Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC”
2.- “Totus Tuus”: Hiện Thực (4)
THỨ HAI 7/4/2008
Tuần Tưởng Niệm Đại Giáo Hoàng Gioan Phaolô II băng hà 3 năm 2/4/2005-2008
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II Với Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần “Redemptor Hominis” Nội Dung và Bố Cục Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC” 2.- “Totus Tuus”: Hiện Thực - Việc Cầu Kinh Mân Côi Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG CỦA “ĐẤNG CỨU CHUỘC NHÂN TRẦN” Mầu Nhiệm Cứu Độ nơi Đức Gioan Phaolô II: Sống là Chúa Kitô – Chết là Vinh Thắng (x Phil 1:21) (3) Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG “VUI MỪNG VÀ HY VỌNG” - “ĐỪNG SỢ” 4) Triết Lý Nhân Sinh: Thuyết Ngôi Vị Cách của Triết Gia Nhân Bản Wojtyla
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Với Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần “Redemptor Hominis” Nội Dung và Bố Cục
Tổng Quan Sau 5 tháng được tuyển làm Giáo
Hoàng vào ngày 16/10/1978, ĐTC Gioan Phaolô II đã công bố bức thông điệp đầu
tiên của mình là “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” cho tất cả mọi tín hữu, một văn
kiện Ngài ký ngày Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay 4/3/1979 và đã chính thức ban
hành ngày 15/3/1979. Nhân dịp kỷ niệm 25 năm bức thông điệp mở màn là nồng
cốt cho cả giáo triều của ĐTC GPII, vị vào ngày 14/3/2004, đã đứng vào hàng
thứ ba cai trị giáo hội lâu đời trong lịch sử Giáo Hội, thiết tưởng cũng nên
có một cái nhìn tổng quan về bức thông điệp quan trọng này. Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tái liệu của VIS phổ biến ngày 9/3/2004
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC” 2.- “Totus Tuus”: Hiện Thực (4)
Nếu nội dung và chủ đích của Tông Thư “Mở Màn cho Một Tân Thiên Kỷ” được ngài ban hành vào ngày bế mạc Đại Năm Thánh 2000, 6/1/2001, là để kêu gọi Giáo Hội trong ngàn năm thứ ba Kitô Giáo “Duc in altum – Ra chỗ nước sâu thả lưới đánh cá”, mà chỗ nước sâu đây là gì nếu không phải là việc sâu xa sống đức tin, và còn ai có một đức tin sâu xa như Mẹ, một đức tin đầy ơn phúc (x Lk 1:45; 11:28). Việc sống đức tin sâu xa đây được thể hiện như thế nào, nếu không phải, theo chiều hướng của cùng bức Tông Thư này (phần 2), đó là việc chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô, mà việc chiêm ngưỡng Chúa Kitô này không thể nào trọn vẹn nếu không với Mẹ Maria, nếu không bằng đức tin đồng công của Mẹ, tuyệt đối tin vào Thiên Chúa, liên lỉ tin vào các mầu nhiệm của Người Con Thiên Chúa Nhập Thể và Vượt Qua, những mầu nhiệm là hồn sống của Kinh Mân Côi. Cầu Kinh Mân Côi là cùng Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô, như ngài đã đề cập tới chi tiết này ở ngay đầu đoạn 4 của huấn từ cho buổi triều kiến chung trên đây, hay trong chính Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, ở đoạn 3.
Thế nhưng, dầu sao Kinh Mân Côi, đúng hơn Mầu Nhiệm Mân Côi cũng chỉ là những gì nhắc nhở lại những biến cố lịch sử thuộc về quá khứ mà thôi, chứ không phải là những gì hiện thực và sống động, như Hiến Tế Thánh Thể của “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” được Giáo Hội cử hành nơi Phụng Vụ. Phải chăng đó là lý do Năm Mân Côi phải được mỡ ra trước Năm Thánh Thể, để “Mẹ Đấng Cứu Chuộc” giúp chung Giáo Hội và riêng Kitô hữu chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô từ các Mầu Nhiệm Mân Côi đến chính Mầu Nhiệm Thánh Thể. Đức Gioan Phaolô II đã xác nhận tính cách dạo khúc của Kinh Mân Côi đối với việc cử hành Phụng Vụ Thánh Thể ở đoạn 4.
Nói đến Biến Cố Fatima là nói đến danh hiệu “Ta là Đức Mẹ Mân Côi” của Mẹ Maria, như Mẹ tự nhận mình vào lần hiện ra cuối cùng với 3 Thiếu Nhi Fatima ngày 13/10/1917, và như Mẹ lần nào hiện ra, trong cả 6 lần, đều kêu gọi “hãy cầu kinh Mân Côi hằng ngày”. Không ai có thể chối cãi là bản thân Đức Gioan Phaolô II đã thực hiện việc “cầu Kinh Mân Côi hằng ngày” này. Ngài chẳng những làm riêng, mà còn, những khi có thể, phát động làm chung nữa, điển hình nhất là ngày 14/8/1983, lần ngài viếng thăm Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức lần đầu tiên. Sau đó, ngài còn tiếp tục thực hiện ít là những lần công khai được ghi nhận sau đây: ngày 7/10/1995 ở Vương Cung Thánh Đường Saint Patrick, Nữu Ước Hoa Kỳ, ngày 4/5/1996 ở Vương Cung Thánh Đường Mẹ Mông Triệu của Giáo Phận Como Ý quốc, ngày 5/10/1996 và 3/5/1997 ở Đền Thờ Thánh Phaolô Rôma, ngày 7/6/1997 ở Đền Thánh Đức Mẹ Ludzmierz Balan, ngày 5/7/1997 và 6/6/1998 ở Khuôn Viên Thánh Damascô Vatican, ngày 2/8/1997 và 6/9/1997 ở khuôn viên tông dinh nghỉ mát Castel Gandolfo. Lần cuối cùng ngài cầu Kinh Mân Côi chung với cộng đồng Dân Chúa là ngày 14/8/2004, lần ngài viếng thăm Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức lần thứ hai cũng là lần sau hết, trong lần này, ngài đã ngỏ lời huấn dụ cùng đoàn tín hữu Hành Hương Thánh Mẫu để kết thúc cuộc Cung Nghinh Thánh Mẫu Cầu Kinh Mân Côi như sau, những lời lẽ như nhắc nhở con cái mình hãy tôn kính Mẹ Maria hiển vinh và nhờ Mẹ đến với Chúa Kitô Phục Sinh:
“Năm nay, vị Giáo Hoàng đây cũng tham gia với anh chị em nơi hành động tôn sùng và mến yêu đối với Đức Nữ Trinh Rất Thánh này, người nữ hiển vinh của Sách Khải Huyền, được đội triều thiên 12 ngôi sao (x Rev 12:1). Cầm trong tay cây đuốc sáng, chúng ta nhớ lại và tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào Chúa Kitô Phục Sinh. Nơi Người toàn thể đời sống của chúng ta được chiếu soi và hy vọng”.
Trong Huấn Từ Truyền Tin cho Chúa Nhật XXIX Thường Niên ngày 16/10/2005, dịp kỷ niệm đúng 27 năm vị hồng y người Balan được bầu làm giáo hoàng 27 năm trước đó, vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã nhận định về vị tiền nhiệm rất đáng kính mến của ngài đối với lòng biệt tôn Thánh Mẫu liên quan tới khẩu hiệu “Totus Tuus” và Kinh Mân Côi như sau:
“Chúng ta có thể diễn tả Đức Gioan Phaolô II như là vị Giáo Hoàng hoàn toàn hiến thân cho Chúa Giêsu nhờ Mẹ Maria, như khẩu hiệu của ngài tỏ tường cho thấy: ‘Totus tuus’. Ngài đã được tuyển chọn vào giữa tháng mân côi, và chuỗi mân côi, thường được ngài cầm trong tay, trở thành một trong những biểu hiệu cho giáo triều của ngài, một giáo triều được Đức Trinh Nữ trông nom săn sóc bằng mối quan tâm từ mẫu. Qua truyền thanh và truyền hình, tín hữu trên thế giới đã có thể liên kết với ngài vào một số dịp cầu loại kinh Thánh Mẫu ấy, và nhờ gương sáng cùng các giáo huấn của ngài, họ tái nhận thức được ý nghĩa đích thực của kinh nguyện này, một ý nghĩa chiêm niệm và Kitô học (xem tông thư “Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria”, các khoản 9-17)”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
VỊ GIÁO HOÀNG CỦA “ĐẤNG CỨU CHUỘC NHÂN TRẦN”
Mầu Nhiệm Cứu Độ nơi Đức Gioan Phaolô II: Sống là
Chúa Kitô – Chết là Vinh Thắng (x Phil 1:21)
(3)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL VỊ GIÁO HOÀNG “VUI MỪNG VÀ HY VỌNG” - “ĐỪNG SỢ”
4) Triết Lý Nhân Sinh: Thuyết Ngôi Vị Cách của Triết Gia Nhân Bản Wojtyla
Tóm lại, Thụ Nhân Cứu Chuộc, trong Giáo Triều có Cốt Lõi là Mầu Nhiệm Cứu Chuộc này, là yếu tố thiết yếu bất khả châm chước và là mối quan tâm chủ yếu của Đức Gioan Phaolô II. Tuy nhiên, những giáo huấn về nhân bản của giáo triều này là những gì đã được mọc mầm và nẩy nở từ triết lý nhân sinh của vị Giáo Hoàng trước đó đã là Triết Gia Wojtyla, một trong những đại tư tưởng gia của riêng Balan và của chung thế giới, đã dung hợp và hoàn thiện hóa khoa đạo đức học về trách nhiệm của triết gia Đức quốc Immanuel Kant (1724-1804) với khoa hiện tượng học về giá trị của triết gia Đức quốc Max Scheler (1874-1928) thành khoa triết học về ngôi vị cách.
Thật thế, trước khi làm Giáo Hoàng, hay trong thời gian đang còn là giáo sư triết học ở Balan và đang sinh hoạt mục vụ với giới trẻ, ngài đã suy tư, sau đó đã viết thành sách, thành 2 tác phẩm nổi tiếng về nhân bản theo chiều kích ngôi vị thuyết, đó là cuốn “Yêu Thương và Trách Nhiệm” (Love and Responsibility) và “Con Người Sinh Động” (Acting Person). Những tác phẩm này đã được ngài nhắc đến nguồn gốc và nội dung của chúng trong cuốn “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng”, ở chương mang tựa đề “Nhân Quyền”. Như ngài cho biết, tác phẩm đầu tiên “Con Người Sinh Động” được ngài viết ra để chống lại chủ nghĩa Cộng Sản, chống lại những “dẫn giải vô thần” về con người của các khoa học gia, vật lý gia “từ sau Einstein”. Nếu cuốn “Con Người Sinh Động” liên quan tới thời Balan Cộng Sản sau Thế Chiến Thứ Hai, thì cuốn “Yêu Thương và Trách Nhiệm” được nẩy mầm trước đó, “sau thời Đức quốc xâm chiếm” Balan, liên quan tới vấn đề “về cách thức sống” được giới trẻ đặt ra cho một vị linh mục trẻ như ngài bấy giờ. Ngài đã cho biết đại quan về hai tác phẩm triết lý nhân sinh này “bàn đến các vấn đề liên quan tới cuộc sống của nhân loại” của mình, những tác phẩm ảnh hưởng tới chiều kích nhân bản, chiều kích của thành phần Thụ Nhân Cứu Chuộc, đối tượng của “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”, như sau:
“Bởi vậy, có thể nói cho ngay rằng chính vì mối quan tâm mục vụ mà tôi đã khai triển các vấn đề nghiên cứu tập trung vào con người – vào con người ngôi vị. Cũng chính theo quan điểm mục vụ mà tôi đã hình thành quan niệm nguyên tắc về ngôi vị cách nơi cuốn Yêu Thương và Trách Nhiệm. Nguyên tắc này là một nỗ lực chuyển dịch giới luật yêu thương thành thứ ngôn ngữ đạo lý triết học. Con người là một hữu thể chỉ xứng hợp với duy chiều kích yêu thương mà thôi. Chúng ta sống cách chân chính với một người nào đó nếu chúng ta yêu thương họ. Điều này đúng thực đối với Thiên Chúa cũng như đối với con người. Yêu thương một con người thì không tìm cách đối sử với họ như là một thứ đối tượng để thỏa mãn. Đây là một nguyên tắc nơi đạo đức học của Kant và tạo nên cái được ông gọi là trách nhiệm thứ hai. Tuy nhiên, trách nhiệm này có tính cách tiêu cực và không diễn tả được tất cả nội dung của giới luật yêu thương. Nếu Kant quá nhấn mạnh rằng con người không thể bị đối sử như là một đối tượng để thỏa mãn, thì ông đã làm như thế là để chống lại chủ nghĩa duy thực dụng của trường phái Anglo-Saxon, và theo quan điểm ấy thì ông đã đạt được mục đích của mình. Tuy nhiên, Kant không trọn vẹn dẫn giải hết giới luật yêu thương. Thật thế, giới luật yêu thương không bị giới hạn vào việc loại trừ đi tất cả mọi hành vi cử chỉ biến con người thành một đối tượng thuần túy để thỏa mãn. Giới luật này còn đòi hỏi hơn thế nữa; nó đòi phải chấp nhận con người như là một ngôi vị”.
Những tư tưởng triết lý nhân sinh trên đây của ngài, theo Vị Giáo Hoàng đã góp phần (có thể nói chính yếu) trong việc soạn thảo bản Hiến Chế “Vui Mừng Và Hy Vọng”, một văn kiện tiêu biểu cho Công Đồng có tính cách canh tân hướng ngoại theo chủ trương Giáo Hội Trong Thế Giới Tân Tiến, đã chính thức trở thành chất liệu thiết yếu của và cho Công Đồng Chung Vaticanô II, trở thành giáo huấn chính thức của Giáo Hội, như ngài đã so sánh và trích dẫn trong cùng tác phẩm, tiếp theo sau ngay đoạn vừa trích dẫn trên đây (trang 201), như thế này:
“Việc diễn giải thực sự về ngôi vị cách của giới luật yêu thương được chất chứa nơi những lời của Công Đồng: ‘Khi Chúa Giêsu cầu nguyện cùng Cha xin cho ‘họ được nên một’ (Jn 17:22), là Người đặt trước mắt chúng ta một chân trời mới bất khả thấu đối với lý trí loài người, và bao hàm một thứ tương tự giống nhau giữa cuộc hiệp nhất nơi các ngôi vị thần linh với việc hiệp nhất của con cái Chúa trong chân lý và yêu thương. Cái tương tự giống nhau này cho thấy làm thế nào mà con người, một tạo vật duy nhất trên trần gian này lại được Thiên Chúa dựng nên cho chính họ, có thể hoàn toàn khám phá ra chính mình duy chỉ bằng việc trao ban bản thân mình’ (đoạn 24). Ở đây chúng ta có một dẫn giải thích đáng đầy đủ về giới luật yêu thương. Trước hết, nguyên tắc con người có giá trị nhờ duy sự kiện họ là một ngôi vị được hoàn toàn sáng tỏ ở chỗ: con người, như đã viết, ‘là tạo vật duy nhất trên trần gian được Thiên Chúa dựng nên cho chính họ’. Đồng thời Công Đồng cũng nhấn mạnh rằng, điều quan trọng nhất về yêu thương đó là việc chân thành ban tặng bản thân mình. Theo ý nghĩa này thì con người đây được hiện thực bởi yêu thương.
“Bởi thế, hai khía cạnh này – khía cạnh công nhận con người là một ngôi vị và khía cạnh chân thành ban tặng bản thân mình – chẳng những không loại trừ nhau, mà còn xác định nhau và hoàn trọn nhau. Con người nhận biết mình nhất bằng việc hoàn toàn hiến tặng bản thân mình. Đó là những gì làm trọn giới luật yêu thương. Đó cũng là sự thật trọn vẹn về con người, một sự thật được Chúa Kitô dạy cho chúng ta biết bằng đời sống của Người, cũng là một sự thật được truyền thống thánh nhân và nhiều vị anh hùng của lòng yêu thương tha nhân đã tiếp nối và sống trọn vẹn trong giòng lịch sử.
“Nếu chúng ta lấy đi cái khả thể này khỏi tự do của con người, nếu con người không dấn thân trở thành một quà tặng cho người khác, thì cái tự do ấy có thể trở thành nguy hiểm. Nó sẽ trở thành thứ tự do được sử dụng để làm bất cứ những gì chính tôi cho là tốt lành, những gì mang lại cho tôi lợi lộc và thỏa mãn, cho dù là một thỏa mãn thanh cao. Nếu chúng ta không thể chấp nhận quan điểm ban tặng bản thân mình thì bao giờ chúng ta cũng thấy xuất hiện cái nguy hiểm của thứ tự do vị kỷ. Kant đã chống lại thứ nguy hiểm này, và theo cùng đường hướng ấy còn có cả Max Scheler cùng với rất nhiều người sau ông để tham phần vào khoa đạo lý về các giá trị của ông. Thế nhưng, mọi sáng tỏ về tất cả những sự này đều đã được chất chứa trong Phúc Âm. Chính vì thế mà chúng ta có thể tìm thấy nơi Phúc Âm một bản tuyên ngôn nhất quán về tất cả mọi thứ nhân quyền, cho dù những nhân quyền ấy, vì những lý do khác nhau, có thể làm cho chúng ta cảm thấy bức rức”.
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
|
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |