Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, BVL
BÍ MẬT FATIMA THỨ BA? -
"Các con hãy coi chừng! Đừng bị ai lừa đảo các con!" (Mt 24:4)
Sau Lễ Mẹ Fatima 13/5
(tiếp theo hôm qua)
Trên đây là Bí Mật Fatima
Thứ Ba hoàn toàn giả tạo. Tại sao?
Thứ nhất, là vì tất cả
những gì được Tòa Thánh, qua Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin công khai tiết lộ
vào ngày 26/6/2000, sau khi đã được ĐHY Quốc Vụ Khanh Angelo Sodano loan
báo ở cuối Thánh Lễ Phong Chân Phước cho Phanxicô và Giaxinta tại Fatima
ngày 13/5/2000, là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cho phép tiết lộ Bí Mật
Fatima phần thứ ba (chứ không phải Bí Mật Fatima Thứ Ba; chỉ có một Bí
Mật Fatima duy nhất có 3 phần liên hệ mật thiết với nhau, mà hai phần
đầu đã được chị Lucia viết ra trong Hồi Niệm của chị, còn phần cuối cùng
chị đã gửi cho Tòa Thánh để chính Đức Thánh Cha tiết lộ), hoàn toàn
không hề có một tí gì giống như những điều được tung ra trên đây.
Thứ hai, trước khi tiết
lộ Bí Mật Fatima phần còn lại này, Tòa Thánh đã phải trực tiếp liên lạc
và gặp gỡ chị Lucia để chính chị xác nhận tính cách chân thực của Bí Mật
Fatima phần còn lại ấy. Tuy nhiên, sau khi Bí Mật Fatima phần còn lại
này được Tòa Thánh chính thức công khai phổ biến thì có một vị linh mục
ở Canada là Nicholas Gruner phản kháng, cho rằng Tòa Thánh còn giấu diếm
Bí Mật Fatima, chưa tiết lộ hết. Vị linh mục này, vì bất tuân phục, đã
bị Tòa Thánh treo chén. "Bí Mật Fatima" được gọi là "Thứ Ba" trên đây
đã được, như Cha Đinh Công Huỳnh, Linh Hướng Phong Trào Tông Đồ Fatima
Thế Giới Việt Nam (Đạo Binh Xanh) cho biết, tung ra từ tờ báo do vị linh
mục bị treo chén này chủ trương, đó là tờ Fatima Crusader, từ trang 4
đến trang 6, dưới tựa đề
"The Third
Secret reveals the Great Chastisement
- Bí Mật Fatima Thứ Ba tiết lộ Cuộc Đại Thanh Trừng" do linh mục Paul
Kramer viết.
Thứ ba, chúng ta hãy lưu
ý và nhớ kỹ là BÍ MẬT FATIMA phần thứ ba không hề nói đến ngày tận thế
hay thế chiến thứ III, và bí mật này không được tỏ cho một cá nhân nào
ngoài 3 Thiếu Nhi Fatima, và được 1 trong 3 em là Lucia viết gửi cho Tòa
Thánh mà thôi, và chỉ có Tòa Thánh mới biết và được quyền tiết lộ mà
thôi. Chị Lucia không hề tỏ cho một người nào biết về Bí Mật Fatima phần
thứ ba này ngoài Tòa Thánh và Đức Thánh Cha.
Thứ bốn, nếu chúng ta
chấp nhận Bí Mật Fatima Thứ Ba do hai vị linh mục này phổ biến, những gì
hoàn toàn không được Giáo Hội chính thức công nhận và phổ biến, là chúng
ta vào hùa với họ cho rằng Tòa Thánh và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II,
thậm chí kể cả chị Lucia là người đã được thấy Mẹ Maria và viết ra Bí
Mật Fatima phần thứ ba, đều là thành phần gian dối, đánh lừa thiên hạ,
bậy bạ.
Thứ năm, bởi thế, tôi xin
tất cả mọi người hãy cứ đọc cho biết, nhưng đừng chủ động hay tích cực
phổ biến, trái lại, thấy ai phổ biến và tin tưởng vào những gì dối trá
trắng trợn đầy tính cách phản phá Giáo Hội trên đây, chúng ta hãy mạnh
mẽ lên tiếng ngăn chặn và chứng minh cho họ biết, theo như những gì tôi
đã cố gắng trình bày trên đây. Nếu ai đọc được tiếng Anh, xin vào thẳng
trang điện toán toàn cầu của Tòa Thánh sau đây để thấy rõ tất cả sự thật:
http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_20000626_message-fatima_en.html
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh,
BVL
TOP
MẾN YÊU THÁNH THỂ
Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II
Thông Điệp Thánh Thể của ĐTC Gioan Phaolô
II
Dẫn Nhập
7. Từ khi Tôi bắt
đầu sứ vụ Thừa Kế Thánh Phêrô, Tôi lúc nào cũng đã đánh dấu Ngày Thứ Năm
Tuần Thánh, ngày của Thánh Thể và của thiên chức linh mục, bằng việc gửi
một bức thư cho tất cả mọi vị linh mục trên thế giới. Năm nay, năm thứ
25 Giáo Triều của mình, Tôi muốn cả Giáo Hội tham dự vào việc suy niệm
Thánh Thể trọn vẹn hơn, như một cách thức tạ ơn Chúa về tặng ân Thánh
Thể và chức linh mục: “Tặng Ân và Mầu Nhiệm” (4). Bằng việc công bố Năm
Mân Côi, Tôi muốn đặt điều này, biến cố mừng kỷ niệm 25 năm giáo triều
của Tôi đây, dưới sự bảo trợ của việc chiêm ngưỡng Chúa Giêsu tại học
đường Maria. Bởi vậy, Tôi không thể để cho Ngày Thứ Năm Tuần Thánh 2003
này qua đi mà không dừng lại trước “dung nhan Thánh Thể” Chúa Kitô và
hướng Giáo Hội đến tâm điểm Thánh Thể bằng một nghị lực mới.
Giáo Hội kín múc sự sống
của mình từ Thánh Thể. Nơi thứ “bánh sự sống” này, Giáo Hội được nuôi
dưỡng. Làm sao Tôi lại không cảm thấy cần phải thúc giục hết mọi người
hãy cảm nghiệm Thánh Thể một cách mới mẻ hơn bao giờ hết?
8. Khi Tôi nghĩ đến
Thánh Thể, và nhìn vào đời sống của Tôi với tư cách là một vị linh mục,
một vị Giám Mục và là vị Thừa Kế Thánh Phêrô, Tôi tự nhiên nghĩ đến
nhiều lần và nhiều nơi Tôi đã cử hành Thánh Thể. Tôi nhớ nhà thờ xứ
Niegowíc, nơi Tôi thi hành bài sai đầu tiên của mình, nhà thờ Thánh
Florian ở Krakow cho sinh viên đại học, Vương Cung Thánh Đường Wawel,
Đền Thờ Thánh Phêrô và nhiều đền thờ và nhà thờ ở Rôma cũng như trên
khắp thế giới. Tôi đã có thể cử hành Thánh Lễ ở những nguyện đường dọc
các sườn núi, trên các bờ hồ và các ven biển; Tôi đã cử hành Thánh Thể
trên các bàn thờ dựng lên ở các thao trường cũng như ở các công viên
thành phố… Cảnh trí của những lần cử hành Thánh Thể khác nhau này đã
hiến cho Tôi một cảm nghiệm mãnh liệt về tính chất đại đồng và có thể
nói tính chất vũ trụ của Thánh Thể. Phải, vũ trụ! Vì ngay cả khi Thánh
Thể được cử hành ở bàn thờ thô sơ của một nhà thờ thôn quê thì Thánh Thể,
một cách nào đó, bao giờ cũng được cử hành trên bàn thờ thế giới. Thánh
Thể liên kết trời đất lại với nhau. Thánh Thể bao gồm và thấm nhập tất
cả thiên nhiên tạo vật. Con Thiên Chúa đã làm người để phục hồi tất cả
thiên nhiên tạo vật, bằng một tác động chúc tụng duy nhất tối cao, về
cho Đấng đã tạo nên nó từ hư không. Là Vị Thượng Tế Hằng Hữu, bằng máu
Thập Giá của mình, Người đã tiến vào thánh cung vĩnh cửu, nhờ đó trả về
cho Đấng Hóa Công và là Cha tất cả mọi tạo sinh đã được cứu chuộc. Người
làm như thế bằng thừa tác vụ tư tế của Giáo Hội cho vinh quang của Ba
Ngôi Chí Thánh. Đây thực sự là mầu nhiệm đức tin mysterium fidei, một
mầu nhiệm được nên trọn nơi Thánh Thể, ở chỗ, thế giới phát xuất từ bàn
tay Thiên Chúa Hóa Công giờ đây trở về với Ngài do Chúa Kitô cứu chuộc.
(Đaminh Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu được Zenit phổ biến ngày Thứ Năm Tuần
Thánh, 17/4/2003)
TOP
YÊU THƯƠNG THA NHÂN
Giáo
Hoàng Biển Đức XVI
"Hôn nhân và
gia đình được bắt nguồn từ cốt lỡi sâu xa nhất nơi sự thật về con người và
định mệnh của họ."
Huấn
Dụ Học Viện Gioan Phaolô II Đặc Trách Nghiên Cứu Về Hôn Nhân Và Gia Đình
Trong cuộc gặp
gỡ thành phần triều kiến bao gồm giáo sư, sinh viên và ra trường của
Học Viện Gioan Phaolô II Đặc Trách Nghiên Cứu Về Hôn Nhân Và Gia Đình, Giáo
Hoàng Biển Đức XVI đã nhắc lại một trong những ấp ủ của vị Giáo Hoàng tiền
nhiệm rất yêu quí của ngài, một giấc mơ đã thành sự thật.
Vì học viện
này, với trụ sở chính ở Rôma, tại Đại Học Lateranô, đã lan khắp năm
châu, như ở Âu Châu ngoài Rôma còn có Gaming, Áo Quốc và Valencia, Tây Ban
Nha; ở Mỹ Châu có Washington DC, Hoa Kỳ, có Mexico City và Guadalajara, Mễ
Tây Cơ, và có Salvador da Bahia, Ba Tây; ở Đại Dương Châu có Melbourne, Úc
Đại Lợi; ở Phi Châu có Cotonou, Benin; và ở Á Châu có Changanacherry, Ấn Độ.
Vị tân chủ
tịch của học viện này là Đức Ông Livio Melina, một giáo sư về luân lý thần
học. Ngài là sinh viên tiến sĩ đầu tiên trình luận án của mình ở học viện
này trước sự hiện diện của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger bấy giờ là Tổng
Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin.
Sau đây là
nguyên văn bài huấn từ của ngài.
Trọng kính Quí
Hồng Y,
Quí Huynh Khả
Kính trong hàng Giáo Phẩm và Linh Mục,
Anh Chị Em
thân mến:
Thật là một
niềm vui lớn lao tôi được gặp gỡ anh chị em nhân dịp mừng kỷ niệm 25 năm
thành lập Học Viện Gioan Phaolô II của Tòa Thánh Đặc Trách Nhiên Cứu Về Hôn
Nhân Và Gia Đình, ở Đại Học Tòa Thánh Latêranô. Tôi xin chào tất cả mọi anh
chị em với lòng cảm mến và tôi thành thật cám ơn Đức ông Livio Melina về
những lời lẽ nồng hậu ngài thay cho anh chị em ngỏ cùng tôi.
Thuở ban đầu
của học việc của anh chị em đây gắn liền với một biến cố rất đặc biệt: đó là
chính vào ngày 13/5/1981, tại Quảng Trường Thánh Phêrô, vị tiền nhiệm yêu
dấu của tôi là Đức Gioan Phaolô II, đã trải qua một cuộc ám sát nghiêm trọng
nổi tiếng trong buổi triều kiến được ngài dùng để loan báo về việc thiết lập
học viện của anh chị em. Biến cố này có một tầm vóc đặc biệt quan trọng nơi
việc tưởng niệm hiện nay đây, một việc tưởng niệm chúng ta cử hành ngay sau
khi chúng ta cử hành kỷ niệm cái chết của ngài. Anh chị em muốn đề cao nó
bằng sáng kiến thích hợp liên quan tới một hộïi nghị bàn về đề tài: ‘Di Sản
của Đức Gioan Phaolô II về Hôn Nhân và Gia Đình: yêu thương tình yêu của
nhân loại’.
Anh chị em có
lý để cảm thấy được cái di sản này một cách hoàn toàn đặc biệt, vì anh chị
em là thành phần thụ nhận và là những người tiếp tục cái nhãn quan đã từng
là một trong những noon bay cho sứ vụ và suy tưởng của ngài: dự án của Thiên
Chúa về hôn nhân và gia đình. Di sản này không phải chỉ là tổng hợp những
tín lý và ý nghĩ, mà trên hết là một giáo huấn khôn ngoan liên quan tới một
mối hiệp nhất sáng ngời về ý nghĩa của tình yêu sự sống nơi con người. Sự
hiện diện của nhiều gia đình trong buổi triều kiến này là một chứng cớ hùng
hồn cho thấy giáo huấn về sự thật ấy đã được đón nhận và sinh hoa trái ra
sao.
Ý nghĩ ‘giảng
dạy yêu thương’ đã có ở nơi vị linh mục trẻ Karol Wojtyla và sau đó đã thúc
đẩy vị giám mục trẻ là ngài khi ngài đối diện với những giây phút khó khăn
xẩy ra sau khi vị tiền nhiệm của tôi là Đức Phaolô VI ban hành bức thông
điệp ‘Sự Sống Con Người’ có tính cách tiên liệu và luôn hợp thời. Chính
trong hoàn cảnh đó mà ngài đã hiểu được nhu cầu cần phải thực hiện một cuộc
nghiên cứu học hỏi có hệ thống và phương pháp về đề tài này.
Điều này đã
tạo nên cơ sở cho giáo huấn sau đó được ngài cống hiến cho toàn thể Giáo Hội
trong loạt bài ‘Giáo Lý về Tình Yêu Con Người’. Ngài đã lợi dụng để nhấn
mạnh đến hai yếu tố nồng cốt được anh chị em đã nỗ lực suy tư một cách sâu
xa hơn trong những năm này và là những yếu tố định hình cho cái rất mới mẻ
nơi học viện của anh chị em như là một thực tại về hàn lâm mang một sứ vụ
đặc biệt trong Giáo Hội vậy.
Yếu tố thứ
nhất đó là hôn nhân và gia đình được bắt nguồn từ cốt lỡi sâu xa nhất nơi sự
thật về con người và định mệnh của họ. Thánh Kinh đã mạc khải rằng ơn gọi
yêu thương là những gì thuộc về hình ảnh đích thực của Thiên Chúa được Đấng
Hóa Công muốn in ấn nơi tạo vật của Ngài, khi kêu gọi con người hãy trở nên
giống như Ngài chính ở cách thức con người hướng về yêu thương. Sự khác nhau
về phái tính ở nơi thân thể của người nam và người nữ, bởi thế, không phải
là một sự kiện thuần sinh lý, mà có một ý nghĩa sâu xa hơn thế nhiều, ở chỗ
nó cho thấy rằng nhờ yêu thương như vậy con người nam nữ trở nên một xác
thịt duy nhất; họ có thể hiện thực mối hiệp thông chân thực giữa con người
hướng về việc truyền đạt sự sống và nhờ đó cộng tác với Thiên Chúa trong
việc sinh sản những con người mới.
Yếu tố thứ hai
làm nên đặc tính mới mẻ nơi giáo huấn của Đức Gioan Phaolô II về tình yêu
con người đó là cách thức độc đáo được ngài sử dụng để dẫn giải dự án của
Thiên Chúa qua việc qui hợp mạc khải của Thiên Chúa với kinh nghiệm của con
người. Thật thế, nơi Chúa Kitô là tất cả mạc khải của tình yêu Chúa Cha,
cũng đã bộc lộ tất cả sự thật về ơn gọi yêu thương của con người, một ơn gọi
chỉ có thể hoàn toàn nơi việc trao ban bản thân mình.
Trong thông
điệp mới đây của mình, tôi đã muốn nhấn mạnh đến cách thức làm thế nào thực
sự nhờ yêu thương mà ‘hình ảnh của Thiên Chúa nơi Kitô hữu cùng với hình ảnh
của nhân loại bởi đó cùng với định mệnh của nó’ được thể hiện (‘Thiên Chúa
Là Tình Yêu’, đoạn 1). Tức là, Ngài đã sử dụng đường lối yêu thương để mạc
khải mầu nhiệm sự sống Ba Ngôi của mình.
Ngoài ra, mối
liên hệ sâu xa giữa hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu và tình yêu nhân loại làm
cho chúng ta có thể hiểu được rằng ‘hôn nhân một vợ một chồng tương xứng với
hình ảnh của vị Thiên Chúa độc thần. Hôn nhân được đặt trên một tình yêu
chuyên nhất và tận tuyệt trở thành hình ảnh cho mối liên hệ giữa Thiên Chúa
với Dân của Ngài và ngược lại, đường lối yêu thương của Thiên Chúa trở thành
chuẩn mực cho tình yêu thương của nhân loại’ (ibid. 11). Nhận định này vẫn
còn là một lãnh vực rộng lớn cần phải được khai phá thêm.
Như thế, công
việc được tóm lại như sau: Học Viện Đặc Trách Nghiên Cứu Về Hôn Nhân Và Gia
Đình, qua tất cả cấu trúc hàn lâm của mình, cần phải làm sáng tỏ sự thật về
sự sống như một cách thức làm phong phú tất cả mọi hình thức hiện hữu của
con người. Cái thách đố lớn lao của việc Tân Truyền Bá Phúc Âm Hóa được Đức
Gioan Phaolô II đầy tâm huyết phác họa, cần phải được hỗ trợ bởi một ý thức
sâu xa đíùch thực về tình yêu con người, vì tình yêu này là một đường lối
đặc biệt được Thiên Chúa dùng để tỏ mình ra cho thế giới, và qua tình yêu
thương này Ngài kêu gọi thế giới đến với mối hiệp thông sự sống của Thiên
Chúa Ba Ngôi.
Đường lối ấy
cũng giúp cho chúng ta có thể thắng vượt quan niệm thu hẹp vào một thứ tình
yêu thường thuần riêng tư là một thứ yêu thương rất ư là thịnh hành phổ
thông ngày nay. Tình yêu thương chân thực là những gì được biến đổi thành
một thứ ánh sáng hướng dẫn cả cuộc sống tiến đến chỗ phong phú, phát sinh
một xã hội được nhân bản hóa cho con người. Mối hiệp thông sự sống và yêu
thương là hôn nhân, nhờ đó, trở thành một sự thiện đích thực cho xã hội.
Việc tránh lánh sự lẫn lộn với các kiểu hiệp nhất khác xuất phát từ thứ yêu
thương yếu hèn là một điều đặc biệt khẩn trương ngày nay. Chỉ có tảng đá yêu
thương trọn vẹn và bất khả hủy bỏ giữa người nam và người nữ mới có thể làm
nền tảng cho một xã hội trở thành nhà cho tất cả mọi dân tộc.
Tầm quan trọng
mà công cuộc của học viện này có được trong sứ vụ của Giáo Hội cho thấy cái
hình dạng của nó: Thật vậy, Đức Gioan Phaolô II đã phê chuẩn một tổ chức duy
nhất có những chi nhánh khác nhau trải khắp năm châu, để tổ chức này có thể
chia sẻ cái phong phú của sự thật duy nhất nơi tính cách đa dạng của các nền
văn hóa.
Mối hiệp nhất
về nhãn quan nơi việc nghiên cứu và giáo huấn, mặc dù có tính cách đa dạng
về nơi chốn và cảm thức, tiêu biểu cho một thứ giá trị anh chị em cần phải
canh giữ, bằng việc phát triển những kho tàng được chôn giấu nơi mọi nền văn
hóa. Đặc tính ấy của tổ chức này đã tự chứng tỏ cho thấy là đặc biệt thích
hợp với việc học hỏi về một thực tại như hôn nhân và gia đình. Công cuộc của
anh chị em là những gì có thể tỏ cho thấy làm thế nào để tặng ân thiên nhiên
được thể hiện ở các nền văn hóa khác nhau này đã được ơn cứu chuộc của Chúa
Giêsu thăng hóa.
Để có thể thi
hành sứ vụ của anh chị em một cách tốt đẹp như thành phần trung thành thừa
hưởng của vị sáng lập học viện này, Đức Gioan Phaolô II của chúng ta, tôi
mời anh chị em hãy chiêm ngưỡng Mẹ Maria Rất Thánh là Mẹ của Tình Yêu Tuyệt
Mỹ. Tình yêu cứu chuộc của Lời nhập thể, đối với mỗi một cuộc hôn nhân và
mỗi gia đình, cần phải trở thành ‘những nguồn nước sự sống giữa một thế giới
khát khao’ (Deus Caritas Est, 42). Tôi xin gửi đến những lời chúc tốt đẹp
nhất, kèm theo một phép lành đặc biệt đến tất cả anh chị em, đến quí vị giáo
sư thân mến, đến các sinh viên hôm qua và hôm nay, đến toàn thể nhân viên
của học viện, cũng như đến các gia đình thuộc học viện của anh chị em.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
11/5/2006
TOP
GIÁO HỘI
HIỆN THẾ
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã
đến với chúng ta lần thứ nhất
thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với
chúng ta lần thứ hai,
cho dù không cùng một kiểu cách
-
Being the way by which Jesus
came to us the first time,
she will also be the way by
which He will come the second time,
though not in the same manner”
(Thánh
Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một
cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.
Hắn thấy rằng thời gian của mình không
còn dài,
nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu
có thể...
the devil is carrying on a
decisive battle with the Virgin Mary,
He sees that his time is
getting short,
and he is making every
effort to gain as many souls as possible..."
(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày
26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,
The Secret of Fatima - Fact and Legend, The
Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn
trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những
thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình
không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy
hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích
của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những
cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi
tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn
những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has
little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day. He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".
(Thánh
Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
“Trước
khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc
thử thách sau cùng, một cuộc thử thách
sẽ làm lay chuyển đức tin của
nhiều tín hữu (x Lk
18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành
của Giáo Hội trên mặt
đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy
‘mầu nhiệm của gian
tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó
cống hiến con người
một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ
với giá họ phải trả
là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng
hạng là cái lừa bịp
Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con
người tôn vinh mình
hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến
trong xác thịt của
Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý
Giáo Hội Công Giáo số 675)
"Before Christ's second coming the Church must pass
through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil
the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men
an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the
truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism
by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in
the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng,
trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên
Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc
Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên
Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác
động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế
cho nhân loại; còn phần con,
con phải nói cho thế giới về tình thương cao
cả của Người và sửa soạn
thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế
nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh.
Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày
giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho
các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát
tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều
linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy.
Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”
March 25, 1936. In the
morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as
I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His
condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to
me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the
inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you,
you have to speak to the world about His
great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will
come, not as a merciful Savior, but as a just Judge.
Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of
divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great
mercy while it is still the time for
[granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering
for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be
faithful to the end. I sympathize with you.
(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn
635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;
tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò
của Cha.
Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;
sau đó sẽ là ngày của công lý.
Speak to the world
about My mercy;
let all mankind
recognize My unfathomable mercy.
It is a sign for the
end times;
after it will come the
day of justice.
(Chúa
Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau:
trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa
tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua
cửa công lý của Cha...
Write: before I come as a just
Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass
through the door of My mercy must pass through the door of My
justice..."
(Chúa
Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình
thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng
phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy
nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ
buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy
thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -
Today I am sending you with My mercy to
the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I
desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when
they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the
sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.
(Chúa
Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ
Balan sẽ phát ra một tia sáng
(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng
thương xót Chúa;
nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân
ngài,
vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu
thánh mẫu 'totus tuus',
vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor
Hominis',
là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng
là trung tâm vũ trụ và lịch sử',
qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,
vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong
việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,
một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là
tiền hô của qủi vương)
để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của
Cha -
From her will come forth the
spark
that will prepare the world
for My final coming”
(Chúa
Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,
và
tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến
để thiết dựng vương
quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -
We are all living in the Advent
of the last days of history,
and all trying to prepare for
the coming of Christ,
to build the kingdom of God
which he proclaimed”
(ĐTCGPII
tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997,
trang 2).