Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC”
2.- “Totus Tuus”: Hiện Thực (2)
THỨ SÁU 4/4/2008
Tuần Tưởng Niệm Đại Giáo Hoàng Gioan Phaolô II băng hà 3 năm 2/4/2005-2008
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
ĐTC Gioan Phaolo II
với
Thông Điệp Đấng
Cứu Chuộc Nhân Trần “Redemptor Hominis” Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC” 2.- “Totus Tuus”: Hiện Thực - Thông Điệp Mẹ Đấng Cứu Chuộc và Năm Thánh Mẫu Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG CỦA “ĐẤNG CỨU CHUỘC NHÂN TRẦN” 3) Những tâm tưởng và thâm tín của vị giáo hoàng này về Chúa Giêsu Kitô trong Tông Thư Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba (tiếp) Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG “VUI MỪNG VÀ HY VỌNG” - “ĐỪNG SỢ” 3) Con Người Hiện Đại - làm sao có thể được cứu khỏi sự dữ???
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, phân tích và tuyển dịch
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II với
Thông Điệp Đấng Cứu
Chuộc Nhân Trần “Redemptor Hominis”
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC” 2.- “Totus Tuus”: Hiện Thực (2)
Thông Điệp Mẹ Đấng Cứu Chuộc và Năm Thánh Mẫu Thông Điệp “Mẹ Đấng Cứu Chuộc – Redemptoris Mater” của ngài là bức Thông Điệp thứ 6 trong 14 văn kiện có tầm mức giá trị giáo huấn quan trọng nhất đối với thẩm quyền giảng dạy của một vị Giáo Hoàng, được ban hành ngày 25/3/1987. Nội dung của bức Thông Điệp Thánh Mẫu này, ngoài phần mở và phần kết, còn được chia làm 3 phần, thứ tự như sau: Mẹ Maria trong Mầu Nhiệm Chúa Kitô, Người Mẹ Thiên Chúa ở Tâm Điểm của Giáo Hội Lữ Hành, và Vai Trò Môi Giới Từ Mẫu. Riêng trong phần thứ ba, chương cuối cùng trong 3 chương của phần này, ngài giành để nói tới việc ngài mở Năm Thánh Mẫu, từ ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống ngày 7/6/1987 đến ngày Lễ Mẹ Mông Triệu 15/8/1988. Sau đây là mấy đoạn tiêu biểu có thể tổng tóm đại quan nội dung của bức Thông Điệp Thánh Mẫu “Mẹ Đấng Cứu Chuộc” này của ngài. “Người Mẹ của Đấng Cứu Chuộc chiếm một vị thế đặc biệt nơi dự án cứu độ, vì ‘khi tới thời gian viên trọn thì Thiên Chúa đã sai Con mình, hạ sinh bởi người nữ, hạ sinh theo lề luật, để cứu chuộc những ai lệ thuộc lề luật, nhờ đó chúng ta được ơn làm nghĩa tử. Và vì anh chị em là con mà Thiên Chúa đã sai Thần Linh Con Ngài đến với tâm can của chúng ta, để vang lên ‘Abba! Lạy Cha’ (Gal 4:4-6).
“Bằng những lời ấy của Thánh Phaolô, những lời được Công Đồng Chung Vaticanô II sử dụng để bắt đầu việc bàn đến Đức Trinh Nữ Maria (xem Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, đoạn 52, và toàn chương 8), tôi cũng muốn bắt đầu việc chia sẻ của tôi về vai trò của Mẹ Maria trong mầu nhiệm của Chúa Kitô cũng như về sự hiện diện chủ động và gương mẫu của Mẹ trong đời sống của Giáo Hội. Vì chúng là những lời tôn tụng chung cả tình yêu của Chúa Cha, sứ vụ của Chúa Con và tặng ân của Thần Linh, vai trò của người nữ sinh ra Đấng Cứu Chuộc, và thiên chức làm con cái thần linh của riêng chúng ta, trong mầu nhiệm ‘thời gian viên trọn’ (thời điểm theo Galata 4:4 và nội dung của toàn đoạn Thánh Kinh Tân Ước này thì việc Con Thiên Chúa đến trần gian cho thấy rằng thời gian đã đạt tới giới hạn của nó theo lời Chúa hứa ban Đấng Thiên Sai)” (khoản số 1).
“Giờ đây, theo đường hướng của Công Đồng Chung Vaticanô II, tôi muốn nhấn mạnh đến sự hiện diện đặc biệt của Người Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Chúa Kitô và mầu nhiệm Giáo Hội của Người. Vì đây là một chiều kích cốt yếu xuất phát từ Khoa Thánh Mẫu Học của Công Đồng này…
“Trong ý nghĩa ấy, Năm Thánh Mẫu là năm phát động việc đọc lại một cách kỹ lưỡng hơn những gì Công Đồng đã nói về Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, trong mầu nhiệm Chúa Kitô và mầu nhiệm Giáo Hội của Người, một đề tài là tất cả những gì được bức Thông Điệp này bàn tới. Ở đây chúng ta chẳng những nói về vấn đề tín lý của đức tin mà còn về sự sống của đức tin nữa, tức về ‘linh đạo Thánh Mẫu’ chân thực, theo chiều hướng của Thánh Truyền, và nhất là thứ linh đạo Công Đồng huấn dụ chúng ta sống (x Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, 66-67). Ngoài ra, linh đạo Thánh Mẫu, như việc tôn sùng tương xứng của nó, còn có được một nguồn mạch rất dồi dào phong phú từ kinh nghiệm lịch sử của những cá nhân cũng như của những cộng đồng Kitô hữu khác nhau ở các dân tộc và các quốc gia khác nhau trên thế giới. Về khía cạnh này, tôi xin nhắc đến, trong số những chứng nhân và các bậc thày về linh đạo, hình ảnh Thánh Louis Marie Grignion de Montfort (xem cuốn “Luận về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria - Traite de la varie devotion a la sainte Vierge”. Thánh Montfort có lẽ liên hệ với Thánh Anphongsô, tác giả cuốn “Le glorie di Maria - Vinh Quang Mẹ Maria”), vị đã đề ra việc tận hiến cho Chúa Kitô nhờ tay Mẹ Maria, như là một phương tiện cho Kitô hữu sống trung thành với những lời hứa quyết rửa tội của họ. Tôi hân hoan nhận thấy rằng trong cả thời đại của chúng ta đây cũng không thiếu những dấu hiệu mới của thứ linh đạo và lòng tôn sùng này”. (khoản số 48)
“Nhân loại đã thực hiện những khám phá kỳ diệu và đã chiếm được những thành quả phi thường nơi các lãnh vực khoa học và kỹ thuật. Nó đã đạt được những thăng tiến lớn lao trên con đường tiến bộ và văn minh, để rồi, trong thời gian gần đây, người ta có thể nói rằng nó đã thành công trong việc gia tốc nhịp độ của lịch sử. Thế nhưng, việc biến đổi cốt yếu, việc biến đổi có thể được gọi là ‘chính cống’, là những gì hằng liên lỉ theo sát cuộc hành trình của con người, và qua tất cả mọi biến cố của lịch sử, đồng hành với mỗi người và mọi người. Nó là cuộc biến đổi từ ‘gục ngã’ đến ‘chỗi dạy’, từ chết đến sống. Nó cũng là một thách đố liên lỉ đối với lương tâm của con người, một thách đố cho việc nhận thức về tất cả lịch sử của con người, đó là một thách đố trong việc đi theo con đường ‘không gục ngã’, bằng những cách thức vốn cũ mà hằng mới, cũng như đi theo con đường ‘lại chỗi dạy’ nếu bị ngã gục.
“… Giáo Hội thấy Người Mẹ Diễm Phúc của Thiên Chúa nơi mầu nhiệm cứu độ của Chúa Kitô cũng như nơi chính mầu nhiệm của Mẹ. Giáo Hội thấy Mẹ Maria gắn bó sâu xa với lịch sử của nhân loại, với ơn gọi vĩnh hằng của con người theo dự án quan phòng Thiên Chúa giành cho họ từ đời đời. Giáo Hội thấy Mẹ Maria, một cách từ mẫu, hiện diện nơi và chia sẻ vào nhiều vấn đề phức tạp ngày nay là những gì đang bủa vây đời sống của cá nhân, gia đình và quốc gia; Giáo Hội thấy Mẹ hỗ trợ dân Kitô Giáo trong cuộc tranh đấu liên lỉ giữa thiện và ác, để bảo đảm là dân này ‘không gục ngã’, hay nếu có ngã gục thì ‘lại chỗi dạy’”. (khoản 52).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
VỊ GIÁO HOÀNG CỦA “ĐẤNG CỨU CHUỘC NHÂN TRẦN”
3) Những tâm tưởng và thâm tín của vị giáo hoàng này về Chúa Giêsu Kitô trong Tông Thư Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba (tiếp):
Tóm lại, vì Mầu Nhiệm Cứu Độ là Cốt Lõi của Giáo Triều
Gioan Phaolô II theo chiều kích “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” là Lời Nhập Thể
này, mà vị Giáo Hoàng đã từng là Nghị Phụ góp phần soạn thảo Hiến Chế Mục Vụ
về Giáo Hội “Vui Mừng Và Hy Vọng”, như ngài thú nhận trong cuốn Vượt Qua
Ngưỡng Cửa Hy Vọng (ấn bản Anh Ngữ, trang 159), và quyết tâm áp dụng đường
hướng cùng giáo huấn của Công Đồng có tính cách mục vụ hướng ngoại như một
Giáo Hội Trong Thế Giới Tân Tiến này, đã liên tục giảng dạy và mạnh mẽ hoạt
động cho văn hóa sự sống, tức cho những gì hợp với phẩm vị cao quí của con
người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa nơi Mầu Nhiệm Tạo Dựng, mà còn
được cứu chuộc bởi Thiên Chúa nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua nữa, và chống văn hóa
sự chết là những gì không hợp với thiên chức cùng ơn gọi làm người đã được
hoàn toàn sáng tỏ nơi Mầu Nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG “VUI MỪNG VÀ HY VỌNG” - “ĐỪNG SỢ”
3) Con Người Hiện Đại - làm sao có thể được cứu khỏi sự dữ???
Tuy nhiên, con người tự bản chất đã yếu đuối, giờ đây, trước tình trạng “vì sự dữ gia tăng mà lòng của hầu hết con người ta trở nên nguội lạnh” (Mt 24:12), mà, theo vị Giáo Hoàng qua đời vào đêm 2/4/2005, tức vào ngày áp Lễ Chúa Tình Thương (3/4/2005), và qua đời sau Thánh Lễ Chúa Tình Thương được cử hành tại phòng của ngài, một Lễ đã được ngài chính thức thiết lập khi tuyên bố trong bài giảng phong Thánh cho Nữ Tu Faustina là người đồng hương của ngài ngày 30/4/2000, thì Con Người Hiện Đại ấy chỉ có thể được cứu chuộc bởi chính Lòng Thương Xót Chúa mà thôi, vì Tình Thương Chúa, căn nguyên và động lực của Mầu Nhiệm Cứu Chuộc, chính là giới hạn chặn đứng sự dữ đang lộng hành hầu như chưa bao giờ có trong lịch sử loài người này.
Thật vậy, cũng trong tác phẩm “Hồi Niệm Và Căn Tính”, vị Giáo Hoàng này đã nói thêm về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là phản ảnh Lòng Thương Xót Chúa liên quan tới Con Người Hiện Đại, ở chương 4, chương có tựa đề “Việc Cứu Chuộc Là Giới Hạn Thần Linh Chế Ngự Sự Dữ” (ấn bản Anh Ngữ, trang 19-21), như sau:
“Không thể nào nghĩ tới giới hạn do chính Thiên Chúa ngăn chặn đối với các hình thức khác nhau của sự dữ mà lại không qui chiếu về mầu nhiệm Cứu Chuộc.
“Có thể nào mầu nhiệm Cứu Chuộc đáp ứng nổi trước sự dữ về lịch sử, một sự dữ mà, qua những hình thức khác nhau, tiếp tục tái diễn nơi các việc làm của con người hay chăng? Dường như, sự dữ của các trại tập trung, của các phòng hơi ngạt, của cái dã man nơi nhân viên công an cảnh sát, của toàn bộ chiến tranh, của các chế độ đàn áp – một sự dữ tương phản một cách có tổ chức với sứ điệp của Thập Giá – như tôi nói, dường như sự dữ này mãnh liệt hơn cả sự thiện nữa. Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn kỹ hơn nữa vào lịch sử của các dân tộc và các quốc gia đã chịu đựng cuộc thử thách với những chế độ độc tài cũng như những cuộc bách hại đức tin, chúng ta khám phá ra rằng đó chính là nơi rạng ngời nhất cho việc hiện diện hiển vinh của Thập Giá Chúa Kitô. Cái bối cảnh thê thảm ấy lại càng làm nổi bật việc hiện diện này hơn nữa. Đối với những ai chịu đựng cái sự dữ có mưu đồ này thì chỉ còn duy Chúa Kitô và Thập Giá của Người là nguồn mạch tự vệ thiêng liêng mà thôi, như một hứa hẹn chiến thắng vậy. Không phải hay sao việc hy sinh của Maximilian Kolbe trong trại diệt chủng ở Auschwitz đã trở thành dấu chỉ chiến thắng trên sự dữ? Và cũng không phải tương tự như thế hay sao khi nói tới Edith Stein – một đại tư tưởng gia thuộc trường phái Husserl – người đã bị chết trong phòng hơi ngạt ở Birkenau, nhờ đó chia sẻ số mệnh với nhiều người con nam nữ khác của dân tộc Do Thái? …
“Mầu nhiệm Cứu Chuộc của Chúa Kitô đã ăn sâu vào đời sống của chúng ta. Đời sống tân tiến là một thứ văn minh bị chi phối bởi kỹ thuật, thế nhưng, cả ở nơi đời sống tân tiến này nữa, mầu nhiệm này cũng lưu lại dấu vết hiệu nghiệm của mình, như Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhắc nhở chúng ta:
“’Đối với vấn đề làm thế nào để tình trạng bất hạnh này có thể được chế ngự, Kitô giáo trả lời rằng, tất cả mọi hoạt động của con người, những hoạt động hằng ngày bị tác hại bởi lòng kiêu căng và bởi tự ái quá độ, cần phải được Thập Giá và Cuộc Phục Sinh của Chúa Kitô thanh tẩy và hoàn hảo hóa. Được Chúa Kitô cứu chuộc và được Thánh Thần làm nên một tạo vật mới, con người có thể, đúng hơn, họ cần phải yêu mến những sự được Thiên Chúa tạo dựng: chính từ Thiên Chúa con người đã lãnh nhận chúng, và chính vì chúng từ bàn tay Thiên Chúa ban cho mà họ phải ân cần và tôn trọng chúng. Con người tri ân cảm tạ Vị Ân Nhân thần linh này của mình về tất cả những sự ấy, họ sử dụng chúng và hoan hưởng chúng bằng tinh thần khó nghèo và tự do: nhờ đó, họ mới tiến tới chỗ thực sự chiếm hữu được thế giới, như thể chẳng có gì mà lại có hết mọi sự vậy’….
“Nếu Việc Cứu Chuộc đánh dấu giới hạn thần linh trên sự dữ, thì chính vì lý do duy nhất này: đó là vì thật sự sự dữ bị chế ngự bởi sự thiện, hận ghét bởi yêu thương, chết chóc bởi phục sinh”.
Vào thời điểm vị Giáo Hoàng không phải người Ý sau 455 năm xuất hiện “từ một xứ sở xa xăm” này về thăm quê hương lần cuối cùng vào mùa hè năm 2002, loài người bấy giờ đã ở vào một tình trạng nguy vong đến độ ngài đã phải chính thức và long trọng hiến dâng thế giới, một thế giới khốn khổ thảm thương về mọi lãnh vực, cho Lòng Thương Xót Chúa tại ngôi Đền Thờ Chúa Tình Thương vào ngày Thứ Bảy 17/8/2002:
“Hôm nay Tôi muốn lập lại những lời đơn sơ và chân thành này của Thánh Nữ Faustina để hợp với thánh nhân cũng như với tất cả anh chị em tôn thờ mầu nhiệm khôn thấu và khôn lường của tình thương Thiên Chúa. Như Thánh Faustina, chúng ta muốn loan báo rằng, ngoại trừ tình thương của Thiên Chúa, không còn một nguồn hy vọng nào khác cho loài người nữa. Chúng ta cần tin tưởng lập lại rằng: Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Chúa!
“Việc loan báo này, việc tuyên xưng lòng tin tưởng vào tình yêu toàn năng của Thiên Chúa là việc đặc biệt cần thiết ở thời đại chúng ta đây, khi mà nhân loại đang trải qua một tình trạng biến loạn trước những xuất hiện của sự dữ. Việc kêu cầu lòng thương xót Chúa cần phải được vang lên từ thẳm cung của các cõi lòng đầy những khổ đau, băn khoăn về tương lai và sống trong bất ổn, đồng thời lại trông mong một nguồn hy vọng vững chắc. Đó là lý do tại sao chúng ta đến đây hôm nay, đến Ngôi Đền Thờ Lagiewniki này, để một lần nữa thoáng thấy nơi Chúa Kitô dung nhan của Thiên Chúa Cha: ‘Người Cha của tình thương và là Thiên Chúa của tất cả mọi niềm ủi an’ (2Cor 1:3). Bằng con mắt linh hồn của mình, chúng ta mong nhìn vào đôi mắt của Chúa Giêsu nhân hậu, để thấy được sâu xa trong ánh mắt của Người những gì phản ảnh nội tâm của Người, cũng như thấy được ánh sáng ân sủng là những gì chúng ta đã thường xuyên lãnh nhận, và là những gì Thiên Chúa ban lại cho chúng ta mỗi ngày cũng như vào ngày cuối cùng của cuộc đời chúng ta” (đoạn 1).
“‘Lạy Cha hằng hữu, vì tội lỗi của chúng con và của toàn thế giới, con xin dâng lên Cha Mình Máu, Linh Hồn và Thiên Tính của Con Cha yêu dấu là Chúa Giêsu Kitô; vì những sự khốn khó của Cuộc Người Khổ Nạn, xin Cha thương đến chúng con và toàn thế giới’ (Nhật Ký, 476). Thương đến chúng con và toàn thế giới… Thế giới ngày nay cần đến tình thương của Thiên Chúa biết bao! Nơi hết mọi lục địa, từ vực sâu khốn khổ của loài người, tiếng kêu cầu xót thương dường như đang vang dậy. Nơi nào thù hằn và đòi rửa hận thống trị, nơi nào chiến tranh mang lại đau thương và chết chóc cho thành phần vô tội, thì ở đó cần đến ân sủng tình thương để ổn định lòng trí con người và tạo lập hòa bình. Nơi nào thiếu hụt lòng trọng kính sự sống và phẩm vị con người thì ở đó cần đến tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng mà trong ánh sáng của Ngài, chúng ta thấy được giá trị khôn tả của hữu thể con người. Cần phải có tình thương để bảo đảm rằng hết mọi bất công trên thế giới này sẽ được kết thúc trong chân lý rạng ngời.
“Thế nên, hôm nay đây, tại Đền Thánh này, Tôi xin long trọng ký thác thế giới cho Lòng Thương Xót Chúa. Tôi làm như vậy với một lòng thiết tha mong ước thấy sứ điệp của tình yêu nhân hậu Thiên Chúa, được loan báo nơi đây qua Thánh Faustina, cũng được tất cả mọi dân tộc trên thế giới biết đến và làm cho lòng họ tràn đầy niềm hy vọng. Chớ gì sứ điệp này, từ nơi đây, chiếu tỏa ra cho quê hương thân yêu của chúng ta cũng cho khắp thế giới. Chớ gì lời hứa quyết của Chúa Giêsu được nên trọn, ở chỗ, từ nơi đây phải chiếu giãi ra ‘tia sáng sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha’ (x Nhật Ký, 1732)” (đoạn 5).
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
|
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |