CHÚA NHẬT 6/4/2008

 

Tuần Tưởng Niệm Đại Giáo Hoàng Gioan Phaolô II băng hà 3 năm 2/4/2005-2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI

“Thày đi khỏi rồi Thày sẽ trở lại với các con”

 Bài Giảng Lễ Vọng Phục Sinh 22-23/3/2008

   CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC”

2.- “Totus Tuus”: Hiện Thực - Năm Mân Côi và Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria

   MẾN Yêu Thánh Thể  

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

VỊ GIÁO HOÀNG CỦA “ĐẤNG CỨU CHUỘC NHÂN TRẦN”

Mầu Nhiệm Cứu Độ nơi Đức Gioan Phaolô II: Sống là Chúa Kitô – Chết là Vinh Thắng (x Phil 1:21) (2)

               YÊU Thương Tha Nhân              

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

VỊ GIÁO HOÀNG “VUI MỪNG VÀ HY VỌNG” - “ĐỪNG SỢ”

3) Con Người Hiện Đại - làm sao có thể được cứu khỏi sự dữ??? (2)

 

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI
 

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI

“Thày đi khỏi rồi Thày sẽ trở lại với các con”

 Bài Giảng Lễ Vọng Phục Sinh 22-23/3/2008

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Trong bài từ biệt của mình Chúa Giêsu đã loan báo về cái chết và cuộc phục sinh sắp đến của mình cho các môn đệ bằng những lời bí nhiệm này: “Thày đi khỏi rồi Thày sẽ trở lại với các con” (Jn 14:28). Chết là “việc đi khỏi”. Ngay cả thân thể của người quá cố vẫn còn lưu lại đó chính họ đã ra đi vào nơi nào đó, và chúng ta không thể theo họ (x Jn 13:36). Tuy nhiên, trong trường hợp của Chúa Giêsu, có một cái gì đó hoàn toàn mới lạ làm đổi thay thế giới.

 

Nơi trường hợp cái chết của chúng ta thì “việc đi khỏi” là những gì vĩnh viễn, không hề có vấn đề trở lại. Trái lại, Chúa Giêsu lại nói về cái chết của Người rằng: “Thày đi khỏi rồi Thày sẽ trở lại với các con”. Chính nhờ đi khỏi mà Người trở lại. Việc ra đi của Người đánh dấu một cách hoàn toàn mới mẻ và cao cả hơn việc hiện diện. Nhờ việc chết đi mà Người đã tiến vào tình yêu của Chúa Cha. Việc chết của Người là một tác động yêu thương. Tuy nhiên, tình yêu thì bất tử. Bởi thế, việc Người đi khỏi được biến thành một việc lại đến, thành một hình thức hiện diện sâu xa hơn và khôn cùng. Trong cuộc đời trần thế của mình, như tất cả chúng ta, Chúa Giêsu bị trói buộc vào những điều kiện ngoại tại của sự hiện hữu thể lý: vào một không gian nhất định và thời gian nhất định.

 

Tính cách nhất định giới hạn việc hiện hữu của chúng ta. Chúng ta không thể cùng một lúc ở hai nơi. Thời gian của chúng ta rồi cũng sẽ đi đến chỗ tận cùng. Và giữa “cái tôi” và “cái bạn“ có một bức tường của sự khác biệt.  Nhờ yêu thương chúng ta có thể một cách nào đó thực sự tiến vào sự sống của người khác.

 

Tuy nhiên, cái trở ngại bất khả vượt qua về sự khác nhau ấy vẫn còn đó. Nhưng Chúa Giêsu, Đấng giờ đây hoàn toàn được biến đổi nhờ tác động yêu thương, thoát khỏi những thứ trở ngại và hạn hữu như thế. Người chẳng những có thể băng qua những cửa đóng kín nơi thế giới ngoại tại, như được Phúc Âm thuật lại (x Jn 20:19). Người cũng có thể vượt qua cánh cửa nội tâm phân cách giữa “cái tôi” và “cái bạn”, cánh cửa đóng giữa hôm qua và hôm nay, giữa quá khứ và tương lai. Vào ngày Người long trọng tiến vào thành Gia Liêm, khi có một số người Hy Lạp ngỏ ý xin  gặp Người, Chúa Giêsu đã trả lời bằng dụ ngôn về hạt lúa miến cần phải chết đi mới sinh nhiều hoa trái. Nói thế là Người đã báo trước về định mệnh của Người: những lời này không chỉ ngỏ cùng một hay hai người Hy Lạp ở một nơi chốn trong vòng mấy phút đồng hồ.

 

Nhờ Thập Giá của mình, bằng việc đi khỏi, qua cái chết đi của mình như hạt lúa miến, Người thực sự đến giữa những người Hy Lạp, đến nỗi họ có thể thấy được Người và chạm đến Người với niềm tin. Việc Người đi khỏi được biến thành một việc đến nơi cách hiện diện phổ quát của Chúa Kitô Phục Sinh, một sự hiện diện Người vẫn thế hôm qua, hôm nay và mãi mãi, một sự hiện diện Người gồm tóm tất cả thời gian và không gian. Bấy giờ Người thậm chí thắng vượt được cả bức tường khác nhau phân cách giữa “cái tôi” và “cái bạn”. Điều này đã xẩy ra với Thánh Phaolô, vị diễn tả tiến trình hoán cải của ngài và việc lãnh nhận Phép Rửa của mình bằng những lời sau đây: “Không còn là tôi sống nữa mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2:20). Nhờ việc đến của Đấng Phục Sinh, Thánh Phaolô đã chiếm được một căn tính mới. “Cái tôi” khép kín của ngài đã được mở ra. Giờ đây ngài đang sống trong mối hiệp thông với Chúa Giêsu Kitô, sống trong cái đại “ngã” của thành phần tín hữu, như ngài nói là trở nên “một trong Chúa Kitô” (Gal 3:28).

 

Bởi vậy, các bạn thân mến, vần đề rõ ràng ở đây là nhờ Phép Rửa, những lời lẽ bí nhiệm Chúa Giêsu nói trong Bữa Tiệc Ly trở thành hiện thực một lần nữa đối với các bạn. Nơi Phép Rửa, Chúa Kitô tiến vào đời sống của các bạn qua cánh cửa tâm hồn của các bạn. Chúng ta không còn đứng bên nhau hay nghịch với nhau nữa.

 

Người đang băng qua tất cả mọi cánh cửa. Thực tại của Phép Rửa là thế này: Người, Đấng Phục Sinh, đang đến; Người đến với các bạn và liên kết sự sống của Người với sự sống của các bạn, lôi kéo các bạn đến với ngọn lửa bừng cháy của tình Người yêu thương. Các bạn trở nên một, nên một với Người, nhờ đó các bạn nên một với nhau. Thoạt tiên thì điều này có vẻ là những gì trừu tượng và không thực tế. Thế nhưng, các bạn càng sống sự sống của thành phần lãnh nhận phép rửa thì các bạn càng cảm nghiệm được sự thật của những lời ấy. Các tín hữu – thành phần lãnh nhận phép rửa – không bao giờ thực sự bị phân ly khỏi nhau. Các châu lục, các nền văn hóa, các cấu trúc về xã hội hay thậm chí những khoảng cách về lịch sử là những gì có thể tách biệt chúng ta ra.

 

Thế nhưng, khi chúng ta gặp nhau, chúng ta nhận biết nhau vì cùng một Chúa, cùng một đức tin, cùng một niềm hy vọng, cùng một tình yêu thương là những gì hình thành chúng ta. Bởi thế, chúng ta cảm nghiệm rằng sự sống của chúng ta có cùng một nguồn mạch. Chúng ta cảm thấy rằng trong cái thẳm cung sâu xa nhất của mình chúng ta được liên kết nơi cùng một căn tính, ở chỗ, tất cả mọi khác biệt của chúng ta cho dù chúng có giá đến đâu cũng trở thành thứ yếu. Thành phần tín hữu không bao giờ hoàn toàn tách lìa khỏi nhau. Chúng ta ở trong mối hiệp thông bởi cái căn tính sâu xa nhất của chúng ta: Chúa Kitô ở trong chúng ta. Như thế, đức tin là một quyền lực của an bình và hòa giải trên thế giới này: những khoảng cách giữa dân chúng đã được thắng vượt, chúng ta trở nên gần gũi nhau trong Chúa (x Eph 2:13).

 

Giáo Hội diễn tả thực tại bề trong của Phép Rửa này như là một tặng ân của một thứ căn tính mới qua những yếu tố hữu hình được sử dụng trong việc ban phát bí tích này. Yếu tố chính yếu nơi Phép Rửa là nước; tiếp theo sau đó là ánh sáng, một thứ ánh sáng được sử dụng gây tác dụng trọng đại nơi Phụng Vụ của Lễ Vọng Phục Sinh. Chúng ta hãy vắn gọn để ý tới hai yếu tố này. Trong chương cuối cùng của Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái, có một câu về Chúa Kitô không trực tiếp nói tới nước, nhưng dù sao những hình ảnh Cựu Ước đã rõ ràng nói đến mầu nhiệm của nước cùng với ý nghĩa tiêu biểu của nó. Ở đây chúng ta đọc thấy rằng: “Vị Thiên Chúa của bình an… làm cho Chúa Giêsu sống lại từ kẻ chết, vị đại mục tử của đàn chiên, nhờ máu của giao ước đời đời” (13:20).

 

Câu này vang vọng lời tiên tri Isaia, lời tiên tri mà Moisen được diễn tả như vị mục tử được Chúa cứu vớt từ nước, từ biển (x 63:11). Chúa Giêsu đến như là vị Mục Tử mới tối hậu làm trọn những gì Moisen đã làm; Người dẫn chúng ta ra khỏi những thứ giòng nước chết chọc của biển cả, ra khỏi những giòng nước của tử vong. Theo chiều hướng ấy, chúng ta có thể nhớ lại rằng người mẹ của Moisen đã bỏ ông vào trong một cái rỏ ở sống Nile. Thế rồi, nhờ sự quan phòng của Thiên Chúa, ông đã được vớt ra khỏi nước, được mang từ sự chết tới sự sống, nhờ đó – nhờ chính bản thân được cứu khỏi những giòng nước sự chết – ông đã có thể dẫn những người khác băng qua biển tử thần. Chúa Giêsu đã vì chúng ta xuống tới những giòng nước tăm tối của tử thần.

 

Thế nhưng, nhờ máu của Người, Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái đã nói với chúng ta như thế, Người đã được sống lại từ trong kẻ chết: tình yêu của Người đã liên kết mình với tình yêu của Cha, nhờ đó, từ vực thẳm của tử thần, Người đã có thể sống lại. Vậy Người nâng chúng ta lên khỏi sự chết đến sự sống thực sự. Đó là những gì thực sự xẩy ra nơi Phép Rửa: ở chỗ Người lôi kéo chúng ta đến với Người, Người lôi kéo chúng ta vào sự sống chân thực. Người dẫn chúng ta qua biển cả u ám tối tăm của lịch sử, nơi chúng ta thường có nguy cơ bị chìm đắm giữa tất cả những gì là hỗn loạn và hiểm nguy. Nơi Phép Rửa, Người thật sự nắm lấy tay của chúng ta dẫn chúng ta theo con đường băng qua Biển Đỏ của cuộc sống này và dẫn chúng ta vào sự sống đời đời, sự sống chân thực và chân  chính. Chúng ta hãy nắm chặt lấy tay của Người! Bất cứ điều gì xẩy ra, bất cứ điều gì gây ra cho chúng ta, chúng ta đừng buông tay Người ra! Chúng ta hãy bước đi trên con đường dẫn đến sự sống.

 

Ngoài ra còn có biểu hiệu của ánh sáng và lửa. Thánh Grêgôriô thành Tours đã thuật lại một việc thực hành ở một số nơi vẫn còn giữ qua một thời gian dài, về việc thắp sáng ngọn lửa để cử hành Lễ Vọng Phục Sinh trực tiếp từ mặt trời, khi sử dụng pha lê. Bởi thế, ánh sáng và lửa được nhận lãnh cách mới mẻ từ trời, nhờ đó tất cả mọi ánh sáng và lửa trong năm có thể được thắp lên từ nó. Đó là biểu hiệu của những gì chúng ta đang cử hành trong Đêm Vọng Phục Sinh.

 

Bằng tình yêu sâu xa của mình đối với chúng ta, một tình yêu làm cho con tim của Thiên Chúa và tâm can của con người chạm tới nhau, Chúa Giêsu Kitô thực sự đã đem ánh sáng từ trời mà mang xuống trần gian – thứ ánh sáng của sự thật và tình yêu làm biến đổi hữu thể của con người. Người đã mang ánh sáng tới mà giờ đây chúng ta biết được Thiên Chúa là Đấng nào và Ngài ra sao. Nhờ đó chúng ta cũng biết được tình trạng của chúng ta như thế nào: chúng ta là gì và hiện hữu để làm chi. Khi chúng ta lãnh nhận phép rửa thì ngọn lửa của ánh sáng này được mang xuống tới tận trong bản thân chúng ta. Bởi thế, vào thời Giáo Hội sơ khai, Phép Rửa cũng được gọi là Bí Tích Sáng Soi, tức là ánh sáng của Thiên Chúa chiếu tỏa tới chúng ta; nhờ đó chúng ta trở nên con cái ánh sáng.

 

Chúng ta không được để cho ánh sáng của sự thật ấy, môt ánh sáng tỏ cho chúng ta thấy đường đi nước bước, bị tắt đi. Chúng ta cần phải bảo vệ nó cho khỏi tất cả mọi quyền lực đang tìm cách loại trừ nó hầu có thể đẩy chúng ta về lại tình trạng tối tăm liên quan tới Thiên Chúa và bản thân chúng ta. Tối tăm có những lúc dường như là những gì thoải mái dễ chịu. Tôi có thể ẩn mình đi và sống cuộc đời thiếp ngủ. Thế nhưng, chúng ta không được kêu gọi sống tối tăm mà là đến với ánh sáng. Nơi những lời hứa rửa tội của mình, có thể nói chúng ta làm bừng lên ánh sáng này từ năm này sang năm khác. Phải, tôi tin rằng thế giới này và đời sống của tôi không phải là một thứ sản phẩm ngẫu nhiên mà có, mà là bởi Lý Trí hằng hữu và bởi Tình Yêu vĩnh hằng, chúng được Thiên Chúa Toàn Năng tạo dựng nên. Phải, tôi tin rằng trong Chúa Giêsu Kitô, nơi việc nhập thể của Người, nơi Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Người, dung nhan của Thiên Chúa đã được tỏ hiện; trong Người, Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta và dẫn chúng ta tới đích điểm của chúng ta, tới tình yêu hằng hữu.

 

Phải, tôi tin rằng Thánh Linh ban cho chúng ta lời chân lý và sáng soi cõi lòng của chúng ta; tôi tin rằng trong mối hiệp thông với Giáo Hội tất cả chúng ta trở nên Thân Thể với Chúa Kitô, nhờ đó chúng ta được hội ngộ với cuộc phục sinh của Người và sự sống đời đời. Chúa Kitô đã ban cho chúng ta án h sáng chân  lý. Ánh sáng này cũng là lửa, một quyền năng mãnh liệt xuất phát từ Thiên Chúa, một quyền năng không hủy diệt mà là tìm cách biến đổi tâm can của chúng ta, nhờ đó chúng ta trở thành những con người của Thiên Chúa, và nhờ đó bình an của Người có thể sinh động trên thế giới này.

 

Vào thời Giáo Hội sơ khai, có tập tục là vị Giám Mục hay linh mục, sau bài giảng, kêu gọi tín hữu rằng: “Conversi ad Dominum – Vậy hãy hướng về Chúa”. Điều này trước hết có nghĩa là họ hướng về phía Đông, hướng mặt trời mọc, dấu hiệu cho thấy việc trở lại của Chúa Kitô, Đấng chúng ta tiến lên nghênh đón khi chúng ta cử hành Thánh Thể. Nơi nào điều này bất khả vì lý do nào đó thì ít là họ hướng về hình ảnh của Chúa Kitô ở hậu cung hay hướng về Thánh Giá, để hướng lòng mình về Chúa.  

 

Việc này thực sự bao gồm một biến cố nội tại; việc hoán cải, việc hướng linh hồn của chúng ta về Chúa Giêsu Kitô nhờ đó hướng về Vị Thiên Chúa hằng sống, hướng về ánh sáng chân  thực. Bởi vậy, liên kết tới việc này mới có lời tung hô vẫn còn tới nay, trước Kinh Nguyện Thánh Thể, được ngỏ cùng cộng đồng tín hữu: “Sursum corda – Hãy nâng tâm hồn lên”, bên trên những chằng chịt đầy quan tâm của chúng ta, đầy những ước muốn, lo toan và vô tâm của chúng ta – “Hãy nâng tâm hồn lên, nâng con người nội tâm của anh chị em lên!” Trong cả hai lời hô lên này chúng ta được thực sự kêu gọi đến việc canh tân Phép Rửa của chúng ta: Conversi ad Dominum – chúng ta cần phải tách mình một cách mới mẻ hơn bao giờ hết khỏi việc đi vào những con đường sai lầm, ở đó các tâm tưởng và hành động của chúng ta rất hay thường bị lạc loài.

 

Chúng ta cần phải trở về một cách mới mẻ hơn bao giờ hết với Người, Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúng ta cần phải hoán cải một cách mới mẻ hơn bao giờ hết, qui hướng trọn đời sống của chúng ta về Chúa. Và một cách mới mẻ hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải để cho tâm can của chúng ta rút lui khỏi cái trọng lực kéo họ xuống, và về bề trong chúng ta cần phải nâng nâng tâm hồn của chúng ta lên cao trong chân lý và yêu thương. Vào lúc này đây, chúng ta hãy cảm tạ Chúa, vì nhờ quyền năng lời của Người cùng với các Bí Tích thánh, Người đã chỉ cho chúng ta thấy đúng hướng và kéo tâm hôn chúng ta lên cao. Chúng ta hãy nguyện cầu cùng Người bằng những lời lẽ sau đây: Vâng, lạy Chúa, xin hãy làm cho chúng con thành dân Phục Sinh, thành những con người nam nữ của ánh sáng, tràn đầy ngọn lửa của tình Chúa yêu thương. Amen.



 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 23/3/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC”

2.- “Totus Tuus”: Hiện Thực (4)

             

 

Năm Mân Côi và Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria

 

Tông Thư “Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria” làvăn kiện mở màn cho Năm Mân Côi (16/10/2002-19/10/2003) và về Kinh Mân Côi của vị Giáo Hoàng được qua đời vào chính đêm Thứ Bảy Đầu Tháng (2/4/2005), cuối Tuần Bát Nhật Phục Sinh. Nội dung của Tông Thư Kinh Mân Côi ra sao? Và tại sao ngài lại mở Năm Mân Côi vào thời điểm này, mà không vào thời điểm khác? Theo ngài, là vì “Totus Tuus”, là vì ngài đã dâng phú cho Mẹ cả bản thân ngài lẫn giáo triều của ngài, một giáo triều đã trọn 24 năm và tiến vào năm thứ 25. Ngài đã bày tỏ như thế trong buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần vào chính ngày 16/10/2002, ngày kỷ niệm đúng 24 năm biến cố ngài được bầu làm giáo hoàng. Sau đây là nguyên văn những gì ngài đã nói liên quan cả về nội dung Tông Thư Kinh Mân Côi lẫn ý nghĩa việc ngài mở Năm Mân Côi:

 

1.-   Trong cuộc trở về Balan của Tôi mới đây, Tôi đã dâng lên Đức Mẹ những lời sau đây: ‘Hỡi Mẹ Rất Thánh, [,,,] xin Mẹ cũng hãy ban cho con sức mạnh về cả thể xác lẫn tinh thần, để con có thể chu toàn đến cùng sứ mệnh Đấng Phục Sinh đã ủy nhiệm cho con. Con dâng lên Mẹ tất cả mọi hoa trái của cuộc đời con cũng như của thừa tác vụ con làm, con ký thác cho Mẹ tương lai của Giáo Hội; […] con tin tưởng nơi Mẹ và con xin thưa cùng Mẹ một lần nữa là: ‘Totus tuus, Maria! Totus tuus!’, ‘Ôi Maria, tất cả của con là của Mẹ! Tất cả của con là của Mẹ!’ Amen”. (Kalwaria Zebrzydowska, Aug. 19, 2002). Hôm nay, Tôi lập lại cũng những lời này để cảm tạ Thiên Chúa về 24 năm Tôi phục vụ Giáo Hội nơi Tòa Thánh Phêrô. Vào ngày đặc biệt này, một lần nữa, Tôi xin trao phó vào bàn tay Mẹ Thiên Chúa sự sống của Giáo Hội cùng với sự sống của nhân loại đang bị thử thách đau thương. Tôi cũng xin ký thác tương lai của Tôi cho Mẹ. Tôi đặt tất cả nơi tay Mẹ, để Mẹ lấy tình yêu từ mẫu của Mẹ mà hiến dâng mọi sự cho Con Mẹ, “hầu chúc tụng vinh quang của Người” (Eph 1:12).

 

2.-   Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc của con người, là tâm điểm của đức tin chúng ta. Mẹ Maria không làm cho Người bị lu mờ đi, cũng không làm lu mờ đi công cuộc cứu độ của Người. Được mông triệu về trời cả hồn lẫn xác, Đức Trinh Nữ, người đầu tiên được hoan hưởng các hoa trái tử nạn và phục sinh của Con mình, Mẹ là Vị dẫn chúng ta đi con đường chắc chắn nhất đến với Chúa Kitô, đích điểm tối hậu của tác hành cũng như của tất cả đời sống chúng ta. Bởi thế, khi ngỏ lời cùng toàn thể Giáo Hội trong tông thư “Vào Lúc Mở Màn Cho Một Ngàn Năm Mới - Novo Millennio Ineunte”, Tôi đã thêm vào lời Chúa Kitô kêu gọi “hãy thả lưới ở chỗ nước sâu” là “trong cuộc hành trình này, chúng ta được Đức Trinh Nữ Maria hỗ trợ, Đấng […] đã được Tôi ký thác ngàn năm thứ ba trước sự hiện diện của một số đông các vị giám mục […]” (số 58). Và, trong việc mời gọi các tín hữu hãy không ngừng chiêm ngưỡng dung nhan của Chúa Kitô, Tôi đã hết lòng mong muốn trong việc chiêm ngưỡng ấy, Maria, Mẹ của Người, phải là vị tôn sư chỉ dạy cho tất cả mọi người.


3.-   Hôm nay, Tôi muốn thể hiện lòng ước muốn này một cách rõ ràng hơn nữa, bằng hai cử chỉ tiêu biểu. Trong ít phút nữa đây, Tôi sẽ ký bức tông thư “Kinh Mân Côi của Đức Trinh Nữ Maria - Rosarium Virginis Mariae”. Chưa hết, cùng với việc ban hành văn thư nói về kinh nguyện mân côi này, Tôi cũng công bố một năm kéo dài từ Tháng Mười 2002 tới Tháng Mười 2003, đó là “Năm Mân Côi”. Tôi làm như vậy, chẳng những vì đây là năm thứ 25 giáo triều của Tôi, mà còn vì là dịp kỷ niệm 120 năm thông điệp “Supremi Apostolatus Officio” được Vị Tiền Nhiệm của Tôi là Đức Lêô XIII ban hành vào ngày 1/9/1883 để mở màn cho một loạt các văn kiện đặc biệt khác của Ngài về kinh mân côi. Ngoài ra, còn có một lý do nữa, đó là trong lịch sử của Các Cuộc Đại Hỷ Kỷ Niệm còn có một truyền thống tốt lành, ở chỗ, sau Năm Thánh dâng kính Chúa Kitô và tôn kính công cuộc Cứu Chuộc của Người còn có một năm dâng kính cho Mẹ Maria nữa, như thể muốn kêu cầu với Mẹ để Mẹ giúp cho các ân sủng đã nhận lãnh từ Năm Thánh được sinh hoa kết trái.


4.-   Có lẽ không còn phương tiện nào tốt hơn kinh nguyện mân côi đối với nỗ lực cần thiết nhưng hết sức sâu xa trong việc cùng với Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô? Tuy nhiên, để làm điều này, chúng ta cần phải tái nhận thức cái thâm sâu của mầu nhiệm được chất chứa nơi tính cách giản dị của kinh nguyện rất được truyền thống phổ thông yêu chuộng này. Thật vậy, theo kết cấu của mình, kinh nguyện Thánh Mẫu trước hết là việc suy niệm về các mầu nhiệm thuộc đời sống và hoạt động của Chúa Kitô. Bằng việc lập đi lập lại tiếng kêu cầu “Kính mừng Maria”, chúng ta sâu xa suy nghĩ về những biến cố chính yếu của sứ vụ Con Thiên Chúa thực hiện trên thế gian, những biến cố được Phúc Âm và Truyền Thống lưu truyền cho chúng ta. Để bản tổng hợp Phúc Âm này được trọn vẹn hơn, cũng như để thêm khởi sắc, trong tông thư Kinh Mân Côi của Đức Trinh Nữ Maria “Rosarium Virginis Mariae”, Tôi đã đề ra năm mầu nhiệm khác nữa, thêm vào những mầu nhiệm vốn được suy niệm trong kinh mân côi, và Tôi đã gọi 5 mầu nhiệm mới này là “những mầu nhiệm ánh sáng”. Những mầu nhiệm ánh sáng ấy bao gồm đời sống công khai của Đấng Cứu Thế, từ biến cố phép rửa ở sông Dược Đăng cho đến khi bắt đầu cuộc Khổ Nạn. Mục đích của việc đề ra này là để mở rộng chân trời kinh mân côi, nhờ đó, ai lần hạt mân côi với lòng sùng mộ chứ không phải một cách máy móc mới có thể càng đi sâu hơn nữa vào nội dung của Tin Mừng và càng kết hợp hơn nữa cuộc sống của mình với cuộc sống của Chúa Kitô.

 

Việc ngài mở Năm Mân Côi ngay giữa Đại Năm Thánh (25/12/1999-6/1/2001) mừng Mầu Nhiệm “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” Nhập Thể và Năm Thánh Thể (17/10/2004-23/10/2005) về Mầu Nhiệm “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” Sự Sống, phải chăng theo chiều hướng, như ngài đã đề cập tới trong cuốn “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng”, như được trích dẫn trên đây: “Mẹ Maria là vị dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô, thế nhưng, vào lúc ấy, tôi cũng bắt đầu nhận thấy rằng Chúa Kitô dẫn chúng ta tới với Mẹ của Người nữa”. Đại Năm Thánh 2000 trước Năm Mân Côi, chẳng những đúng như Đức Thánh Cha nói trên đây, là theo thông lệ theo sau Năm Thánh về Chúa, mà còn như thể “Chúa Kitô dẫn chúng ta tới với Mẹ của Người”, và Năm Mân Côi trước Năm Thánh Thể như thể “Mẹ Maria là vị dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô”.  


 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

VỊ GIÁO HOÀNG CỦA “ĐẤNG CỨU CHUỘC NHÂN TRẦN”

 

 

Mầu Nhiệm Cứu Độ nơi Đức Gioan Phaolô II: Sống là Chúa Kitô – Chết là Vinh Thắng (x Phil 1:21) (2)
 


Tưởng cũng nên nhắc đến ở đây một chi tiết liên quan đến khổ đau và sự dữ trong Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lõi của Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II, đó là, ngoài khổ đau và sự dữ mà chính bản thân ngài phải chịu trong cuộc đời làm Giáo Hoàng của mình, như giá trả thiết yếu trong việc đồng công với Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần để giải thoát con người hiện đại nói chung và Khối Đông Âu nói riêng khỏi sự dữ Cộng Sản vô thần duy vật, ngài còn thiết lập Ngày Bệnh Nhân Thế Giới nữa, từ ngày 13/5/1992, và Ngày Bệnh Nhân Thế Giới đầu tiên được tổ chức tại chính Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức vào chính Lễ Mẹ Lộ Đức 11/2/1993, và sau đó, hằng năm, cũng vào chính ngày Lễ Mẹ Lộ Đức 11/2 này, Giáo Hội cử hành Ngày Thế Giới Bệnh Nhân tại các Đền Thánh Mẫu khắp các châu lục, chẳng hạn như năm 2005 được tổ chức tại Đền Thánh Mẫu ở Yaounde Cameroon, Phi Châu.

Ngoài ra, ngài còn ban hành bức Tông Thư “Khổ Đau Cứu Độ - Salvifici Doloris” ngày Lễ Mẹ Lộ Đức 11/2/1984 trong chính Năm Thánh Cứu Chuộc., vì đau khổ của loài người có liên hệ mật thiết với Mầu Nhiệm Cứu Chuộc của “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”. Sau đây là những lời mở đầu cho bức Tông Thư chất chứa phần nào nội dung của nó:

“Khi loan báo về quyền năng của khổ đau cứu độ, Vị Tông Đồ Phaolô viết: ‘Tôi hoàn tất nơi xác thịt của tôi những gì còn thiếu nơi những cuộc khổ nạn của Chúa Kitô phải chịu vì thân thể của Người là Giáo Hội’ (Col 1:24)

“…Vị Tông Đồ này chia sẻ việc khám phá của mình và hân hoan với việc khám phá đó vì tất cả những ai việc khám phá này có thể giúp hiểu được – như nó đã giúp cho ngài – ý nghĩa cứu độ của khổ đau”. (đoạn 1)

“Đề tài đau khổ là những gì cần phải đặc biệt đối diện trong bối cảnh của Năm Thánh Cứu Chuộc, và sở dĩ như thế, trước hết là vì Việc Cứu Chuộc được hoàn tất nhờ Thập Giá của Chúa Kitô, tức là, nhờ khổ đau của Người. Đồng thời, trong Năm Cứu Chuộc, chúng ta cũng nhắc lại sự thật được diễn tả trong bức Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, đó là, nơi Chúa Kitô, ‘hết mọi người trở thành đường lối cho Giáo Hội’ (khoản 14,18,21,22). Có thể nói rằng, con người đặc biệt trở thành đường lối cho Giáo Hội khi khổ đau xẩy ra cho cuộc sống của họ”. (đoạn 3)

Chưa hết, vị Giáo Hoàng mà chính bản thân ngài cũng là một bệnh nhân trường kỳ đã giành riêng một Ngày Mừng Đại Năm Thánh 2000 cho thành phần bệnh nhân là ngày Lễ Mẹ Lộ Đức 11/2/2000, và đã xức dầu cho riêng 200 bệnh nhân tiêu biểu rồi gặp gỡ chung họ với những lời huấn dụ theo chiều hướng của bức Tông Thư “Khổ Đau Cứu Độ”, như sau:

“Đau đớn và bệnh nạn là số phận nơi mầu nhiệm của con người trên trái đất này. Dĩ nhiên con người vẫn có quyền chiến đấu với bệnh nạn, vì sức khỏe là một tặng ân của Thiên Chúa. Thế nhưng, người ta cũng cần phải làm sao có thể nhận ra dự án của Thiên Chúa mỗi khi đau khổ đến gõ cửa nhà của chúng ta nữa. ‘Chìa khóa’ để có thể nhận thức được điều này ở nơi Thập Giá của Chúa Kitô. Lời nhập thể đã ôm lấy nỗi yếu đuối của chúng ta, mang lấy nó trong mầu nhiệm Thập Giá. Từ bấy giờ, tất cả mọi khổ đau có một ý nghĩa khả dĩ làm cho nó có một giá trị đáng kể. Từ ngày của Cuộc Khổ Nạn, qua 2000 năm rồi, Thập Giá vẫn chiếu sáng như là một cuộc bộc lộ tối hậu mối tình của Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Những ai có thể chấp nhận nó trong đời sống của mình đều cảm thấy rằng, theo ánh sáng đức tin, đau đớn đã trở thành nguồn hy vọng và cứu độ” (đoạn 3.1).

“Quí bệnh nhân thân mến, đây là giây phút tuyệt đỉnh của Cuộc Mừng Kỷ Niệm của anh chị em! Bằng việc bước qua ngưỡng Cửa Thánh, anh chị em hợp với tất cả những ai trên khắp thế giới đã bước qua đó và những ai sẽ bước qua đó trong Năm Mừng Kỷ Niệm này. Chớ gì việc bước qua Cửa Thánh là dấu hiệu của việc anh chị em thiêng liêng tiến vào mầu nhiệm của Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc tử giá và phục sinh, Đấng vì yêu đã mang lấy ‘những sầu thương và gánh chịu những buồn phiền của chúng ta’ (Is 53:4)” (đoạn 4.2).

 

 

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

VỊ GIÁO HOÀNG “VUI MỪNG VÀ HY VỌNG” - “ĐỪNG SỢ”

  

3) Con Người Hiện Đại - làm sao có thể được cứu khỏi sự dữ??? (3)

 

Theo chiều hướng ấy, chiều hướng kêu gọi chung nhân loại và riêng con cái mình hãy tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa, Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, Đấng duy nhất có thể cứu độ con người bằng quyền lực phục sinh của Người, trong Huấn Từ Truyền Tin về Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa 18/4/2004, vị giáo hoàng này tiếp tục nhắc nhở và kêu gọi:

 

“Từ trên thập tự giá cao vào Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta lòng tha thứ như lời trăn trối của Người: ‘Lạy Cha, xin tha cho họ; vì họ không biết những gì họ làm’ (Lk 23:34). Bị hành hạ và nhạo báng, Người xin thương xót những kẻ sát hại Người. Cánh tay Người rộng mở và trái tim bị đâm thâu của Người trở thành một bí tích phổ quát cho tấm lòng hiền phụ của Thiên Chúa, Đấng ban cho hết mọi người ơn tha thứ và sự hòa giải.

 

“Vào ngày phục sinh, khi Người hiện ra với các môn đệ, Chúa đã chào các vị bằng những lời lẽ này: ‘Bình an cho các con’, rồi tỏ cho các vị thấy đôi tay của Người và cạnh sườn của Người còn nguyên dấu vết khổ nạn. Tám ngày sau, như chúng ta đọc trong bài Phúc Âm hôm nay, Người đã trở lại gặp các vị ở Nhà Tiệc Ly và lại nói với các vị: Bình an cho các con’ (x Jn 20:19-26).

 

Hòa bình là tặng ân đích thật của Chúa Kitô tử giá và phục sinh, hoa trái vinh thắng của tình Người yêu thương trên tội lỗi và sự chết. Bằng việc hiến dâng bản thân mình, tế vật vô tội đền bù trên bàn thờ thập giá, Người tuôn tràn trên nhân loại triều sóng ân phúc của Lòng Thương Xót Thần Linh” (đoạn 1).

 

“Bởi thế, Chúa Giêsu là hòa bình của chúng ta, khi Người trở thành biểu lộ tuyệt hảo của Tình Thương Xót Chúa. Người làm cho tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa thấm nhập vào lòng dạ con người, một vực thẳm vẫn từng bị sự dữ cám dỗ.

 

“Hôm nay, Chúa Nhật ‘in Albis’, chúng ta cử hành Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa. Chúa cũng ban cho chúng ta tất cả sự bình an được bắt nguồn từ lòng thứ tha và từ việc thứ tha tội lỗi. Nó là một tặng ân đặc biệt, một tặng ân Người muốn liên kết với bí tích thống hối và hòa giải. (đoạn 2). 

 

Nhân loại cần biết bao việc cảm nghiệm được tác hiệu của tình thương Thiên Chúa trong những thời buổi được đánh dấu bằng tình trạng bất an tăng phát cùng với những cuộc xung khắc bạo động!

 

“Chớ gì Mẹ Maria, Mẹ Chúa Kitô bình an của chúng ta, Đấng trên đồi Canvê đã lãnh nhận lời trăn trối yêu thương của Người, giúp chúng ta trở thành những chứng nhân và là những vị tông đồ của lòng thương xót vô biên hải hà của Người” (đoạn 3).   

Và để kết thúc một giáo triều có sứ mệnh mang con người về cho Lòng Thương Xót Chúa của mình, ngài đã gửi một tối di chúc thư cho nhân loại, một di chúc thư được đọc vào chính Ngày Chúa Nhật II Phục Sinh, tức vào buổi trưa ngay sau đêm ngài qua đời, sứ điệp của tối hậu di chúc thư do chính ngài dọn trước này như sau: 

“Lời Alleluia Phục Sinh vui lên cũng âm vang vào ngày hôm nay nữa. Bài Phúc Âm của Thánh Gioan hôm nay nói lên rằng Đấng Phục Sinh, vào đêm hôm đó, đã hiện ra với các vị Tông Đồ và ‘đã tỏ cho các vị thấy đôi tay và cạnh sườn của Người’ (Jn 20:20), tức là cho thấy những dấu hiệu của Cuộc Khổ Nạn đau thương còn hằn vết bất khả xóa mờ trên thân xác của Người cả sau khi Người Phục Sinh. Những thương tích hiển vinh này, những thương tích mà 8 ngày sau đó Người đã cho người tông đồ Tôma nghi ngờ chạm tới, đã cho thấy tình thương của Thiên Chúa ‘vì Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con duy nhất của mình’ (Jn 3:16).

 

“Mầu nhiệm yêu thương này là tâm điểm của phụng vụ hôm nay, Chúa Nhật ‘in Albis’, được giành để tôn thờ Lòng Thương Xót Chúa” (đoạn 1). 

 

“Chúa Kitô phục sinh đã hiến ban cho nhân loại, một nhân loại có những lúc dường như bị lạc mất và bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, cái tôi và sợ hãi, tặng ân tình ngài yêu thương, một tình yêu tha thứ, hòa giải và phục hồi tinh thần hy vọng. Đó là một tình yêu hoán cải tâm can và ban phát an bình. Thế giới này cần phải hiểu biết và chấp nhận Kòng Thương Xót Chúa biết bao!” (đoạn 2). 

 

“Lạy Chúa, Đấng đã tỏ tình yêu thương của Chúa Cha qua Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa ra, chúng con tin tưởng vào Chúa, và tin tưởng lập lại cùng Chúa hôm nay rằng: Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Chúa, xin thương xót chúng con và toàn thế giới.

 

“Phụng vụ trọng thể của Lễ Truyền Tin là lễ sẽ được cử hành ngày mai, đưa chúng ta đến việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm vĩ đại của tình yêu nhân hậu xuất phát từ Thánh Tâm Chúa Giêsu này bằng ánh mắt của Mẹ Maria. Nhờ Mẹ giúp đỡ, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa đích thực của niềm vui phục sinh là niềm vui được căn cứ vào niềm tin tưởng rằng Đấng được Đức Trinh Nữ cưu mang trong lòng, Đấng đã khổ nạn và tử giá vì chúng ta, đã thực sự phục sinh. Alleluia Hãy Vui Lên!” (đoạn 3). 

 

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

TRONG THỜI ÐIỂM MARIA

MẸ MARIA XUẤT HIỆN NHƯ BÌNH MINH 

BÁO HIỆU MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH RẠNG NGỜI TỎ HIỆN...

 

“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất

thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai,

cho dù không cùng một kiểu cách -

  Being the way by which Jesus came to us the first time,

    she will also be the way by which He will come the second time,  

 though not in the same manner

      (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)

 

"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.

Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài,

nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể...

the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary,

He sees that his time is getting short,

and he is making every effort to gain as many souls as possible..."

(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes  ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,

The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)

 

"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".

"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day.
He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".

     (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)

 

Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc

thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của

nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành

của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy

‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó

cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ

với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng

hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con

người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến

trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675)

"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”

March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you.     

(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;

tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha.

Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;

sau đó sẽ là ngày của công lý.

Speak to the world about My mercy;

let all mankind recognize My unfathomable mercy.

It is a sign for the end times;

after it will come the day of justice.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...

Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..."  

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -

Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng

(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa;

nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài,

vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus',

vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis',

là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử',

qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,

vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,

một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương)

để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha -

From her will come forth the spark

that will prepare the world for My final coming”

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)

 

 Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,

và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến

để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -

We are all living in the Advent of the last days of history,

and all trying to prepare for the coming of Christ,

to build the kingdom of God which he proclaimed”

(ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).

 

 

 

Thời Điểm Maria ra mắt ngày 8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được 30.224 lần viếng thăm. Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006. Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006.
 Từ đó TĐM tiếp tục được thêm Hit Counter lần viếng thăm. Đa tạ.

Webmaster@ThoiDiemMaria.Net