Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
THỨ HAI 14/4/2008
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI Tiếng Gọi Truyền Giáo Huấn Từ Nguyện Kinh Lạy Nữ Vương Chúa Nhật Chúa Chiên Lành 13/4/2008 Đức Giáo Hoàng Biểm Đức XVI “Ratzinger’s Report” Đức Giáo Hoàng Biểm Đức XVI Hành Trình Emmau: Phụng Vụ Lời Chúa và Thánh Thể Huấn Từ trước Kinh Lạy Nữ Vương Chúa Nhật 6/4/2008 Đức Giáo Hoàng Biểm Đức XVI "Tình thương của Thiên Chúa là then chốt đặc biệt cho việc hiểu được giáo triều của ngài". Bài Giảng Lễ Giỗ 3 Năm ĐTC Gioan Phaolô II
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Tiếng Gọi Truyền Giáo
Huấn Từ Nguyện Kinh Lạy Nữ Vương Chúa Nhật Chúa Chiên Lành 13/4/2008
Anh chị em thân mến,
Vào Chúa Nhật Thứ Tư Phục Sinh này, ngày phụng vụ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu như là một Vị Mục Tử Nhân Lành, thì Giáo Hội cử hành Ngày Thế Giới Cầu Cho Các Ơn Gọi. Ở hết mọi lục địa, các cộng đồng giáo hội liên kết nài xin Chúa ban cho nhiều ơn gọi thánh đức làm linh mục, sống đời tận hiến và truyền giáo, và hôn nhân Kitô giáo, bằng việc suy niệm về đề tài: Các ơn gọi Phục Vụ Giáo Hội Truyền Giáo. Năm nay, Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Các Ơn Gọi 2008 được liên kết với chiều kích của năm Thánh Phaolô, một năm được bắt đầu vào ngày 28 tháng 6 tới đây, để mừng 2000 năm sinh nhật của Tông Đồ Phaolô, đệ nhất truyền giáo gia.
Theo kinh nghiệm về Vị Tông Đồ Dân Ngoại này, vị được Chúa kêu gọi để trở thành “một thừa tác viên Phúc Âm”, thì ơn gọi và sứ vụ truyền giáo là những gì bất khả phân ly. Bởi thế, ngài là mô phạm cho tất cả mọi Kitô hữu, đặc biệt là cho thành phần thừa sai “một đời – ad vitam”, tức là những con người nam nữ hoàn toàn dấn thân cho việc truyền giảng Chúa Kitô cho những ai vẫn chưa nhận biết Người: một ơn gọi tiếp tục giữ được tất cả tính cách hiệu năng của nó.
Trước hết, việc phục vụ truyền giáo này được thi hành bởi các vị linh mục trong việc cống hiến Lời Chúa và các bí tích, cũng như trong việc biểu lộ sự hiện diện chữa lành của Chúa Giêsu Kitô qua việc các vị bác ái mục vụ cho hết mọi người, nhất là người yếu bệnh, những con người bé mọn và nghèo khổ. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa về những người an hem này của chúng ta, những người đã dứt khoát dấn thân cho thừa tác mục vụ, đôi khi niêm ấn lòng trung thành của mình với Chúa Kitô bằng việc hy hiến mạng sống của mình, như đã xẩy ra hôm qua cho hai tu sĩ bị sát hại ở Guinea và Kenya. Chúng ta hãy tỏ lòng tri ân ca ngợi cũng như nguyện cầu cho linh hồn các vị.
Chúng ta hãy cầu xin để gia tăng con số những ai quyết định sống hết mình Phúc Âm bằng những lời khấn thanh tịnh, khó nghèo và tuân phục – những con người nam nữ đóng vai trò chủ yếu tron g việc truyền bá phúc âm hóa. Một số trong họ hiến đời mình trong việc chiêm niệm và cầu nguyện, những người khác lại dấn thân cho hoạt động muôn mặt về giáo dục và bác ái. Tuy nhiên, tất cả họ đều liên kết với nhau trong cùng một mục tiêu, đó là làm chứng cho thượng quyền của Thiên Chúa trên tất cả mọi sự cũng như làm lan rộng Vương Quốc của Ngài ở mọi lãnh vuưc của xã hội.
Nhiều người trong họ, như Người Tôi Tớ Chúa Phaolô VI đã viết, “Họ là thành phần mạnh dạn và việc tông đồ của họ thường có đặc tính nguyên tuyền, một thứ tinh túy cần phải được ca ngợi. Họ là thành phần quảng đại: người ta thường thấy họ ở những địa điểm truyền giáo, và họ dám hết mình liều đến cả sức khỏe của họ cùng chính sự sống của họ.” (Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi, 69).
Sau hết, không được quên là hôn nhân Kitô giáo cũng là một ơn gọi truyền giáo nữa: thật vậy, đôi phối ngẫu được kêu gọi sống Phúc Âm trong gia đình, nơi công sở cũng như trong giáo xứ và các cộng đồng dân sự. Tuy nhiên, ở một số trường hợp, họ cống hiến sự đóng góp đáng giá của họ cho việc truyền giáo “cho muôn dân – ad gentes”.
Anh chị em thân mến: Chúng ta hãy kêu xin Mẹ Maria từ mẫu chở che phù trì cho nhiều ơn gọi hiện hữu trong Giáo Hội, nhờ đó những ơn gọi này được phát triển theo chiều kích thiết tha truyền giáo. Tôi cũng phó thác cho Mẹ là Mẹ Giáo Hội và là Nữ Vương Hòa Bình cảm nghiệm truyền giáo đặc biệt mà tôi sẽ trải qua trong vài ngày tới đây qua chuyến tông du Hiệp Chủng Quốc và cuộc viếng thăm Liên Hiệp Quốc, xin anh chị em hộ tống tôi bằng những lời nguyện cầu của anh chị em.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 13/4/2008
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
“Ratzinger’s Report”
Hành Trình Emmau: Phụng Vụ Lời Chúa và Thánh Thể
Huấn Từ trước Kinh Lạy Nữ Vương Chúa Nhật 6/4/2008
Anh Chị Em thân mến,
Phúc Âm của Chúa Nhật này – Chúa Nhật Thứ Ba Phục Sinh – là một trình thuật nổi tiếng về các môn đệ đi Emmau (x Lk 24:13-35). Câu truyện này kể về 2 môn đệ của Chúa Kitô, vào ngày sau Ngày Hưu Lễ, tức là vào ngày thứ ba sau khi Chúa chết, vì cảm thấy buồn thảm và thất vọng, đã bỏ Gia Liêm mà đến một làng gần đó được gọi đúng là Emmau.
Trên con đường này, Chúa Giêsu phục sinh đã đến và đi bên họ nhưng họ không nhận ra Người. Thấy họ cứng lòng, Người đã dẫn giải theo Thánh Kinh rằng Đấng Thiên Sai cần phải chịu khổ đau và chết đi để tiến vào vinh quang của Người. Khi bước vào nhà với họ, Người đã ngồi xuống bàn cùng họ, chúc phúc cho bánh và bẻ bánh ra, bấy giờ họ nhận ra Người, song Người đã biết đi trước mắt họ, khiến họ cảm thấy đầy ngỡ ngàng trước tấm bánh được bẻ ra, một dấu hiệu hiện diện mới của Người. Lập tức, hai vị trở về Gia Liêm để thuật lại cho các môn đệ khác về những gì đã xẩy ra.
Không có gì là chắc chắn trong việc nhận ra địa điểm Emmau. Có những giả thuyết khác nhau, và sự kiện này không phải là không có ý nghĩa của nó, vì nó làm cho chúng ta nghĩ rằng Emmau thực sự là những gì tiêu biểu cho hết mọi nơi: Con đường dẫn đến đó là một cuộc hành trình của hết mọi Kitô hữu, thật sự là của hết mọi người. Dọc theo những con đường của chúng ta Chúa Giêsu phục sinh là người bạn đồng hành của chúng ta, để làm bùng lên trong tâm hồn chúng ta hơi ấm của đức tin cũng như của hy vọng cùng với việc bẻ bánh sự sống trường sinh.
Trong cuộc đàm đạo của những người môn đệ ấy với người lữ khách vô danh kia có một lời bày tỏ được thánh ký Luca đặt vào môi miệng của một người họ là những gì đáng chú trọng: “Chúng tôi đã hy vọng…” (24:21). Động từ thuộc về thể quá khứ này đã nói lên hết mọi sự: Chúng tôi đã tin tưởng, chúng tôi đã theo đuổi, chúng tôi đã hy vọng…, thế nhưng, giờ đây tất cả mọi sự chẳng còn gì nữa. Ngay cả Đức Giêsu Nazarét, vị đã tỏ mình ra là một vị tiên tri uy quyền trong việc làm và lời nói, cũng đã thua bại khiến chúng tôi cảm thấy thất vọng.
Thảm cảnh của các vị môn đệ đi Emmau như là một tấm gương phản ảnh tình hình của nhiều Kitô hữu trong thời đại của chúng ta đây. Niềm hy vọng của đức tin dường như đã mất. Chính đức tin đang bị khủng hoảng bởi những cảm nghiệm tiêu cực làm chúng ta cảm thấy như chúng ta đang bị Chúa bỏ rơi. Thế nhưng con đường Emmau mà chúng ta đang tiến bước này có thể trở thành một con đường thanh tẩy và trưởng thành của việc chúng ta tin tưởng vào Thiên Chúa.
Ngay cả hôm nay đây chúng ta đang dự phần vào cuộc đàm đạo với Chúa Giêsu khi chúng ta lắng nghe lời của Người. Thậm chí hôm nay đây Người bẻ bánh cho chúng ta và ban chính Bản Thân Người làm bánh cho chúng ta ăn. Nên nhờ đó mà cuộc gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh, một cuộc gặp gỡ cho dù là ngày nay đây, mang lại cho chúng ta một đức tin sâu xa hơn và chân thực hơn, một đức tin có thể nói được tôi luyện bằng ngọn lửa của biến cố Phục Sinh; một đức tin tráng kiện vì nó được nuôi dưỡng không phải bằng các ý nghĩ của con người, mà là bằng lời của Thiên Chúa cũng như bằng việc hiện diện của Người trong Thánh Thể.
Bài Phúc Âm kỳ diệu này đã chất chứa cấu trúc của Thánh Lễ: ở phần đầu là việc nghe lời Chúa qua Thánh Kinh; ở phần thứ hai là phụng vụ Thánh Thể và hiệp thông với Chúa Kitô hiện diện trong bí tích Mình Máu của Người.
Được nuôi dưỡng ở cái bàn lưỡng diện này, Giáo Hội không ngừng được xây đắp và canh tân bản thân mình ngày này qua ngày khác trong đức tin, đức cậy và đức mến. Qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria Rất Thánh, chúng ta hãy nguyện cầu để hết mọi Kitô hữu và hết mọi cộng đồng, khi sống lại cảm nghiệm của các môn đề về Emmau, tái khám phá ra ân sủng của cuộc gặp gỡ biến đổi với Chúa Kitô phục sinh.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 6/4/2008 (những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)
Đức Giáo Hoàng Biểm Đức XVI
"Tình thương của Thiên Chúa là then chốt đặc biệt cho việc hiểu được giáo triều của ngài".
Bài Giảng Lễ Giỗ 3 Năm ĐTC Gioan Phaolô II
Giống như 3 năm trước đây, cả đến ngày hôm nay nữa, mới chỉ sau một thời gian ngắn sau Phục Sinh. Trung tâm điểm của Giáo Hội đây lại cảm thấy mình chìm đắm trong mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô. Thật vậy, chúng ta có thể giải thích cả cuộc đời của vị tiền nhiện thân yêu của tôi, đặc biệt là thức tác vụ thừa kế Thánh Phêrô của ngài, theo dấu hiệu của Chúa Kitô đã được phục sinh. Ngài đã cảm thấy một đức tin phi thường nơi Người, và cùng với Người, ngài đã giữ được một cuộc trao đổi thân tình, đặc biệt và liên lỉ. Trong số nhiều những tính chất nhân loại và siêu nhiên của mình, ngài có một cảm quan đặc biệt về tu đức và thần bí.
Chỉ cần thấy ngài cầu nguyện là đủ: Bề ngoài ngài chìm đắm trong Chúa và dường như mọi sự khác trong lúc ấy đều ở ngoài cuộc. Trong khi cử hành phụng vụ, ngài đã chú tâm tới mầu nhiệm đang diễn tiến, bằng một khả năng nhận định một cách nhậy bén cái tính chất sống động của lời Chúa tiến triển qua giòng lịch sử, khi tiến sâu vào dự án của Thiên Chúa. Như ngài thường hay nói, đối với ngài Thánh Lễ là tâm điểm của ngày sống và cả cuộc đời của ngài – thực tại “sống động và thánh hảo” Thánh Thể này đã hiến cho ngài nghị lực thiêng liêng trong việc hướng dẫn dân Chúa tiến bước trên con đường lịch sử.
Đức Gioan Phaolô II đã qua đời vào thời điểm vọng Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh, “ngày Chúa làm nên”. Những quằn quại của cái chết đã xẩy ra vào “ngày” này, theo cái thời-không mới thì đó là “ngày thứ tám”, ngày được Ba Ngôi muốn qua công cuộc của Lời nhập thế, tử nạn và phục sinh. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào những trường hợp khác nhau đã cho thấy rằng, một cách nào đó, ngài đã chìm sâu vào chiều kích linh thiêng này trước đó, trong đời sống của ngài, nhất là trong việc làm trọn sứ vụ là Vị Giáo Chủ Tối Cao.
Giáo triều của ngài, nếu được tổng hợp lại và qua nhiều thời khắc đặc biệt, cho chúng ta thấy như là một dấu hiệu và chứng từ của việc Chúa Kitô phục sinh. Chiều kích vượt qua ấy, một chiều kích làm cho cuộc sống của Đức Gioan Phaolô trở thành một đáp ứng hoàn toàn cho tiếng gọi của Chúa, không thể được tỏ hiện mà không tham phần vào những khổ đau và cái chết của Vị Sư Phụ thần linh và là Đấng Cứu Chuộc. Tông Đồ Phaolô đã nói: “Đây là điều đáng tin tưởng, đó là nếu chúng ta đã chết với Người thì chúng ta sẽ sống với Người; nếu chúng ta kiên trì chúng ta cũng sẽ hiển trị với Người” (2Tim 2:11-12).
(Nhận định trên đây của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI về “chiều kích Vượt Qua”, cũng như dưới đây về tính cách sống với Chúa Kitô như Mẹ Maria và nhờ Mẹ Maria, của Đức Gioan Phaolô II, người dịch này chẳng những cảm thấy rất chí lý mà cũng cảm thấy rất hân hạnh vì đã có cùng một cảm nhận như ngài khi xuất bản tác phẩm “Đức Gioan Phaolô II: Sống Là Chúa Kitô – Chết là Vinh Thắng” – Phil 1:21 vào cuối tháng 4/2005, cùng một lúc với tác phẩm bày tỏ cảm nhận của mình về vị tân giáo hoàng đương kim: “Giáo Hoàng Biển Đức XVI – Vị Giáo Hoàng của Hiệp Nhất Kitô Giáo và Cho Một Tân Âu Châu”. Trong bài huấn từ trước Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng hôm 30/3/2008, Chúa Nhật 2 Phục Sinh, Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa, ĐTC Biển Đức còn nhận định về Đức Gioan Phaolô II tiền nhiệm của ngài rằng: “Như Thánh Faustina, Đức Gioan Phaolô II cũng đã trở thành một vị tông đồ của lòng thương xót thần linh. Vào đêm Thứ Bảy 2/4/2005 không thể quên được ấy, khi ngài vĩnh viễn lìa đời thì chính là thời điểm lễ vọng Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh đã được cử hành, và nhiều người nhận định thấy sự trùng hợp đặc thù này, một sự trùng hợp giữa chiều kích Thánh Mẫu là ngày Thứ Bảy Đầu Tháng và chiều kích lòng thương xót thần linh”. Trong cuốn “Đức Gioan Phaolô II: Sống Là Chúa Kitô – Chết là Vinh Thắng”, ở những giòng cuối cùng kết thúc cuốn sách, trang 267, tôi đã chia sẻ cảm nhận như sau: “Tóm lại, … Đức Gioan Phaolô II … đã luôn kêu gọi con người đừng sợ mà hãy mở cửa cho Chúa Kitô, nghĩa là hãy tin vào Lòng Thương Xót Chúa… Thế nhưng, để được như vậy, để nhân loại có thể ‘chấp nhận Lòng Thương Xót Chúa’, Giáo Hội nói chung và vị tân giáo hoàng nói riêng, phải trở thành Tông Đồ của Lòng Thương Xót Chúa, nhờ ‘việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm vĩ đại của tình yêu nhân hậu xuất phát từ thánh tâm Chúa Giêsu này bằng ánh mắt của Mẹ Maria’”. Rõ ràng nhất là trong tác phẩm “Sống Thánh Chứng Nhân – Fatima Đạo Binh Dàn Trận”, do Phong Trào Thế Giới Tông Đồ Fatima Việt Nam xuất bản năm 2006, ở trang 253, tôi đã cảm nhận như sau: “Phải nói rằng, nơi con người đặc biệt này kết tụ cả thời điểm Thánh Mẫu và Thánh Tâm này, một con người vì thế đã qua đời vào Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng [vốn là ngày Thánh Mẫu hằng tháng kính Mẹ], áp Lễ Chúa Tình Thương, nghĩa là được nghỉ ngơi đời đời trong Chúa nơi lòng Mẹ, rất thích hợp với khẩu hiệu “Totus Tus” của ngài, một khẩu hiệu nói lên linh đạo ‘Nhờ Mẹ đến với Chúa’ của ngài”).
Từ thuở nhỏ, Đức Karol Wojtyla đã cảm nghiệm được chân lý của những lời ấy, khi thấy được thập tự giá trên con đường của mình, trong gia đình của mình, với dân tộc của mình. Ngài đã sớm quyết định vác thập giá bên Chúa Giêsu, theo bước chân của Người. Ngài muốn là người tôi tớ trung thành của Người cho đến độ tiếp nhận ơn gọi làm linh mục như là một tặng ấn và là một cuộc dấn thân suốt cuộc đời của ngài. Với Người, ngài đã sống, và cùng với Người ngài đã muốn được chết đi. Ngài đã làm tất cả những điều này nhờ trung gian đặc thù của Mẹ Maria rất thánh là Mẹ của Giáo Hội, Mẹ của Đấng Cứu Chuộc, người Mẹ đã sâu xa và thực sự liên kết với mầu nhiệm cứu độ nơi việc tử nạn và phục sinh của Người.
Trong việc suy tư cảm kích này, những bài đọc Thánh Kinh vừa được công bố là những gì hướng dẫn chúng ta: “Đừng sợ” (Mt 28:5). Những lời của vị thiên thần của biến cố Phục Sinh này đã ngỏ cùng những người phụ nữ trước ngôi mộ trống mà chúng ta vừa nghe đã trở nên một mẫu tâm niệm trên môi miệng của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, từ những giây phút long trọng khởi đầu thừa tác vụ thừa kế Thánh Phêrô của ngài. Ngài đã lập lại những lời ấy vào các trường hợp khác nhau với Giáo Hội cũng như với thế giới trong cuộc hành trình tiến tới năm 2000, và sau khi đã trải qua thời điểm lịch sử đó, cũng như sau này, vào lúc mở màn cho một tân thiên kỷ. Ngài đã luôn luôn nói đến những lời này một cách vững mạnh, đầu tiên bằng việc giơ chiếc cậy được đính thập giá của ngài lên, và sau đó, khi sức lực của ngài bị yếu kém đi, ngài đã gắn liền với cậy gậy thập giá này, cho đến Ngày Thứ Sáu cuối cùng, một ngày mà ngài đã tham dự Đường Thánh Giá ở nguyện đường riêng của ngài, bằng hai cánh tay ôm lấy cây thập tự giá.
Chúng ta không thể nào quên được chứng từ yêu mến Chúa Giêsu của ngài cuối cùng thầm lặng ấy. Cảnh tượng hùng hồn của khổ đau nhân loại với niềm tin tưởng này, trong Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh ấy, cũng cho tín hữu cùng thế giới thấy cái bí quyết sống của hết mọi cuộc đời Kitô hữu. Cái “đừng sợ” ấy không phải là những gì dựa vào sức lực của loài người, cũng như vào những thành đạt chiếm đưoơc, trái lại, chỉ vào lời Chúa, vào thập giá và vào việc phục sinh của Chúa Kitô. Nơi mức độ mà ngài bấy giờ bị tước lột hết mọi sự, cuối cùng, cho đến chính cả những lời nói của ngài nữa, thì việc hoàn toàn phó mình cho Chúa Kitô của ngài lại càng được sáng tỏ.
Quí huynh khả kính và thân mến: tôi xin cám ơn tất cả quí huynh đã liên kết với tôi trong Thánh Lễ cầu cho linh hồn của Đức Gioan Phaolô II thân yêu. Tôi đặc biệt hướng lòng về những tham dự viên vào hội nghị tiên khởi về Lòng Thương Xót Chúa, một hội nghị thực sự được bắt đầu hôm nay, và là hội nghị nhắm tới việc đào sâu hơn giáo huấn phong phú của ngài về chủ đề này. Tình thương của Thiên Chúa, như chính ngài nói, là then chốt đặc biệt cho việc hiểu được giáo triều của ngài. Ngài muốn sứ điệp về tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa được phổ biến tới tất cả mọi người nam nữ, và ngài kêu gọi tín hữu hãy trở thành chứng nhân cho sứ điệp này (Cf. Homily at the dedication of the Shrine of Divine Mercy, Aug. 17, 2002.).
Đó là lý do ngài đã muốn nâng lên bàn thờ Nữ Tu Faustina Kowalska, một tu sĩ khiêm hạ đã được ý nhiệm thần linh biến đổi thành vị sứ giả tiên tri của lòng thương xót thần linh. Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II đã biết được và bản thân đã trải qua những thảm họa của thế kỷ 20, và ngài đã tự hỏi mình trong một thời gian dài cái gì có thể ngăn chặn được bước tiến của sự dữ. Câu trả lời chỉ có thể tìm thấy nơi tình yêu của Thiên Chúa. Thật vậy, chỉ có tình thương thần linh mới có thể hạn chế sự dữ; chỉ có tình yêu toàn năng của Thiên Chúa mới có thể lật đổ việc thống trị của những kẻ dữ và quyền lực hủy hoại của cái tôi và hận thù. Vì lý do ấy, trong chuyến viếng thăm Balan lần cuối cùng của mình, khi trở về quê hương xứ sở của mình, ngài đã nói rằng: “nhân loại không còn hy vọng nào khác ngoài tình thương của Thiên Chúa”.
Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa vì Người đã ban cho Giáo Hội người tôi trung can trường này. Chúng ta hãy ca ngợi và chúc tụng Trinh Nữ Maria về việc luôn canh chừng bản thân ngài và thừa tác vụ của ngài cho lợi ích của dân Kitô giáo cũng như cho toàn thể nhân loại. Và trong lúc chúng ta hiến dâng linh hồn ưu tuyển của ngài cùng với Hy Tế cứu chuộc, chúng ta hãy xin ngài tiếp tục chuyển cầu từ trời cao cho mỗi một người chúng ta, đặc biệt là cho tôi, người đưoc Đấng Quan Phòng kêu gọi để tiếp tục gia sản thiêng liêng vô giá của ngài. Chớ gì Giáo Hôi, theo giáo huấn và gương lành của ngài, trung thành tiếp tục sứ vụ truyền bá phúc âm hóa của mình một cách bất dung hòa, không ngừng truyền bá tình yêu nhân hậu của Chúa Kitô là nguồn mạch hòa bình chân thực cho toàn thế giới.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 2/4/2008 (những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
|
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |