dưỡng thực cho họ, cũng như để tỏ cho thấy lương thực “mang lại sự sống đời đời” (Jn 6:27). Người đã động lòng thương dân chúng, vì trong khi viếng thăm các thành thị và thôn làng, Người đã thấy những đám đông buồn chán và vô bổ, như chiên không có chủ chiên (x Mt 9:36). Từ ánh nhìn yêu thương đó mới xuất phát lời mời gọi với thành phần môn đệ của Người rằng: “Bởi thế các con hãy xin Chủ mùa sai thợ đến với mùa màng của Ngài” (Mt 9:38), và Người đã bắt đầu sai 12 vị “đến với thành phần chiên lạc của nhà Yến Duyên” bằng những lời chỉ dẫn xác đáng. Nếu chúng ta ngừng lại suy niệm đoạn Phúc Âm này của Thánh Mathêu, thường được gọi là “bài diễn từ truyền giáo”, chúng ta sẽ thấy được những khía cạnh nổi bật của hoạt động truyền giáo của một cộng đồng Kitô hữu, thiết tha trung thành với gương mẫu và giáo huấn của Chúa Giêsu. Việc đáp ứng tiếng gọi của Chúa ấy nghĩa là đối diện một cách khôn ngoan và chân thành hết mọi hiểm nguy và thậm chí cả những cuộc bách hại, vì “môn đệ không hơn Thày, tôi tớ không hơn chủ” (Mt 10:24). Trở nên một với Thày của mình, thành phần môn đệ của Người không còn lẻ loi khi loan báo Vương Quốc thiên đình nữa; chính Chúa Giêsu đang hoạt động trong họ: “Ai lãnh nhận các con là tiếp nhận Thày, và ai tiếp nhận Thày là tiếp nhận Đấng đã sai Thày” (Mt 10:40). Ngoài ra, là những chứng nhân chân thực, “được mặc lấy quyền lực từ trên cao” (Lk 24:49), họ rao giảng “sự thống hối và ơn thứ tha tội lỗi” (Lk 24:47) cho tất cả mọi dân nước.
3. Chính vì họ đã được Chúa sai đi mà Nhóm 12 được gọi là “Tông Đồ”, thành phần cần phải bước đi trên các nẻo đường thế giới loan báo Phúc Âm như là những nhân chứng cho cuôc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô. Thánh Phaolô, khi viết cho Kitô hữu Côrintô, đã nói rằng: “Chúng tôi – những Tông Đồ – rao giảng Chúa Kitô tử giá” (1Cor 1:23). Sách Tông Vụ cũng ủy thác vai trò rất quan trọng này trong công việc truyền bá phúc âm hóa này cho thành phần những người môn đệ khác có ơn gọi truyền giáo từ những trường hợp thuận lợi đôi khi đau thương như bị trục xuất khỏi quê hương của mình vì là môn đồ của Chúa Giêsu (x 8:1-4). Thánh Linh đã biến đổi thử thách ấy thành cơ hội ân phúc, khi sử dụng nó để rao giảng Danh Chúa cho các dân tộc khác, nhờ đó vươn rộng chân trời cộng đồng Kitô hữu. Đó là những con người nam nữ, như Thánh Luca viết trong Sách Tông Vụ, “đã liều mạng sống mình vì Chúa Giêsu Kitô” (15:26). Trong số họ trước hết phải kể đến là Saolê thành Tarsê, vị được chính Chúa gọi, mà thực sự là một vị Tông Đồ. Câu truyện về Thánh Phaolô, vị truyền giáo cao cả nhất qua mọi thời đại, cho thấy qua nhiều cách thức mối liên kết giữa ơn gọi và sứ vụ truyền giáo. Bị thành phần đối phương tốâ cáo là không có thẩm quyền đóng vai trò tông đò thì ngài đã lập lại những lời kêu gọi đúng như tiếng gọi ngài đã trực tiếp lãnh nhận từ Chúa (cf. Rom 1: 1; Gal 1: 11-12 and 15-17).
4. Ngay từ ban đầu, và sau đó, cái “thôi thúc” vị Tông Đồ này (x 2Cor 5:14) bao giờ cũng là “tình yêu Chúa Kitô”. Vô vàn vị thừa sai, qua các thế kỷ, là thành phần tôi tớ trung thành của Giáo Hội, dễ dạy trước tác động của Thánh Linh, đã theo chân của thành phần môn đệ tiên khởi. Công Đồng Chung Vaticanô II nhận định rằng: “Mặc dù hết mọi môn đệ của Chúa Kitô đều có nhiệm vụ truyền bá đức tin, Chúa Kitô bao giờ cũng kêu gọi những ai trong số thành phần môn đệ Người muốn ở với Người và được Người sai đi rao giảng cho các dân nước (x Mk 3:13-15)” (Sắc Lệnh Ad Gentes, 23). Thật vậy, tình yêu của Chúa Kitô cần phải được truyền đạt cho anh chị em băèng gương lành và lời nói suốt cuộc đời của mình. Vị tiền nhiệm khả kính Gioan Phaolô II của tôi đã viết: “Ơn gọi đặc biệt của các thừa sai ‘suốt đời’ vẫn giữ được tất cả giá trị của nó: nó là mẫu thức của cho việc dấn thân truyền giáo của Giáo Hội, một dấn thân bao giờ cũng cần phải hoàn toàn trọn vẹn hiến mình, cần phải thực hiện những nỗ lực can trường mới” (Thông Điệp Redemptio Missio, 66).
5. Trong số những người hoàn toàn hiến thân cho việc phục vụ Phúc Âm là các vị linh mục, những người được kêu gọi để rao giảng lời Chúa, ban phát các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và Hòa Giải, dấn thân giúp đáp thành phần hèn kém, bệnh nạn, khổ đau, nghèo nàn, cũng như những ai khốn khó ở các miền đất trên thế giới là nơi có những lúc nhiều người vẫn chưa được thực sự gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô. Những nhà thừa sai lần đầu tiên loan báo cho thành phần dân chúng này tình yêu cứu chuộc của Chúa Kitô. Những thống kê cho thấy rằng con số thành phần được lãnh nhận phép rửa gia tăng hằng năm nhờ công cuộc mục vụ của những vị linh mục này, những vị hoàn toàn hiến thân cho phần rỗi của anh chị em mình. Trong bối cảnh ấy, cần phải bày tỏ lời đặc biệt cám ơn các vị linh mục fidei donum đang trung thành và quảng đại xây dựng cộng đồng này bằng vieêc loan truyền lời Chúa và bẻ Bánh Sự Sống, dốc toàn lực phục vụ sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vềâ tất cả mọi vị linh mục ấy, thành phần đã chị khổ cực, thậm chí đến hy hiến mạng sống của mình để phục vụ Chúa Kitô… Những chứng từ của họ là một chứng từ cảm kích có thể làm hứng khởi nhiều giới trẻ phục vụ Chúa Kitô và sống cuộc đời của mình cho những người khác, nhờ đó khám phá thấy được sự sống thực sự” (Tông Huấn Sacramentum Caritatis, 26).
6. Trong Giáo Hội Bao giờ cũng có nhiều con người nam nữ, được Thánh Linh tác động, chọn sống Phúc Âm một cách sâu xa, bằng cách tuyên khấn đức thanh tịnh, khó nghèo và tuân phục. Thành phần đông đảo tu sĩ nam nữ này, thuộc về vô số các Tổ Chức sống đời chiêm niệm và hoạt động, vẫn còn “đóng vao trò chính yếu trong việc truyền bá phúc âm hóa thế giới” (Sắc Lệnh Ad Gentes, 40). Với lời nguyện cầu liên tục và cộng đồng của mình, những tu sĩ chiêm niệm không ngừng chuyển cầu cho toàn thể nhân loại. Thành phần tu sĩ sống đời hoạt động, qua nhiều hoạt động bác ái của mình, mang đến cho tất cả mọi người một chứng từ sống động về tình yêu và tình thương của Thiên Chúa. Người Tôi Tớ Chúa Phaolô VI đã nói liên quan tới những vị tông đồ này trong thời đại của chúng ta rằng: “Qua việc tận hiến của mình, họ hoàn toàn tự nguyện và thanh thản từ bỏ hết mọi sự để ra đi loan báo Phúc Âm cho đến tận cùng trái đất. Họ là thành phần mạnh dạn và việc tông đồ của họ thường có đặc tính nguyên tuyền, một thứ tinh túy cần phải được ca ngợi. Họ là thành phần quảng đại: người ta thường thấy họ ở những địa điểm truyền giáo, và họ dám hết mình liều đến cả sức khỏe của họ cùng chính sự sống của họ. Giáo Hội thực sự nặng nợ họ” (Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi, 69).
7. Chưa hết, để Giáo Hội có thể tiếp tục làm trọn sứ vụ truyền giáo được Chúa Kitô trao phó cho mình, và để đừng thiếu hụt những người phát động cổ võ Phúc Âm mà thế giới rất cần đến, các cộng đồng Kitô hữu không giờ được thôi cung cấp cho cả trẻ em lẫn người lớn vấn đề liên tục giáo dục về đức tin. Cần phải làm sao tồn tại nơi tín hữu một cảm quan dấn thân về trách nhiệm truyền giáo và chủ động liên đới với chư dân trên thế giới. Tặng ân đức tin kêu gọi tất cả mọi Kitô hữu hãy cộng tác vào công cuộc truyền bá phúc âm hóa. Ý thức này cần phải được nuôi dưỡng bằng việc giảng dạy và giáo lý, bằng phụng vụ và bằng việc liên lỉ hướng dẫn nguyện cầu. Ý thức ấy cần phải được gia tằng bằng việc đón nhận người khác, qua đức bác ái và tình thân hữu thiêng liêng, qua suy niệm và nhận thức, cũng như hoạch định mục vụ bao gồm cả việc chú trọng tới các ơn gọi.
8. Ơn gọi sống đời linh mục thừa tác và sống đời tận hiến chỉ có thể nẩy nở ở một mảnh đất thiêng liêng đã vun sới cẩn thận. Các cộng đồng Kitô hữu sống chiều kích truyền giáo của mầu nhiệm Giáo Hội một cách sâu xa sẽ không bao giờ hướng nội. Truyền giáo, như là một chứng từ của tình yêu thần linh, đặc biệt trở nên hiệu năng khi nó được chia sẻ ở một cộng đồng, ‘để thế gian tin tưởng” (x Jn 17:21). Giáo Hội hằng ngày cầu nguyện cùng Thánh Linh cho tặng ân ơn gọi. Qui tụ lại chung quanh Trinh Nữ Maria là Nữ Vương Các Tông Đồ, như vào lúc ban đầu, cộng đồng giáo hội học từ Mẹ làm sao để nài xin Chúa cho việc nẩy nở các vị tông đồ mới, biết sống đức tin và tình yêu cần cho sứ vụ truyền giáo.
9. Trong khi tôi ký thác suy tư này cho toàn thể các cộng đồng của Giáo Hội để họ nhận lấy như là của mình, và rút ra từ đó hứng khởi nguyện cầu, và như tôi phấn khích những ai đang dấn thân tin tưởng và quảng đại hoạt động phục vụ cho ơn gọi, tôi hết lòng gửi đến các giáo dục gia, các giáo lý viên cùng tất cả mọi người, nhất là giới trẻ trong cuộc hành trình ơn gọi của mình, Phép Lành Tòa Thánh đặc biệt.
Tại Vatican ngày 3/12/2007
Biển Đức XVI
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh (những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng) http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/messages/vocations/documents/hf_ben-xvi_mes_20071203_xlv-vocations_en.html
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC” 3.- “Totus Tuus”: Tác Hiệu
·
Cuộc chiến thắng của Thiên Chúa qua Mẹ Maria đã được tỏ hiện nơi lịch sử thế giới có liên quan tới Biến Cố Fatima nói chung và Bí Mật Fatima nói riêng.
Trong Lời Giới Thiệu Văn Kiện của Đức Tổng Giám Mục Bertone, chúng ta biết rằng Bí Mật Fatima phần thứ ba được chị Lucia viết ra ngày 3/1/1944, và bản chép tay duy nhất phần bí mật ấy đã được Đức Giám Mục địa phương Leiria niêm ấn trong một bao thư, và sau cùng đã được Tòa Thánh cất giữ trong Lưu Mật Viện ngày 4/4/1957. Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã đọc phần bí mật này ngày 17/8/1959, và Đức Thánh Cha Phaolô VI cũng đã đọc phần bí mật ấy ngày 27/3/1965, song cả hai đều quyết định không công bố gì.
Để trả lời cho một trong hai vị đại diện Đức Thánh Cha là Đức Tổng Giám Mục Tổng Thư Ký Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin Tarcisio Bertone (cùng với Đức Giám Mục Serafim de Sousa Ferreira e Silva cai quản giáo phận địa phương Leiria-Fatima) đến gặp chị ngày Thứ Năm 27/4/2000 tại đan viện Camêlô của chị ở Coimbra, cho vấn đề “tại sao chỉ (được tiết lộ phần bí mật này) sau năm 1960? Phải chăng Đức Mẹ đã ấn định thời điểm như vậy?”, (vì chị viết ở ngoài bao thư đựng phần bí mật còn lại này như thế khi chị gửi nó đến vị giám mục địa phương bấy giờ), chị Lucia đã thành thực thú nhận:
“Không phải là Đức Mẹ. Chính con là người đã ấn định thời điểm này, vì con linh cảm thấy rằng phần bí mật ấy không thể nào hiểu được vào trước năm 1960 mà chỉ sau khi đó thôi. Đến nay thì người ta đã hiểu rõ hơn rồi. Con chỉ viết lại những gì con đã thấy; còn việc giải thích những điều này thì không phải nhiệm vụ của con mà là của Đức Thánh Cha”.
Thật thế, vì thấy rằng đã đến lúc thích hợp và cần thiết, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chẳng những cho công bố phần Bí Mật Fatima thứ ba này, (phần được hé mở vào ngày 13/5/2000 tại Fatima qua Đức Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh và toàn bộ vào ngày 26/6/2000 qua Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin), mà còn nhờ Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin giải thích rõ ràng phần bí mật này nữa. Tại sao? Phải chăng vì Ngài là nhân vật chính trong phần Bí Mật Fatima còn lại này? Trong cuộc trao đổi với hai vị đại diện của Đức Thánh Cha ngày 27/4/2000, chị Lucia đã xác nhận là đúng cho vấn đề được đặt ra với chị là “Bộ mặt chính trong thị kiến phải chăng là Đức Giáo Hoàng?”.
Thật thế, vị giáo hoàng này, như trong lời Giới Thiệu Văn Kiện của Đức Tổng Giám Mục Bertone cho biết, sau khi bị ám sát trọng thương tại Quảng Trường Thánh Phêrô ngày 13/5/1981 mới đọc phần Bí Mật Fatima thứ ba, (chứ không phải là Ngài đã đọc trước đó). Thế rồi, Ngài đã cố gắng “đáp ứng trọn vẹn những gì ‘Đức Mẹ’ yêu cầu” vào những ngày 7/6/1981 tại Đền Thờ Đức Bà Cả ở Rôma, và đã lập lại ngày 13/5/1982 ở Fatima, nhất là ngày 25/3/1984 tại Quảng Trường Thánh Phêrô, bằng việc “hiệp thông trong tinh thần với các giám mục trên thế giới được Ngài ‘kêu gọi’ trước đó để dâng hiến hết mọi con người nam nữ và tất cả mọi dân tộc cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria”.
Trong Lời Giới Thiệu Văn Kiện, Đức Tổng Giám Mục Bertone cũng lập lại nguyên văn những phần quan trọng của Bản Kinh Dâng Hiến do Đức Thánh Cha dọn đọc từ năm 1981, trong đó có câu: “Chúng con xin dâng Mẹ đặc biệt những người và những dân nước cần được hiến dâng và phó thác”.
Qua bức thư ngày 8/11/1989, chị Lucia đã khẳng định:
“Vâng, việc hiến dâng ngày 25/3/1984 đã đươc thực hiện đúng như những gì Đức Mẹ xin”.
Nếu động lực hay nguyên do thúc đẩy Đức Gioan Phaolô II cho tiết lộ Bí Mật Fatima phần thứ ba này là vì ngài cảm thấy lời tiên tri trong đó đã được ứng nghiệm nơi ngài qua vụ ngài bị ám sát ngày 13/5/1981, thì, ở phần cuối Lời Giới Thiệu Văn Kiện của Đức Tổng Giám Mục Bertone, chúng ta thấy được mục đích của việc Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã quyết định cho tiết lộ Bí Mật Fatima phần thứ ba, đó là vì Ngài mong muốn con người nhận biết tình yêu thương của Thiên Chúa qua dấu chỉ thời đại hiện lên nơi lịch sử của họ.
“Quyết định của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong việc cho công bố phần thứ ba của ‘bí mật’ Fatima chấm dứt một giai đoạn lịch sử mang dấu vết con người bi thảm tham lam tìm kiếm quyền lực và sự dữ, song lại là một giai đoạn lịch sử được thấm đẫm tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa cùng với việc chuyên tâm chăm sóc của Mẹ Chúa Giêsu cũng là Mẹ của Giáo Hội”.
Đức Tổng Giám Mục Bertone đã xác nhận ý hướng của Đức Thánh Cha với hai đoạn kết thúc Lời Giới Thiệu Văn Kiện như sau:
“Tác động của Thiên Chúa là Chúa của lịch sử, cùng với việc con người cũng phải có trách nhiệm đối với màn bi kịch của cuộc sống tự do theo ý riêng của nó, là hai cột trụ xây dựng lên lịch sử nhân loại.
“Khi hiện ra ở Fatima, Đức Mẹ đã nhắc lại các giá trị bị lãng quên đó. Mẹ nhắc lại cho chúng ta nhớ lại rằng tương lai của con người là ở nơi Thiên Chúa, và chúng ta là thành phần phải tích cực lãnh nhận trách nhiệm trong việc kiến tạo tương lai ấy”.
Tóm lại, niềm xác tín về việc Chúa Kitô chiến thắng qua Mẹ Maria của Đức Gioan Phaolô II trên đây cũng là những gì phản ảnh chủ trương của Thánh Long Mộng Phố trong tác phẩm “Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Đức Trinh Nữ”, như chính vị giáo hoàng nhận định trong thư ngày 8/12/2003 gửi cho Hội Dòng Montfort nhân dịp kỷ niệm 160 năm xuất bản tác phẩm Thánh Mẫu rất ảnh hưởng đến ngài, như sau:
“Chiều kích cánh chung được Thánh Louis Marie chiêm ngưỡng đặc biệt khi ngài nói về ‘thành phần tông đồ ở những thời sau này’ là thành phần được Đức Trinh Nữ hình thành để mang lại cho Giáo Hội cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trên các lực lượng sự dữ” (xem các đoạn 49-59).
Tại Sao Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II viết Thông Điệp "Dives in Mesericordia"
Thông Điệp "Giầu Lòng Thương Xót - Dives in Misericordia"
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh
Vì nhu cầu tâm linh trầm trọng của thời đại văn minh hiện nay liên quan đến sự thật về con người trong mầu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa. 1- "Theo giáo huấn của Công Đồng Chung Vaticanô II, cũng như chú trọng tới những nhu cầu đặc biệt của thời điểm chúng ta, Tôi đã dùng thông điệp Redemptor Hominis để nói đến sự thật về con người, một sự thật được tỏ cho chúng ta một cách hoàn toàn và sâu xa nơi Chúa Kitô. Một nhu cầu cũng không kém quan trọng trong thời điểm khủng hoảng và khó khăn này đã thôi thúc Ta, một lần nữa, trong Chúa Kitô, gây nên một sự chú ý đến dung nhan của một 'Người Cha giầu tình thương và Thiên Chúa của mọi niềm ủi an' (2Cor.1:3). Chúng ta đọc thấy trong Hiến Chế Gaudium et Spes: 'Chúa Kitô là một tân Adong... hoàn toàn tỏ cho con người biết về chính họ và làm sáng tỏ ơn gọi cao qúi của họ', và Người làm như thế 'bằng chính việc mạc khải mầu nhiệm về Cha và về tình yêu của Cha' (đoạn 22). Những lời mà Tôi vừa trích dẫn là chứng cớ rõ ràng cho thấy sự kiện là con người không thể nào được thể hiện hoàn toàn phẩm vị của bản tính mình mà lại không có liên quan gì với Thiên Chúa, chẳng những ở mức độ tư tưởng mà còn ở cả cách thức hiện hữu chuyên chính nữa. "Đó là lý do giờ đây đã đến lúc cần phải suy niệm về mầu nhiệm này. Nó được kêu mời từ những kinh nghiệm khác nhau của Giáo Hội cũng như của con người đương thời. Nó cũng được đòi hỏi bởi những kêu cầu từ tâm can con người, từ những khổ đau và hy vọng của họ, từ những lo âu và mong đợi của họ... "Sứ vụ của Giáo Hội càng hướng về con người - tức là nó càng nhân trung (anthropocentric) - thì nó lại càng phải được xác định và hiện thực với một tính cách thần trung (theocentrically), nghĩa là nó phải được nhắm vào Chúa Kitô để đến với Ngôi Cha. Trong khi có những luồng tư tưởng con người, cả trong qúa khứ cũng như hiện tại, đã và còn đang hướng chiều về việc tách biệt chủ trương thần trung (theocentrism) với chủ trương nhân trung (anthropocentrism), ngay cả việc đặt chúng tương phản với nhau, thì Giáo Hội, theo Chúa Kitô, tìm cách nối liền chúng lại trong lịch sử loài người, bằng một đường lối sâu xa và thứ tự... Hôm nay đây, Tôi muốn nói lên rằng việc vươn mình ra tới Chúa Kitô, Đấng, như Vị Cứu Chuộc thế giới, đã hoàn toàn 'tỏ cho họ biết được chính mình họ', chỉ có thể đạt được bằng một mối liên hệ sâu xa hơn bao giờ hết về Chúa Cha và về tình yêu của Ngài. 2- "Tâm thức ngày nay (the present-day mentality), có lẽ hơn cả của con người trong qúa khứ, tỏ ra chống lại với một vị Thiên Chúa của tình thương, và thực tế cho thấy có khuynh hướng loại trừ ra khỏi đời sống và lấy nó ra khỏi cõi lòng con người ngay cả tư tưởng về tình thương nữa. Từ ngữ và ý niệm về 'tình thương' như gây nên một cái gì bất ổn nơi con người, thành phần mà, nhờ việc tiến triển khổng lồ về khoa học và kỹ thuật chưa bao giờ có trong lịch sử, đã trở nên chủ nhân ông của trái đất, và đã cai trị cùng thống trị nó (x.Gen.1:28). Việc thống trị trái đất này, đôi khi được hiểu một chiều và nông cạn, xem ra không còn chỗ cho tình thương nữa. Tuy nhiên, theo chiều hướng này, để có lợi hơn, chúng ta có thể nghĩ đến hình ảnh về tình trạng của 'con người trong thế giới ngày nay', như được diễn tả ở đầu Hiến Chế Gaudium et Spes. Đây, chúng ta hãy đọc những câu như sau: 'Trong ánh sáng của những yếu tố trước, thì xem ra như có một cuộc lưỡng phân (dichotomy) nơi một thế giới mà cùng một lúc vừa quyền năng lại vừa yếu nhược, có khả năng làm được cả cái cao qúi lẫn cái hạ đẳng, vừa mong được tự do lại bị nô lệ, vừa phát triển lại lụn bại, vừa liên đới huynh đệ lại hận thù ghét ghen. Con người càng ngày càng ý thức được rằng những mãnh lực mà họ đã thả tung ra đang nằm ở trong bàn tay của họ, và tùy họ biết kiềm chế chúng hay là làm nô lệ cho chúng' (đoạn 9). "Tình hình của thế giới hôm nay chẳng những đang phô diễn các biến đổi tạo nên những lý do để hy vọng một tương lai tốt đẹp hơn cho con người trên trái đất, mà còn tỏ ra có rất nhiều những mối đe dọa nguy hơn cả những mối đe dọa từ trước tới nay. Không thôi vạch ra những mối đe dọa này trong một số trường hợp, (như trong các bài diễn từ tại UNO cho UNESCO, cho FAO và những nơi khác), Giáo Hội đồng thời còn phải khảo sát chúng trong ánh sáng của chân lý phát ra từ Thiên Chúa nữa. "Chân lý, được mạc khải nơi Chúa Kitô, về Thiên Chúa là 'Người Cha giầu lòng thương xót' (2Cor.1:3), cho chúng ta 'thấy' Ngài đặc biệt gần gũi với con người, nhất là khi con người chịu khổ đau, khi họ bị đe dọa ở ngay chính giữa cuộc hiện hữu và phẩm vị của mình. Và đó là lý do tại sao, trong tình trạng của Giáo Hội và thế giới ngày nay, có nhiều người cũng như nhiều nhóm, được hướng dẫn bởi một cảm quan đức tin sống động, đang tìm về, có thể nói hầu như một cách tự nhiên, với tình thương của Thiên Chúa. Họ được đánh động làm như thế chắc chắn phải là do chính Chúa Kitô, Đấng tác hành nơi tâm can con người bằng Thần Linh của Người. Vì mầu nhiệm về Thiên Chúa là 'Người Cha giầu lòng thương xót' được Chúa Kitô mạc khải, trong sự tương quan với những mối đe dọa hiện nay đối với con người, đã thực sự trở thành một lời kêu xin thiết tha đặc biệt ngỏ với Giáo Hội. "Trong bức thông điệp đây, Tôi xin chấp nhận lời kêu xin thiết tha này; Tôi muốn rút ra từ ngôn ngữ đời đời, cùng với tính cách chân chất và sâu xa của nó, một ngôn ngữ khôn sánh của mạc khải và đức tin, để qua ngôn ngữ ấy, một lần nữa, trình bày trước nhan Thiên Chúa và trước mặt nhân loại những nỗi lo âu của thời điểm chúng ta. "Thật ra, mạc khải và đức tin dạy chúng ta chẳng những suy niệm một cách trừu tượng về mầu nhiệm của Thiên Chúa là 'Người Cha giầu lòng thương xót', mà còn phải chạy đến với tình thương này nhân danh Đức Kitô và hiệp với Người nữa. Đức Kitô đã không nói rằng, Cha của chúng ta, Đấng 'thấy nơi kín nhiệm' (Mt.6:4,6,18), luôn luôn đợi chờ chúng ta chạy đến với Ngài mỗi khi cần, và luôn luôn chờ đợi chúng ta đến để học biết mầu nhiệm của Ngài: mầu nhiệm về một Người Cha và về tình yêu thương của Ngài. "Bởi thế, Tôi muốn những suy xét sau đây làm cho mầu nhiệm này gần gũi với mọi người hơn. Đồng thời, Tôi cũng muốn những suy xét ấy thành một lời kêu xin tha thiết thật tình mà Giáo Hội dâng lên tình thương, một tình thương thật là cần thiết cho nhân loại và cho thế giới tân tiến này. Họ cần tình thương cho dù họ thường không nhận ra nó".
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II: VỊ GIÁO HOÀNG CỦA ĐẠI KẾT TOÀN CẦU Ngày Hoà Giải: Xin Lỗi và Thứ Lỗi (tiếp)
Văn kiện được nghiên cứu kỹ lưỡng của một ủy ban gồm 7 nhà thần học có thế giá trên thế giới này, ở đầu tiết đoạn 1.1, còn nhận định tính cách độc nhất vô nhị của hành động của ĐTC GPII làm trong Đại Năm Thánh này như sau;
· “Cho tới nay, không có một cuộc cử hành Năm Thánh nào đã thực hiện việc nhận thức theo lương tâm về bất cứ lỗi lầm nào thuộc quá khứ của Giáo Hội, hay về nhu cầu cần phải xin Thiên Chúa thứ tha cho việc làm trong quá khứ gần xa. Thật thế, trong suốt lịch sử của Giáo Hội, chưa từng có vấn đề Giáo Quyền xin tha thứ về những lỗi lầm đã qua. Các Công Đồng và các sắc chỉ của giáo hoàng đã áp dụng những việc chế tài cần phải có đối với những lạm dụng được cho là lầm lỗi nơi giáo sĩ và giáo dân, và là những lạm dụng đã được nhiều vị mục tử thành tâm cố gắng để sửa chữa. Tuy nhiên, những trường hợp được thẩm quyền giáo hội là Giáo Hoàng, các Vị Giám Mục hay các Công Đồng, công khai nhìn nhận những lầm lỗi hay những lạm dụng mà các vị cảm thấy có lỗi, thì hoàn toàn hiếm có”.
Ở đầu tiết đoạn 1.3, văn kiện dẫn giải việc làm quan trọng đầy ý nghĩa và cần thiết của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II còn phân tích nội dung của những gì ngài đã làm trong Ngày Tha Thứ như sau:
“Đức Gioan Phaolô chẳng những lập lại những bày tỏ hối tiếc về ‘những ký ức buồn đau’ đánh dấu lịch sử chia rẽ nơi thành phần Kitô hữu, như Đức Phaolô VI và Công Đồng Chung Vaticanô II đã làm (như ngài đã đề cập tới trong Thông Điệp Xin Cho Họ Hiệp Nhất Nên Một, khoản số 88, khoản ngài viết: ‘tôi xin hợp với vị tiền nhiệm Phaolô VI của mình để xin tha thứ về những gì chúng tôi phải chịu trách nhiệm đối với những điều ấy’, nhưng Đức Phaolô VI, khi mở đầu cho Khóa Họp 2 của Công Đồng Chung Vaticanô II, chỉ xin tha thứ về những lỗi lầm liên quan tới sự kiện chia rẽ Kitô giáo mà thôi), còn ngài lại nới rộng việc xin tha thứ cho nhiều biến cố lịch sử mà Giáo Hội hay các nhóm Kitô hữu đã dính líu vào ở những góc cạnh khác nhau (chẳng hạn, ngài đã xin lỗi những người Moravia khi phong thánh cho chân phước Jan Sarkander ở Cộng Hòa Tiệp Khắc ngày 21/5/1995; hay ngài xin lỗi những người Da Đỏ ở Mỹ Châu Latinh trong Sứ Điệp ngỏ cùng Dân Da Đỏ Mỹ Châu ngày 13/10/1992 trong chuyến tông du Santo Domingo, và xin lỗi cả những người Phi Châu bị lưu đầy làm nô lệ trong bài Huấn Từ của Buổi Triều Kiến Chung ngày Thứ Tư 21/10/1992; riêng với thành phần Phi Châu này ngài còn xin lỗi họ về cách thức họ đã bị đối xử nữa, trong bài diễn từ ở Yaoundé ngày 13/8/1985). Trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến (khoản 33-36), Đức Giáo Hoàng đã bày tỏ niềm hy vọng là Năm Thánh 2000 trở thành một cơ hội để thanh tẩy ký ức của Giáo Hội khỏi tất cả mọi hình thức ‘phản chứng từ và gương mù’ đã xẩy ra trong thời gian của thiên niên kỷ qua”.
Sau khi vị Giáo Hoàng của Ngày Tha Thứ này nằm xuống được hơn nửa tháng, ý hướng hòa giải hướng về đại kết của ngài đã được chính vị thừa kế của ngài là Giáo Hoàng Biển Đức XVI lập lại trong Sứ Điệp ngỏ cùng hồng y đoàn tại Nguyện Đường Sistine cuối Thánh Lễ ngày 20/4, sau khi kết thúc mật nghị hồng y bầu tân giáo hoàng (18-19/4/2005) như sau:
“Những cuộc đối thoại về thần học là những gì cần phải có. Cũng không thể châm chước bỏ qua việc khảo sát kỹ lưỡng những nguyên do lịch sử đã gây ra những việc quyết định trong quá khứ. Thế nhưng, khẩn thiết hơn thế nữa là việc ‘thanh tẩy ký ức’, một việc đã thường được Đức Gioan Phaolô gợi lên, và là một việc duy nhất có thể sửa soạn cho các tâm hồn đón nhận tất cả sự thật của Chúa Kitô. Chính vì trước nhan Người là Vị Thẩm Phán tối cao của tất cả mọi sinh vật, mà mỗi một người trong chúng ta cần phải trả lẽ, với ý thức là một ngày kia chúng ta cần phải cắt nghĩa cho Người về những gì chúng ta đã làm và những gì chúng ta không làm cho thiện ích cao cả là mối hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình nơi tất cả thành phần môn đệ của Người”.
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
|
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |