Tuần Lễ Đức GH BĐ XVI (14-24/4/2008): Tông Du (15-20), Sinh Nhật (16), Đắc Cử (19) và Đăng Quang Giáo Hoàng (24)

 

THỨ BẢY 19/4/2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

Liên Hiệp Quốc hiện thân hóa niềm khát vọng có được “một mức độ khá hơn về trật tự quốc tế”

Với Các Phần Tử thuộc Tổng Hội Đồng của Tổ Chức Liên  Hiệp Quốc ở Nữu Ước Hoa Kỳ Thứ Sáu 18/4/2008

   CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Đức Giáo Hoàng Biểm Đức XVI

"Quyền lực của con rồng đỏ, một lần nữa xuất hiện nơi các chế độ độc tài hạng nặng của thế kỷ vừa qua"

 Bài Giảng Lễ Mẹ Mông Triệu Thứ Tư 15/8/2007 ở Giáo Xứ Thánh Thomas Villanova, Castel Gandolfo

   MẾN Yêu Thánh Thể  

Đức Giáo Hoàng Biểm Đức XVI

"Chỉ có ai ở ‘với Người’ mới nhận biết Người và mới có thể thực sự rao giảng về Người"

 Bài giảng Giờ Kinh Tối Thánh Mẫu Ngày Thứ Hai 11 tại Đền Thờ Thánh Anna Ở Altotting

  YÊU Thương Tha Nhân  

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

Đại Kết Kitô Giáo cần hiểu biết nhau và đối thoại với nhau

 Bài Giảng cho Giờ Kinh Tối Đại Kết Lễ Thánh Phaolô Trở Lại ở Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành

 

      

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI
 

 

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

 

Liên Hiệp Quốc hiện thân hóa niềm khát vọng có được “một mức độ khá hơn về trật tự quốc tế”

Với Các Phần Tử thuộc Tổng Hội Đồng của Tổ Chức Liên  Hiệp Quốc ở Nữu Ước Hoa Kỳ Thứ Sáu 18/4/2008

(Tiếng Pháp)

Thưa Ông Chủ Tịch,

Thưa Quí Bà Quí Ông,

 

Để bắt đầu ngỏ lời cùng Hội Đồng này, trước hết tôi bày tỏ cùng Ông Chủ Tịch niềm tri ân chân thành của tôi về những lời lẽ tốt đẹp của ông. Tôi cũng xin cám ơn ông Tổng Thư Ký Ban Ki-moon đã mời tôi đến thăm tổng hành dinh của Tổ Chức nàycùng những lời nghênh đón ông ngỏ cùng tôi. Tôi xin chào các vị Lãnh Sự và Ngoại Giao thuộc các Quốc Gia Phần Tử cùng toàn thể mọi vị hiện diện nơi đây. Qua quí vị, tôi xin gửi lời chào đến nhân dân được quí vị đại diện ở chỗ này. Họ mong tổ chức này tiếp tục thực thi cái hứng khởi ban đầu trong việc thiết lập “một trung tâm hòa hợp những hoạt động của các quốc gia để đạt được những mụch đích chung” về hòa bình và phát triển ấy (cf. Charter of the United Nations, article 1.2-1.4). Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã bày tỏ điều này vào năm 1995, thì Tổ Chức này cần phải là “một trung tâm về luân lý, nơi tất cả mọi quốc gia trên thế giới đều cảm thấy quen thuộc và càng thấy được mình thực sự là một ‘gia đình chư dân’” (Address to the General Assembly of the United Nations on the 50th Anniversary of its Foundation, New York, 5 October 1995, 14).

 

Qua Liên Hiệp Quốc đây, các Quốc Gia đã thiết lập những mục tiêu chung, những mục tiêu mà, cho dù chúng không hợp với toàn thể công ích của nhân loại, chắc chắn cũng là một yếu tố căn bản của cái thiện ích ấy. Những nguyên tắc nền tảng của Tổ Chức này – ước muốn hòa bình, tìm cầu công lý, tôn trọng phẩm vị con người, vấn đề hợp tác và trợ giúp về nhân đạo – cho thấy những ước vọng chính đáng của tinh thần con người, và cấu tạo nên những lý tưởng cần phải có để củng cố những mối liên hệ quốc tế. Như các vị tiền nhiệm Phaolô VI và Gioan Phaolô II của mình đã bày tỏ nhận định của các vị ở chính diễn đài này, thì tất cả những gì Giáo Hội Công Giáo và Tòa Thánh cẩn thận và chăm chú theo dõi, đó là thấy được nơi hoạt động của quí vị một mẫu gương về việc làm thế nào để các vấn đề và những thứ xung khắc liên quan tới cộng đồng thế giới có thể đi theo qui định chung. Liên Hiệp Quốc hiện thân hóa niềm khát vọng có được “một mức độ khá hơn về trật tự quốc tế” (John Paul II, Sollicitudo Rei Socialis, 43), một trật tự quốc tế được tác động và chi phối bởi nguyên tắc phụ trợ, nhờ đó có khả năng đáp ứng những đòi hỏi của gia đình nhân loại bằng những luật lệ quốc tế có hiệu lực cũng như nhờ những cấu trúc có khả năng hòa hợp tình trạng ngày ngày vươn lên nơi cuộc sống của chư dân. Điều này lại càng cần hơn nữa ở vào thời điểm chúng ta đang cảm nghiệm thấy cái ngược nghịch hiển nhiên của một thứ đồng thuận đa phương đang tiếp tục bị khủng hoảng vì nó vẫn bị lệ thuộc vào những quyết định của một thiểu số, trong khi đó những vấn đề trục trặc của thế giới này cần đến những thứ can thiệp theo thể thức tác hành chung của cộng đồng quốc tế.

 

Thật vậy, những vấn nạn về an ninh, về những mục đích phát triển, về việc giảm thiểu những mức độ bất quân bình ở địa phương và trên toàn cầu, việc bảo vệ môi sinh, các nguồn tài nguyên và khí hậu, là những gì đòi hỏi tất cả mọi nhà lãnh đạo trên thế giới liên kết hoạt động và tỏ ra sẵn sàng tin tưởng hoạt động, bằng cách tôn trọng luật lệ và cổ võ tình đoàn kết với những miền đất yếu kém nhất trên trái đất này. Tôi đặc biệt nghĩ đến những quốc gia ở Phi Châu và các phần đất khác trên thế giới vẫn còn đang ở bên lề cuộc phát triển toàn diện thực sự, và vì thế đang có nguy cơ nếm trải toàn là những hậu quả tiêu cực của tiến trình toàn cầu hóa. Trong bối cảnh của các mối liên hệ quốc tế, cần phải nhìn nhận là luật lệ và các cơ cấu đã đóng một vai trò quan trọng hơn mà tự bản chất của chúng nhắm đến việc cổ võ công ích, nhờ đó bảo toàn được tự do của con người. Những qui định ấy không hạn chết tự do. Trái lại, chúng gia tăng tự do khi chúng cấm đoán tác hành cùng những hoạt động phản lại công ích, ngăn chặn việc hành sử gây tác dụng của nó do đó gây tổn thương tới phẩm giá của hết mọi con người. Vì tự do cần phải có một sự tương giao giữa những quyền lợi và nhiệm vụ là những gì hết mọi người được kêu gọi đảm trách về những quyết định của mình được chọn lựa căn cứ vào mối liên hệ với người khác. Ở đây chúng ta cũng nghĩ đến đường lối được các thành quả của việc nghiên cứu khoa học và tiến bộ về kỹ thuật đôi khi đem ra áp dụng. Ngoài những lợi ích to lớn nhân loại có thể chiếm đạt, có một số trường hợp chúng lại cho thấy trắng trợn phạm đến trật tự thiên nhiên, cho đến độ chẳng những phản nghịch lại với tính chất linh thánh của sự sống mà còn cướp mất căn tính tự nhiên của con người và gia đình nữa. Cũng thế, hoạt động quốc tế trong việc bảo trì môi trường cũng như bảo vệ những hình thức khác nhau của sự sống trên trái đất chẳng những cần phải bảo đảm được việc sử dụng hợp lý kỹ thuật và khoa học, mà còn phải tái nhận thức được hình ảnh chân thực của thiên nhiên tạo vật nữa. Điều này không bao giờ đòi hỏi một sự chọn lựa giữa khoa học và đạo lý: trái lại, nó là vấn đề chấp nhận một thứ phương pháp khoa học thật sự tôn trọng các chỉ thị của đạo lý.

 

Ngày nay nguyên tắc về trách nhiệm bảo vệ đã được tái nhấn mạnh nơi việc nhìn nhận mối hiệp nhất của gia đình nhân loại, và việc chú trọng tới phẩm giá bẩm sinh của hết mọi con người nam nữ. Điều này cũng mới được nhận thấy mà thôi, song nó đã hiện diện sâu xa nơi các nền tảng của Liên Hiệp Quốc, và giờ đây hoạt động của nó càng ngày càng nổi nang. Hết mọi Quốc Gia có nhiệm vụ chính yếu trong việc bảo vệ dân chúng của mình khỏi những vi phạm nhân quyền trầm trọng và kéo dài, cũng như khỏi những hậu quả gây ra bởi những cuộc khủng hoảng về nhân đạo, hoặc bởi thiên nhiên hay nhân tạo. Nếu các Quốc Gia không thể bảo toàn được việc bảo vệ ấy thì cộng đồng quốc tế cần phải can thiệp bằng phương tiện pháp lý căn cứ vào Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc cũng như vào các phương tiện quốc tế khác. Hoạt động của cộng đồng quốc tế cùng với các cơ cấu của nó, nếu tôn trọng các nguyên tắc ràng buộc trật tự quốc tế, thì không bao giờ được cho là một áp đặt không cần thiết hay là một thứ hạn chế chủ quyền. Trái lại, việc tỏ ra dửng dưng hay không can thiệp lại là những gì gây tai hại thực sự. Vấn đề thiết yếu ở đây là việc chịu khó tìm kiếm hơn nữa những đường lối để ngăn ngừa và hành sử những cuộc xung khắc bằng việc lợi dụng mọi cách thức về ngoại giao có thể, và chú trọng cùng phấn khích cả đến những dấu hiệu mong manh nhất về việc đối thoại hay ước muốn hòa giải.

 

Nguyên tắc “trách nhiệm bảo vệ” được “ius gentium” cổ xưa coi như là nền tảng của hết mọi hành động cho những ai nắm chính quyền cần phải có đối với thành phần thuộc quyền: vào thời điểm khi mà quan niệm về Quốc Gia chủ quyền đất nước mới được phát triển, Tu Sĩ Dòng Đaminh Francisco de Vitoria, vị được coi là tiền hô cho tư tưởng này của Liên Hiệp Quốc, đã diễn tả trách nhiệm này như là một khía cạnh của lý trí tự nhiên được mọi dân nước chấp nhận, và như là thành quả của một thứ trật tự quốc tế có nhiệm vụ cần phải điều hành những mối liên hệ giữa các dân tộc. Giờ đây, cũng như bấy giờ, nguyên tắc này đã gợi lên ý nghĩ con người như là hình ảnh của Đấng Hóa Công, gợi lên ước muốn được tự do tuyêät đối và thực sự. Như chúng ta biết, việc thành lập Liên  Hiệp Quốc trùng hợp với những biến động sâu xa mà nhân loại đã trải qua khi những gì liên quan tới ý nghĩa về siêu việt tính và về lý trí tự nhiên bị loại bỏ, do đó, tự do và nhân phẩm đã bị trầm trọng vi phạm. Khi điều này xẩy ra thì nó đe dọa đến những nền tảng khách quan của những thứ giá trị đang tác động và chi phối trật tự quốc tế và nó làm suy yếu đi những nguyên tắc vững chắc bất khả vi phạm được Liên Hiệp Quốc hình thành và củng cố. Khi phải đương đầu đối diện với những thách đố mới và dai dẳng thì thật là sai lầm khi quay trở về với phương sách thực dụng, một phương sách khó lòng có được một “cơ sở chung”, nội dung thì chẳng có gì mấy và hiệu quả lại chẳng được bao nhiêu.

 

Vấn đề căn cứ vào phẩm vị con người này, một phẩm vị là nền tảng và là mục đích của trách nhiệm bảo vệ, dẫn chúng ta tới đề tài chúng ta đang đặc biệt chú trọng trong năm nay là năm mừng kỷ niệm 60 năm Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền. Bản văn kiện này là thành quả của một sự hội tụ những truyền thống tôn giáo và văn hóa khác nhau, tất cả đều được tác động bởi một ước vọng chung là đặt con người vào tâm điểm của các cơ cấu, luật lệ và những hoạt động của xã hội, và coi con người là những gì chính yếu đối với thế giới văn hóa, tôn giáo và khoa học. Quyền lợi của con người đang được coi là ngôn ngữ chung và là nền móng về đạo lý của các mối liên hệ quốc tế. Đồng thời, tính cách phổ quát, tính cách phân khả phân ly và tính cách liên thuộc của tất cả mọi quyền lợi con người đều giúp vào việc bảo đảm nhân phẩm. Tuy nhiên, các quyền lợi này đã được rõ ràng nhìn nhận và diễn giải trong Bản Tuyên Ngôn áp dụng cho hết mọi người vì có cùng một nguồn gốc làm người, thành phần vẫn là cao điểm trong dự án tạo dựng của Thiên Chúa đối với thế giới cũng như đối với lịch sử. Chúng được căn cứ vào luật tự nhiên là những gì in ấn nơi tâm can của con người và hiện diện ở những nền văn hóa và văn minh khác nhau. Đưa nhân quyền ra khỏi cấu trúc này nghĩa là hạn hẹp tầm vóc của chúng và nhường bước cho quan niệm tương đối, từ đó ý nghĩa và việc giải thích quyền lợi có thể biến đổi và tính chất phổ quát của nó bị chối bỏ nhân danh những quan điểm khác nhau về văn hóa, chính trị, xã hội và thậm chí cả tôn giáo. Cái rất khác nhau về những quan điểm này không được làm mờ ám sự kiện là chẳng những quyền lợi là những gì phổ quát mà cả  con người nữa là chủ thể của những quyền  lợi đó

 

(còn tiếp phần tiếng Anh dài bằng hay hơn phần tiếng Pháp trên đây)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2008/april/documents/hf_ben-xvi_spe_20080418_un-visit_en.html

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

 

"Quyền lực của con rồng đỏ, một lần nữa xuất hiện nơi các chế độ độc tài hạng nặng của thế kỷ vừa qua"

 

Bài Giảng Lễ Mẹ Mông Triệu Thứ Tư 15/8/2007 ở Giáo Xứ Thánh Thomas Villanova, Castel Gandolfo

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tổng hợp và tuyển dịch

 

 

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Trong đại tác phẩm Về Thành Đô của Thiên Chúa- De Civitate Dei, Thánh Âu Quốc Tinh có chỗ đã nói rằng toàn thể lịch sử nhân loại, lịch sử thế giới, là một cuộc đối chọi giữa hai thứ tình yêu: tình yêu Thiên Chúa đến độ đánh mất bản thân mình, hoàn toàn hiến thân mình, và tình yêu bản thân cho đến độ coi thường Thiên Chúa, ghét bỏ người khác. Lời giải thích tương tự về lịch sử như là một cuộc đối chọi giữa hai thứ tình yêu, giữa yêu thương và vị kỷ, cũng hiện lên ở bài đọc trích từ Sách Khải Huyền chúng ta vừa nghe.

 

Ở đây, hai thứ tình yêu này hiện lên nơi hai hình ảnh cả thể. Trước hết là có một con khổng long đỏ dũng mãnh tỏ ra quyền năng hung hãn và lũng đoạn, không ân huệ, chẳng yêu thương, hoàn toàn vị kỷ, dữ dằn và bạo động.

 

Vào thời điểm của Thánh Gioan viết cuốn Sách Khải Huyền thì con rồng này đối với ngài tiêu biểu cho quyền lực của các vị Hoàng Đề Rôma chống lại Kitô Giáo, từ Nero tới Domitian. Quyền lực này dường như vô hạn; quân quốc, quyền lực chính trị và tuyên truyền của Hoàng Đố Rôma là những gì mà đức tin, Giáo Hội, dường như là một người đàn bà yếu đuối không thể tự vệ để sống còn chứ chưa nói tới việc chiến thắng.

 

Ai có thể đứng lên chống lại quyền lực toàn năng dường như có thể chiếm đoạt được hết mọi sự ấy? Thế nhưng, chúng ta biết rằng cuối cùng chính người đàn bà yếu đuối bất lực ấy lại là kẻ chiến thắng chứ không phải thần tôi hay hận thù; tình yêu Thiên Chúa đã chiến thắng và Đế Quốc Rôma đã hướng về đức tin Kitô Giáo.

 

Những lời của Thánh Kinh bao giờ cũng là những gì vượt trên giai đoạn này của lịch sử. Bởi thế, con rồng này chẳng những cho thấy quyền lực chống lại Kitô Giáo của thành phần bách hại Giáo Hội bấy giờ, mà còn cho thấy những chế độ độc tài chống lại Kitô Giáo thuộc tất cả mọi giai đoạn lịch sử nữa.

 

Chúng ta thấy quyền lực này, quyền lực của con rồng đỏ, một lần nữa xuất hiện nơi các chế độ độc tài hạng nặng của thế kỷ vừa qua: chế độ độc tài Nazi và chế độ độc tài Stalin đã độc trị tất cả mọi quyền lực, thấm nhập hết mọi hang cùng ngõ hẻm, dù là đáy tận của hang cùng ngỏ hẻm. Dường như về lâu về dài đức tin không thể nào tồn tại được trước con rồng quá hung tợn đến nỗi không thể nào không chờ để nuốt đi vị Thiên Chúa đã trở thành một Con Trẻ, cũng như người đàn bà. Thế nhưng, cả trong trường hợp này nữa, cuối cùng tình yêu đã mạnh hơn  thù ghét.

 

Cả cho đến ngày hôm nay nữa, con rồng này vẫn hiện hữu bằng những đường lối mới mẻ và khác lạ. Nó hiện diện nơi hình thức của những ý hệ duy vật nói với chúng ta rằng thật là ngu xuẩn khi nghĩ về Thiên Chúa; thật là ngu đần khi giữ các giới luật của Thiên Chúa: chúng là những thứ thừa thãi của một thời đã qua. Đời sống chỉ đáng sống vì nó. Hãy chiếm lấy hết mọi sự chúng ta có thể chiếm được trong giây phút ngắn ngủi của đời sống. Chủ nghĩa hưởng thụ, vị kỷ và vui chơi mới là những gì đáng giá. Đó là đời sống. Đó là cách chúng ta cần phải sống. Và một lần nữa nó dường như là những gì ngu dại, bất khả, khi chống lại với não trạng chủ chốt này cùng với tất cả phương tiện truyền thông và quyền lực tuyên truyền của nó. Cả cho đến ngày hôm nay nữa, dường như không thể nào nghĩ tưởng được về một Vị Thiên Chúa đã dựng nên con người và đã đích thân trở thành một Con Trẻ và là Đấng  thực sự cai trị thế giới.

 

Thậm chí cho tới nay, con rồng này vẫn dường như bất khả bại, song ngày nay cũng rất thực là Thiên Chúa mạnh hơn con rồng, là chính tình yêu mới chiến thắng chứ không phải vị kỷ.

 

(còn tiếp)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2007/documents/hf_ben-xvi_hom_20070815_castel-gandolfo_en.html

 

 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 


Đức Giáo Hoàng Biểm Đức XVI

"Chỉ có ai ở ‘với Người’ mới nhận biết Người và mới có thể thực sự rao giảng về Người"

 

Bài giảng Giờ Kinh Tối Thánh Mẫu Ngày Thứ Hai 11 tại Đền Thờ Thánh Anna Ở Altotting

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tổng hợp và tuyển dịch

 

 

Quí Bạn thân mến!

 

Ở Altotting đây, nơi đầy ơn phúc này, chúng ta qui tụ lại – các chủng sinh đang sửa soạn làm linh mục, các linh mục, các tu sĩ nam nữ và các phần tử thuộc Hội Về Các Ơn Gọi Thiêng Liêng – qui tụ lại Đền Thờ Thánh Anna, trước đền thánh của người con gái của bà là Mẹ Chúa Kitô. Chúng ta đã qui tụ lại nơi đây để suy nghĩ về ơn gọi của chúng ta trong việc phục vụ Chúa Giêsu Kitô, và dưới ánh mắt chăm sóc của Thánh Anna, vị có ngôi nhà đã phát triển một ơn gọi cao cả nhất trong lịch sử cứu độ, chúng ta có thể hiểu được ơn gọi của mình hơn nữa. Mẹ Maria đã lãnh nhận ơn gọi của mình từ môi miệng của một vị thiên thần. Vị thiên thần này không tiến vào phòng của chúng ta một cách hữu hình, nhưng Chúa đã có một dự án cho mỗi một người trong chúng ta, Người gọi đích danh mỗi người chúng ta. Công việc của chúng ta là biết cách lắng nghe, biết nhận ra lời kêu gọi của Người, biết can đảm và trung thành theo Người, và khi đã nói và làm tất cả mọi sự, biết trở thành những người tôi tớ trung thực trong việc sử dụng những tặng ân được trao ban cho chúng ta.

 

Chúng ta biết rằng Chúa tìm kiếm những người thợ đến làm việc cho mùa gặt của Người. Chính Người đã nói như thế: ‘Mùa màng thì bề bộn nhưng thợ gặt thì ít ỏi; bởi thế hãy xin Chủ mùa hãy sai thợ đến làm việc cho mùa gặt của Ngài’ (Mt 9:37-38). Đó là lý do tại sao chúng ta qui tụ lại nơi đây để thiết tha yêu cầu Vị Chúa của mùa gặt. Mùa gặt của Chúa thật sự là bề bộn và cần đến thành phần thợ gặt: ở nơi gọi là Thế Giới Thứ Ba – ở Châu Mỹ Latinh, ở Phi Châu và ở Á Châu – dân chúng đang đợi chờ thành phần rao giảng tin mừng được mang đến cho họ Phúc Âm hòa bình, tin mừng của Thiên Chúa là Đấng đã làm người. Thế nhưng ở cả nơi được gọi là Tây Phương nữa, ở nơi Đức quốc giữa chúng ta đây, cũng như ở những miền đất rộng lớn của Nga, thật sự là cả một mùa gặt bề bộn có thể được gặt hái. Thế nhưng ít người muốn trở thành thành phần thợ làm việc cho mùa gặt của Thiên Chúa. Ngày nay cũng như bấy giờ, lúc mà Chúa Kitô cảm thương đám dân chúng như chiên không người chăn – thành phần dân chúng có lẽ biết cách thực hiện nhiều điều, nhưng thấy khó lòng làm cho đời sống của mình cảm thấy nghĩa lý. Lạy Chúa, xin hãy nhìn đến thời điểm rối loạn của chúng con đây, thời điểm cần đến những nhà giảng thuyết của Phúc Âm, những vị chứng nhân cho Chúa, những con người có thể chỉ cho thấy con đường dẫn tới ‘sự sống viên mãn’! Xin hãy nhìn đến thế giới của chúng con và dủ lòng thương xót một lần nữa! Xin hãy nhìn đến thế giới của chúng con và sai thợ gặt tới! Bằng lời thỉnh nguyện ấy, chúng ta gõ cửa của Thiên Chúa, nhưng cũng với lời thỉnh nguyện này Chúa đang gõ cửa lòng của chúng ta. Lạy Chúa, Chúa có cần con không? Có thể là quá vĩ đại đối với con? Phải chăng con quá nhỏ bé đối với công cuộc này? ‘Đừng sợ’, vị thiên thần nói cùng Mẹ Maria như thế. ‘Đừng sợ: Ta đã đích thân gọi tên ngươi’, Thiên Chúa nói với chúng ta, với từng người trong chúng ta, qua tiên tri Isaia (43:1).

 

Nếu chúng ta thưa ‘xin vâng’ với tiếng gọi của Chúa thì chúng ta đi đâu đây? Lời diễn tả ngắn gọn nhất về sứ vụ linh mục – và đó cũng đúng một cách đặc biệt với cả thành phần tu sĩ nam nữa nữa – đã được Thánh Ký Marcô cống hiến cho chúng ta. Trong đoạn trình thuật về việc 12 Vị được kêu gọi, thánh ký viết: ‘Chúa Giêsu chỉ định 12 vị để ở với Người và để được sai đi’ (3:14). Để ở với Chúa Giêsu và để được sai đi, đi gặp gỡ dân chúng – hai điều này thuộc về nhau và cùng nhau trở thành tâm điểm của ơn gọi, của thiên chức linh mục. Để ở với Người và để được sai đi – hai điều này là những gì bất khả phân ly. Chỉ có ai ở ‘với Người’ mới nhận biết Người và mới có thể thực sự rao giảng về Người. Và ai ở với Người thì không thể giữ lấy cho mình những gì họ đã tìm thấy; trái lại, họ thông đạt ra. Đó là trường hợp của Anrê, người đã nói với người anh em Simon rằng: ‘Chúng tôi đã gặp Đấng Thiên Sai’ (Jn 1:41). Rồi vị Thánh Ký thêm: ‘Anh đã mang Simon đến với Chúa Giêsu’ (Jn 1:42). Giáo Hoàng Grêgôriô Cả, ở một trong những bài giảng của mình, có lần nói là thiên thần của Thiên Chúa, dù có thi hành sứ vụ của mình xa xôi đi nữa cũng luôn chuyển động trong Thiên Chúa. Họ luôn ở với Ngài. Và trong khi nói về các thiên thần, Thánh Grêgôriô cũng nghĩ đến các vị giám mục và linh mục: họ đi bất cứ nơi nào, họ cũng luôn phải ‘ở với Ngài’. Chúng ta biết được điều này theo kinh nghiệm: bất cứ khi nào vị linh mục, vì nhiều thứ nhiệm vụ của mình, càng ngày càng có ít giờ giành để ở với Chúa, họ sẽ từ từ mất đi sức mạnh nội tâm là những gì bảo trì họ để có thể thi hành tất cả những hoạt động thường có tính cấh anh hùng của họ. Hoạt động của họ tiến đến chỗ duy động rỗng tuyếch. Để ở với Chúa Kitô – làm thế nào thực hiện đây? Đúng thế, điều tiên quyết và quan trọng nhất đối với một vị linh mục đó là Thánh Lễ hằng ngày của họ, luôn cử hành bằng một ý thức nội tâm sâu xa. Nếu chúng ta cử hành Thánh Lễ thực sự như là những con người của nguyện cầu, nếu chúng ta liên kết những ngôn từ và hoạt động của chúng ta với Lời đi trước chúng ta và để cho chúng được việc cử hành Thánh Thể hình thành, nếu trong việc Hiệp Lễ chúng ta để mình thực sự được Người ấp ủ và tiếp nhận Người – thì chúng ta đang ở với Người.

 

 

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 

Đức Giáo Hoàng Biểm Đức XVI

 

Đại Kết Kitô Giáo cần hiểu biết nhau và đối thoại với nhau

 

Bài Giảng cho Giờ Kinh Tối Đại Kết Lễ Thánh Phaolô Trở Lại ở Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Trong “Tuần Lễ Cầu Nguyện” sẽ được kết thúc vào buổi tối hôm nay đây, Các Giáo Hội và các Cộng Đồng Giáo Hội khắp thế giới gia tăng lời khẩn nài chung xin Chúa cho mối hiệp nhất Kitô Giáo. Cùng nhau chúng ta hãy suy niệm về những lời của Phúc Âm Thánh Marcô vừa được công bố, đó là “Người thậm chí còn làm cho kẻ điếc nghe thấy và người câm nói được” (7:37), một đề tài thánh kinh được các Cộng Đồng Kitô Hữu ở Nam Phi đề nghị..............

 

Khi cùng nhau lắng nghe lời Chúa, thực hành việc đọc Thánh Kinh lectio divina, tức là đọc với lời nguyện cầu, chúng ta hãy làm sao cho mình cảm thấy ngỡ ngàng trước cái mới mẻ của Lời Chúa là những gì không bao giờ cằn cỗi già đời và không bao giờ tiêu hao cạn kiệt; hãy thắng vượt tình trạng điếc lác của chúng ta trước những lời không hợp với các thành kiến và ý nghĩ của chúng ta; hãy lắng nghe cũng như hãy học hỏi, trong mối hiệp thông với các tín hữu thuộc tất cả mọi thời đại; tất cả những điều ấy làm nên một đường lối cần phải trải qua để đạt tới mối hiệp nhất trong một đức tin như là tác động đáp ứng việc lắng nghe Lời Chúa.

 

Bất cứ ai lắng nghe Lời Chúa đều có thể và cần phải nói năng và truyền đạt Lời Chúa cho người khác, cho những ai chưa bao giờ nghe thấy Lời Chúa, hay những ai đã lãng quên Lời Chúa và chôn vùi Lời Chúa vào những thứ rắc rối gai góc và lừa đảo của thế giới này (x Mt 13:22).

 

Chúng ta cần phải tự hỏi mình rằng: phải chăng Kitô hữu chúng ta có lẽ đã trở nên quá thinh lặng? Phải chăng có lẽ chúng ta đã thiếu can đảm để lên tiếng và làm chứng như những ai đã chứng kiến thấy việc chữa lành cho người câm điếc ở Miền Thập Thành? Phải chăng thế giới của chúng ta cần đến chứng từ này; nhất là thế giới đang chờ đợi một chứng từ chung của thành phần Kitô hữu chúng ta.

 

Bởi thế, việc lắng nghe Vị Thiên Chúa là Đấng đang nói cũng bao hàm cả việc lắng nghe nhau, việc đối thoại giữa Chư Giáo Hội và Các Cộng Đồng Giáo Hội. Việc đối thoại chân tình và trung thành là một thứ phương tiện tiêu biểu và bất khả thiếu trong việc tìm cầu hiệp nhất.

 

Sắc Lệnh về Đại Kết của Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhấn mạnh rằng nếu Kitô hữu không biết nhau một cách hỗ tương, thì việc tiến bộ trên con đường tiến đến mối hiệp thông là những gì không tưởng. Thật vậy, chúng ta lắng nghe và thông đạt bằng việc đối thoại; chúng ta đối chất nhau, và với ơn Chúa, có thể tiến đến chỗ qui hợp nơi Lời của Người, khi chấp nhận những đòi hỏi áp dụng cho tất cả mọi người theo Lời Người.

 

Các Nghị Phụ Công Đồng không phải chỉ muốn việc lắng nghe và đối thoại là những gì hữu dụng cho nguyên việc tiến bộ về đại kết, các vị còn thêm một khía cạnh liên quan tới chính Giáo Hội Công Giáo nữa, đó là, như bản văn viết: ‘Nhờ cuộc đối thoại như thế mà tình trạng của Giáo Hội Công Giáo thực sự ra sao lại càng hiện lên rõ ràng hơn’ (Unitatis Redintegratio, khoản 9).

 

Không thể nào thiếu được vấn đề là ‘giáo huấn cần phải được rõ ràng trình bày một cách trọn vẹn’ đối với một cuộc đối thoại chất vấn, bàn luận và thắng vượt những phân rẽ vẫn còn tồn tại nơi Kitô hữu, thế nhưng, dĩ nhiên là ‘cách thức và trật tự để bày tỏ niềm tin Công Giáo không được trở thành những gì gây trở ngại cho việc đối thoại với anh em của chúng ta’ (I bid, khoản 11).

 

Cần phải nói một cách đúng đắn (orthos) và một cách có thể lĩnh hội. Cuộc đối thoại đại kết này bao gồm việc sửa lỗi huynh đệ theo phúc âm và dẫn đến một thứ phong phú thiêng liêng hỗ tương trong việc chia sẻ những cảm nghiệm đích thực về đức tin và đời sống Kitô hữu.

 

Để thực hiện điều ấy, chúng ta cần phải không ngừng nài xin ơn trợ giúp của Thiên Chúa và ơn soi sáng của Thánh Thần. Đó là những gì Kitô hữu trên toàn thế giới đã thực hiện trong ‘Tuần Lễ’ đặc biệt này, hay những gì họ sẽ làm trong Tuần Chín trước Lễ Hiện Xuống, cũng như vào mọi trường hợp thích đáng, bằng việc dâng lên lời nguyện cầu tin tưởng của mình xin cho tất cả mọi người môn đệ của Chúa Kitô được nên một, và, xin cho họ, khi lắng nghe Lời Chúa, có thể cống hiến một chứng từ chung cho con người nam nữ của thời đại chúng ta...............

 

Tôi xin ký thác cho việc chuyển cầu của Thánh Phaolô, vị không ngừng xây dựng mối hiệp nhất của Giáo Hội, các hoa trái của những gì lắng nghe cũng như của chứng từ chung chúng ta đã từng có thểm nghiệm cảm thấy nơi nhiều cuộc họp mặt và đối thoại huynh đệ xẩy ra trong năm 2006, cả với Chư Giáo Hội Đông Phương cũng như với Chư Giáo Hội cùng Các Cộng Đồng Giáo Hội ở Tây phương.

 

Nơi những biến cố ấy, chúng ta có thể thấy được niềm vui của tình huynh đệ, cùng với nỗi hối hận về những thứ căng thẳng đang kéo dài, khi làm sinh động niềm hy vọng được Chúa khơi lên trong chúng ta.

 

Chúng ta hãy cám ơn tất cả những ai đã giúp vào việc gia tăng việc đối thoại đại kết bằng lời nguyện cầu, bằng việc hiến dâng nỗi khổ đau của họ, và bằng hoạt động liên lỉ của họ. Trên hết là Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta là Đấng chúng ta cần phải dâng lên những lời tạ ơn nồng thắm về hết mọi sự.

 

Chớ gì Trinh Nữ Maria xin cho chúng ta đạt được sớm bao nhiêu có thể niềm mong ước thiết tha nơi  Người Con thần linh của Mẹ: ‘cho họ tất cả được nên một… để thế gian tin tưởng’ (Jn 17:21).

 

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

TRONG THỜI ÐIỂM MARIA

MẸ MARIA XUẤT HIỆN NHƯ BÌNH MINH 

BÁO HIỆU MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH RẠNG NGỜI TỎ HIỆN...

 

“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất

thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai,

cho dù không cùng một kiểu cách -

  Being the way by which Jesus came to us the first time,

    she will also be the way by which He will come the second time,  

 though not in the same manner

      (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)

 

"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.

Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài,

nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể...

the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary,

He sees that his time is getting short,

and he is making every effort to gain as many souls as possible..."

(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes  ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,

The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)

 

"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".

"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day.
He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".

     (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)

 

Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc

thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của

nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành

của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy

‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó

cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ

với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng

hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con

người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến

trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675)

"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”

March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you.     

(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;

tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha.

Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;

sau đó sẽ là ngày của công lý.

Speak to the world about My mercy;

let all mankind recognize My unfathomable mercy.

It is a sign for the end times;

after it will come the day of justice.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...

Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..."  

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -

Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng

(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa;

nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài,

vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus',

vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis',

là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử',

qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,

vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,

một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương)

để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha -

From her will come forth the spark

that will prepare the world for My final coming”

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)

 

 Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,

và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến

để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -

We are all living in the Advent of the last days of history,

and all trying to prepare for the coming of Christ,

to build the kingdom of God which he proclaimed”

(ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).

 

 

 

Thời Điểm Maria ra mắt ngày 8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được 30.224 lần viếng thăm. Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006. Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006.
 Từ đó TĐM tiếp tục được thêm Hit Counter lần viếng thăm. Đa tạ.

Webmaster@ThoiDiemMaria.Net