Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
THỨ TƯ 16/4/2008
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI Tiểu Sử Mừng Sinh Nhật 81 Tuổi Đức Giáo Hoàng Biểm Đức XVI Maria: Cửa Ngõ Thiên Chúa Vào Trần Gian Bài Giảng Giờ Kinh Phụng Vụ Tối Áp Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng 26/11/2005 Đức Giáo Hoàng Biểm Đức XVI "Hãy tham dự vào việc lắng nghe, vào việc đáp ứng và vào mối hiệp thông với đời sống của Chúa Giêsu từ ngày này sang ngày khác" Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 23/8/2006 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI Tổng Thống Bush nói về Cuộc Viếng thăm của ngài
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Tiểu Sử
Mừng Sinh Nhật 81 Tuổi
ĐHY Joseph Ratzinger, nguyên tổng trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, Chủ Tịch Ủy Ban Thánh Kinh của Tòa Thánh và Ủy Ban Thần Học Thế Giới, Trưởng Hồng Y Đoàn, được vào đời ngày 16/4/1927, ở Marktl am Inn, Đức quốc. Ngài được thụ phong linh mục ngày 29/6/1951.
Cha của ngài là một nhân viên cảnh sát, xuất thân từ một gia đình truyền thống nông dân ở vùng Hạ Thổ Bavaria. Ngài là út trong một gia đình có 3 chị em. Ngài đã sống những năm thanh thiếu niên ở Traunstein, và được gọi phục vụ phụ giúp cho ngành phòng không vào những tháng cuối cùng của Thế Chiến Thứ II. Từ năm 1946 đến 1951, năm ngài được thụ phong linh mục và bắt đầu giảng dạy, ngài đã học triết lý và thần học ở Đại Học Munich và tại trường cao đẳng ở Freising. Vào năm 1953, ngài đậu tiến sĩ thần học với luận án “Dân Chúa và Nhà Chúa nơi giáo huấn của Thánh Âu Quốc Tinh về Giáo Hội”. Bốn năm sau đó, ngài hợp lệ để làm giáo sư dạy đại học. Bấy giờ ngài dạy khoa tín điều và cơ bản thần học tại trường cao đẳng triết lý và thần học Freising, ở Bonn từ năm 1959 đến 1969, ở Munster từ 1963 đến 1966, và ở Tubinga từ 1966 đến 1969. Từ năm 1969, ngài là giáo sư dạy khoa tín lý thần học và khoa tín điều sử ở Đại Học Regensburg và là phó chủ tịch của chính đại học này.
Ngài được nổi tiếng vào năm 1962, lúc ngài tham dự Công Đồng Chung Vaticanô II năm 35 tuổi với tư cách là tham vấn cho Đức Hồng Y Joseph Frings, TGM Cologne. Trong nhiều tác phẩm của mình, những quyển đặc biệt là “Nhập Môn Kitô Giáo”, một tổng hợp các bài dạy ở đại học về việc tuyên xưng đức tin, được xuất bản năm 1968; và cuốn “Tín Điều và Mạc Khải”, một hợp tuyển các bài luận đề, giảng và suy tư giành cho việc thừa tác mục vụ, xuất bản năm 1973. Ngoài ra còn rất nhiều nữa sau này.
Vào Tháng 3/1977, Đức Phaolô VI đã bổ nhiệm ngài làm TGM Munich và Freising và vào ngày 28/5/1977 ngài được tấn phong, một vị linh mục giáo phận đầu tiên sau 80 năm được nắm trách nhiệm thừa tác mục vụ của giáo phận rộng lớn ở Bavarian này.
Ngài là cáo thỉnh viên Thượng Nghị Giám Mục lần thứ V năm 1980. Ngài là chủ tịch Thượng Nghị Giám Mục lần VI năm 1983. Được chọn làm phó Hồng Y Đoàn ngày 6/11/1998, và là trưởng Hồng Y Đoàn ngày 30/11/2002. Là chủ tịch Ủy Ban sửa soạn cho cuốn Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo 6 năm (1986-1992).
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Maria: Cửa Ngõ Thiên Chúa Vào Trần Gian
Bài Giảng Giờ Kinh Phụng Vụ Tối Áp Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng 26/11/2005
“Chúng ta phải tự hỏi mình ‘việc Chúa đến’ có nghĩa là gì? Theo Hy ngữ có nghĩa là ‘parousia’, theo La ngữ là ‘adventus’, là ‘vọng’, là ‘đến’. ‘Việc đến’ này là thế nào? Nó có liên hệ với chúng ta hay chăng?
“Vậy để hiểu được ý nghĩa của lời này, của lời Thánh Tông Đồ nguyện cầu cho cộng đồng này và các cộng đồng trong mọi thời đại – cả cho chúng ta nữa – chúng ta cần phải nhìn đến một con người đã làm cho việc đến của Chúa được hiện thực một cách đặc biệt, đó là Trinh Nữ Maria.
“Mẹ Maria thuộc về thành phần dân chúng Yến Duyên, trong thời điểm Chúa Giêsu, đang hết lòng mong đợi Đấng Cứu Thế tới. Và căn cứ vào những lời lẽ và tác hành được thuật lại trong Phúc Âm, chúng ta có thể thấy được cách thức Mẹ thực sự đã sống thấm nhuần các lời tiên tri; Mẹ hoàn toàn đợi trông Chúa tới.
“Tuy nhiên, Mẹ đã không thể nào ngờ được việc đến này diễn ra ra sao. Có lẽ là Mẹ đã mong đợi một việc đến trong vinh quang. Lúc mà Tổng Thần Gabiên vào nhà của Mẹ và nói cho Mẹ biết rằng Chúa, Đấng Cứu Tinh, muốn mặc lấy xác thịt trong lòng Mẹ, muốn thực hiện việc Ngài đến qua Mẹ, chắc chắn đã là tất cả những gì làm cho Mẹ lại càng bàng hoàng ngỡ ngàng.
“Chúng ta có thể tưởng tượng ra nỗi e dè của vị Trinh Nữ này. Mẹ Maria, bằng một tác động mãnh liệt của đức tin và lòng tuân phục, đã thưa ‘xin vâng’: ‘Tôi là tôi tớ của Chúa’. Nhờ đó, Mẹ đã trở thành ‘nơi cư trú’ của Chúa, là ‘đền thờ’ thực sự trên thế giới và là ‘cửa ngõ’ Chúa tiến vào thế gian”.
"Hãy tham dự vào việc lắng nghe, vào việc đáp ứng và vào mối hiệp thông với đời sống của Chúa Giêsu từ ngày này sang ngày khác"
Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 23/8/2006 - Giáo Lý về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền - Bài 18: Tông Đồ Philiphê
Chúng ta có thể nghĩ rằng Philiphê đặt vấn đề với chúng ta bằng hai động từ này là hai động từ bao hàm một thứ tham phần riêng tư. Ngài cũng nói với chúng ta những gì ngài nói với Nathanaen: ‘Hãy đến mà xem’. Vị tông đồ này thúc đẩy chúng ta hãy nhận biết Chúa Giêsu một cách cận kề. Thật vậy, để thực sự nhận biết người khác, tình hữu nghị đòi phải có sự gần gũi, đòi phải một cái gì đó hơn nữa, đòi phải sống một cách nào đó bởi sự gần gũi này. Thật vậy, chúng ta không được quên rằng, theo những gì Thánh Marcô viết thì Chúa Giêsu đã chọn 12 vị với một mục đích chính yếu đó là ‘các vị ở với Người’ (Mk 3:14), tức là, các vị tham dự vào đời sống của Người và trực tiếp học nơi Người chẳng những kiểu cách tác hành mà nhất là biết được Người thực sự là ai.
Chỉ có thế, chỉ nhờ được tham phần vào đời sống của Người, các vị mới nhận biết và loan báo về Người. Sau này, trong Thư Thánh Phaolô gửi cho giáo đoàn Êphêsô, chúng ta đọc thấy rằng điều quan trọng đó là ‘Chúa Kitô được họ học biết’ (4:20), tức là điều quan trọng không phải chỉ là hay trên hết là lắng nghe các giáo huấn của Người, những lời nói của Người, mà là nhận biết Người một cách thân mật, tức là nhận biết nhân tính và thần tính của Người, nhận biết mầu nhiệm về sự mỹ lệ của Người.
Người không phải chỉ là Thày, mà còn là một Thân Hữu, hơn thế nữa, là Người Anh. Làm sao chúng ta có thể nhận biết Người nếu chúng ta ở cách xa Người chứ? Tình thân, nghĩa thiết, quen thuộc, là những gì làm cho chúng ta khám phá ra căn tính thực sự của Chúa Giêsu Kitô. Đó chính là những gì Tông Đồ Philiphê nhắc nhở chúng ta. Đó là lý do tại sao Người mời chúng ta hãy ‘đến’ mà ‘xem’, tức là hãy tham dự vào việc lắng nghe, vào việc đáp ứng và vào mối hiệp thông với đời sống của Chúa Giêsu từ ngày này sang ngày khác. …
Đức Giáo Hoàng Biểm Đức XVI
Tổng Thống Bush nói về Cuộc Viếng thăm của ngài
Sau đây là cuộc phỏng vấn của phóng viên Đài Truyền Hình EWTN Raymond Arroyo với Tổng Thống Bush hôm Thứ Sáu mgày 11/4/2008.
Vấn: Thưa Tổng Thống, đây là vị lãnh đạo đầu tiên của một quốc gia, tức Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI, mà Tổng Thống sẽ chào mừng ở trên một sân bay. Tôi cảm thấy giật mình khi biết được điều này. Tại sao Tổng Thống đến chào mừng ngài ở một bãi đáp chứ? Thường thì các vị lãnh đạo quốc gia đến đây mà.
Đáp: Vì ngài thật sự là một nhân vật quan trọng mang nhiều ý nghĩa. Thứ nhất là ngài nói với hằng triệu triệu con người ta. Thứ hai là ngài không đến như là một chính trị gia; ngài đến như là một con người của niềm tin. Và thứ ba, tôi rất đồng ý với quan niệm của ngài là trong vấn đề đúng sai trong đời sống thì chủ nghĩa tương đối về luân lý là những gì nguy hiểm làm suy yếu khả năng để có được những xã hội tốt đẹp và tự do hơn, nên tôi muốn trân trọng những xác tín ấy của ngài nữa.
Vấn: Tôi nghe nói là Tổng Thống đã đọc tác phẩm của ngài về Âu Châu thì phải.
Đáp: Đúng thế, tôi đã đọc những phần của cuốn sách này.
Vấn: Tổng Thống nói chung nghĩ sao về việc ngài thẩm định về Âu Châu và thế giới? Và tại sao mối liên hệ giữa Hiệp Chủng Quốc với Tòa Thánh này lại rất quan trọng đối với Tổng Thống?
Đáp: Trước hết nó quan trọng đối với tôi là vì Đức Thánh Cha là tiêu biểu và chủ trương một số giá trị mà tôi nghĩ là quan trọng cho tính chất lành mạnh của xứ sở này, và khi ngài đến Hoa Kỳ thì hằng triệu triệu đồng bào của tôi sẽ lắng nghe lời của ngài. Và đó là lý do tại sao nó quan trọng. Tôi thực sự không muốn đi sâu vào vấn đề – bỏ giờ ra nhận định về Âu Châu. Mục tiêu chính của tôi đó là làm sao bảo đảm được rằng xứ sở của chúng ta là một quốc gia hùng cường, vững chắc và tiếp tục đóng vai trò lãnh đạo. Một trong những xác tín của tôi về chính sách ngoại giao đó là có một Đấng Toàn Năng, và điều Đấng Toàn Năng này ban cho hết mọi con người nam nữ và trẻ em đó là tự do. Và quí vị cũng biết rằng Đức Thánh Cha nói rất rõ ràng về điều ấy. Như quí vị biết tôi cũng là một người chấp nhận giá trị về sự sống của con người, một sự sống như quí vị thấy, là những gì bị tổn thương nhất nơi chúng ta. Và ngài nói rõ ràng về vấn đề này nữa.
Vấn: Phải, tôi muốn nói về vấn đề này một chút sau này, vì Tổng Thống – như ông rõ đấy, ngài đã khen ngợi và chắc chắn ngài còn lập lại, vì Tổng Thống rất cương quyết với các vấn đề phò sự sống. Tôi muốn nói tới một số vấn đề mà chắc chắn được ngài nêu lên. Một trong những vấn đề này là Phi Châu. Tôi đã rất hào hứng theo dõi chuyến viếng thăm của Tổng Thống ở Phi Châu. Tổng Thống giống như Đức Giáo Hoàng ở Tanzania khi Tổng Thống tới đó. (cười). Tôi có ý nói là cả thành phố bừng nở. Tôi không nghĩ rằng dân chúng đã cống hiến cho Tổng Thống chỉ là những món tráng miệng hay lời khen về những gì Tổng Thống làm ở đó. Tổng Thống đã tăng gấp 4 lần mức viện trợ cho Phi Châu. Dự Án Tổng Thống Cứu Trợ Hội Chứng Liệt Kháng của Tổng Thống hiện nay đang chữa trị cho 1.4 triệu người. Việc chữa trị bệnh sốt rét là những gì không thể nào ngờ được – khoảng 50 triệu người hiện nay đang được giúp đỡ. Khi Tổng Thống nhìn đến việc này – tôi được một nhóm người đến đây gặp Tổng Thống ở Tòa Bạch Ốc, Tổng Thống đã nói rằng ai được ban nhiều thì cũng bị đòi nhiều. Phải chăng có một động lực thúc bách về đức tin ở đây theo phương diện cá nhân?
Đáp: Chắc chắn là thế.
Vấn: Phải chăng bằng việc hỗ trợ ấy?
Đáp: Nó là một liên kết giữa niềm tin và việc thực hành. Theo quan điểm về thực hành, đối với thành phần ý hệ nhân sát hại kẻ vô tội thì niềm vô vọng là cách duy nhất để có thể tuyển mộ những kẻ theo mình. Không ai có một nhãn quan tối tăm mù mịt như nhóm al Qaeda lại có thể nói với một người nào đó rằng hãy theo tôi, vì nhãn quan của tôi là những gì hy vọng hay tích cực. Khi quí vị ở vào tình trạng quá vô vọng thì dường như đó là lối thoát duy nhất của quí vị. Bởi thế mà việc giải quyết vấn đề bệnh tật và đói khổ cùng trạng thái thất vọng là những gì giúp vào vấn đề khống chế được tình trạng vô vọng ấy – chế ngự được cả khối thành phần ý hệ nhân. Thế rồi, thứ đến, tôi tin rằng vì lợi ích chung riêng của mình chúng ta cần phải sử dụng những ân phúc cao cả của chúng ta để giúp đỡ kẻ khác, dù là quốc nội hay quốc ngoại. Đó là lý do một trong những gì tôi tin tưởng đó là “ai được ban cho nhiều thì bị đòi hỏi nhiều”. Và tôi luôn nói với dân chúng rằng nó vì ích lợi của quốc gia chúng tôi – vì ích lợi về luân lý chúng tôi. Linh hồn của chúng ta cảm thấy kiêm cường khi biết rằng chúng ta đã cứu được một em bé có thể bị chết bởi bị muỗi cắn. Tôi đang mong nói chuyện với Đức Thánh Cha, và tôi sẽ nhắc nhở ngài đó không phải là chuyện của George W. Bush này; đó là chuyện của Hoa Kỳ. Đó là những gì sáng giá nhất ở Hoa Kỳ. Thế nhưng, đúng thật là ngỡ ngàng khi thấy được những người công dân tỏ ra hết sức cảm phục vì chúng ta – với chúng ta – hay về chúng ta.
Vấn: Chúng ta hãy nói qua về Iraq. Đức Giáo Hoàng chắc chắn sẽ đề cập tới vấn đề này.
Đáp: Chắc chắn rồi.
(còn tiếp)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 13/4/2008
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
||
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |