CHÚA NHẬT 18/5/2008
TIN Tưởng Giáo Hội
Đức Thánh Cha
Biển Đức XVI
"Kinh Mân Côi đang trải qua một Mùa Xuân mới"
Chia Sẻ về Kinh Mân Côi ở Đền Thờ Đức Bà Cả hôm Thứ Bảy Đầu
Tháng 3/5/2008
CẬY Nhờ Thánh Mẫu
Đức Giám Mục
Jean-Michel di Falco ở Giáo Phận Gap
Đức Mẹ Laus
Một Đền
Thánh Mẫu mới ở Pháp Quốc
MẾN Yêu Thánh Thể
Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II
Thông
Điệp Thánh Thể
Mầu Nhiệm Đức Tin
YÊU Thương Tha Nhân
Giáo
Hoàng Biển Đức XVI
‘Di Sản của
Đức Gioan Phaolô II về Hôn Nhân và Gia Đình: yêu thương tình yêu của nhân
loại’.
Huấn Dụ Học Viện
Gioan Phaolô II Đặc Trách Nghiên Cứu Về Hôn Nhân Và Gia Đình
TIN
TƯỞNG GIÁO HỘI
Đức Thánh Cha
Biển Đức XVI
Kinh Nguyện Cầu Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu
cho Ngày Cầu Nguyện 24/5/2008 Cho Giáo Hội Ở Trung Hoa.
Trong Bức Thư gửi cho tín hữu Công Giáo ở Trung Hoa, Đức Thánh Cha Biển Đức
XVI đã bày tỏ niềm hy vọng là ngày 24/5 là ngày phụng vụ cử hành Lễ Đức Bà
Phù Hộ Các Giáo Hữu, Vị được tôn kính thiết tha ở Đền Thánh Mẫu Xinh Xắn (Sheshan)
ở Thượng Hải, sẽ là Ngày Cầu Nguyện Cho Giáo Hội ở Trung Hoa.
(Biệt
chú của người dịch:
Lễ Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu
được Đức Giáo Hoàng Piô VII, vị đã chịu bao nhiêu gian nan khốn khó trong
gian đoạn Napoleon, thành lập ngày 15/9/1815 cho những nơi thuộc lãnh thổ
của Tòa Thánh bấy giờ, sau đó được phổ biến khắp Giáo Hội Latinh, nhưng chưa
bao giờ được chính thức cho vào lịch phụng vụ chung của Giáo Hội, như trường
hợp của một lễ đặc biệt về Mẹ khác là Lễ Đức Mẹ Chuộc Kẻ Tôi vốn có trong
lịch phụng vụ của Giáo Hội trước đây và được kính vào ngày 24/9 hằng năm).
Sau nay là nguyên văn lời nguyện cầu của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI:
Hỡi Đức Trinh Rất Thánh, Mẹ của Lời Nhập Thể và là Mẹ của chúng con,
Vị được tôn kính ở Đền Xinh Xắn này dưới tước hiệu ‘Phù Hộ Các Giáo Hữu’,
toàn thể Giáo Hội ở Trung Hoa thiết tha kính mến ngước trông lên Mẹ.
Chúng con đến trước nhan Mẹ hôm nay nay để nài xin Mẹ chở che hộ phù.
Xin Mẹ hãy nhìn đến Dân Chúa, và bằng tấm lòng chăm sóc từ mẫu, xin Mẹ hãy
dìu dắt họ
trên những đường lối của chân lý và yêu thong, để họ luôn là
chút men cho việc hòa hợp chung sống của tất cả mọi người công dân.
Khi Mẹ vâng lời thưa tiếng ‘Xin Vâng’ ở nhà Nazarét,
Mẹ đã giúp cho Người Con hằng hữu của Thiên Chúa hóa thành nhục thể trong
cung long trinh nguyên của Mẹ,
Nhờ đó công cuộc cứu chuộc chúng con đã được bắt đầu trong giòng lịch sử.
Mẹ đã sẵn sàng và quảng đại cộng tác vào công cuộc này,
Để cho lười gươm noun đau đâm thấu tâm hồn của Mẹ,
Cho đến giờ khắc cùng tận của Thập Giá, khi mà Mẹ trông trực trên Đồi Canvê,
Đứng bên Con Mẹ, Đấng đã chết
đi cho chúng con được sống.
Từ giây phút ấy, Mẹ đã trở nên một cách mới mẻ,
Mẹ của tất cả những ai tin tưởng tiếp nhận Chúa Giêsu Con Mẹ
Và quyết chí theo chân Người bằng việc vác Thập Giá của Người.
Hỡi Mẹ của Niềm Hy Vọng, trong đêm tối của Thứ Bảy Thánh Mẹ đã hành trình
Tiến về rạng đông của Ngày Phục Sinh bằng niềm tin tưởng vững chắc.
Xin ban cho con cái của Mẹ trong mọi lúc biết nhận ra
Cho dù trong những lúc tối tăm nhất những dấu hiệu cho thấy việc hiện diện
yêu thương của Thiên Chúa.
Hỡi Đức Mẹ Xinh Xắn, xin hãy nâng đỡ tất cả những ai ở Trung Hoa,
Những người mà giữa những lê lết hằng ngày của mình, được tiếp tục tin tưởng,
hy vọng và mến yêu.
Chớ gì họ không bao giờ sợ nói về Chúa Giêsu cho thế giới này
Và nói với Chúa Giêsu về thế giới nay.
Nơi pho tượng nhìn xuống Đền Thánh này Mẹ nâng Con Mẹ lên cao,
Cống hiến Người cho thế giới bằng đôi cánh tay rộng mở như moat cử chỉ yêu
thong.
Xin Mẹ hãy phù hộ các người Công Giáo được luôn là những chứng nhân khả tín
cho tình yêu thương ấy,
Liên lỉ gắn bó với tảng đá Phêrô là nền móng của Giáo Hội.
Lạy Mẹ của Trung Hoa và toàn thể Á Châu, xin cầu cho chúng con, khi nay và
muôn đời. Amen!
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo VIS ngày 16/5/2008
TOP
CẬY NHỜ THÁNH MẪU
Đức Giám Mục
Jean-Michel di Falco ở Giáo Phận Gap
Đức Mẹ Laus
Một Đền
Thánh Mẫu mới ở Pháp Quốc
Trong năm
mừng kỷ niệm Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức 150 năm (1858-2008), Giáo Hội vừa
chính thức công nhận một nơi hành hương mới nữa cũng ở Pháp quốc.
Vào hôm
4/5/2008, Đức Giám Mục Jean-Michel di Falco ở Giáo Phận Gap, đã chính
thức công nhận những lần hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria với Benoite
Rencurel ở đền thánh Laus trong miền
Hautes-Alpes Pháp quốc.
Việc loan
báo này được thực hiện trong một Thánh Lễ ở Đền Thờ Đức Bà ở Laus. Trong
số thành phần hiện diện có vị sứ thần tòa thánh ở Pháp là Đức Giám Mục
Fortunato Baldelli cùng với 30 vị hồng y và giám mục khắp thế giới.
Rencurel,
một nữ chăn chiên nghèo, vào đời năm 1647. Trinh Nữ Maria đã bắt đầu
hiện ra với cô thiếu nữ 17 tuổi này vào năm 1664 và tiếp tục viếng thăm
cô suốt cuộc đời còn lại của cô, cho đến khi cô qua đời vào năm 1718,
hưởng thọ 71 tuổi.
Trong
những lần hiện ra, Đức Mẹ đã xin x6ay dựng một ngôi thánh đường và một
căn nhà cho các vị linh mục, với mục đích lôi kéo dân chúng trở lại
nhiều hơn nhất là bằng bí tích thống hối. Địa điểm này hiện nay lôi kéo
được khoảng 120 ngàn người mỗi năm. Nhiều cuộc chữa lành đã xẩy ra ở địa
điểm này, nhất là khi dầu từ một c ây đèn được xoa vào các vết thương,
theo lời hướng dẫn của Đức Mẹ cho Rencural.
Trong bài
giảng của mình trong Thánh Lễ được truyền hình khắp Pháp quốc bởi 2 đài,
Đức Giám Mục di Falco đã nói: ‘344 năm trước đây, Đức Mẹ đã muốn ngỏ lời
cùng một nữ mục đồng quê mùa để mở đường cho việc ăn năn thống hối và
hoán cải, để mời gọi những người hành hương hãy hòa giải bản thân mình
với thế giới cũng như với Thiên Chúa’.
Vị Giám
Mục sở tại này đã giải thích rằng sau khi đã tái điều tra những cuộc
hiện ra, ngài ‘đã sâu xa xác tín rằng Benoite Rencurel đã nói sự thật.
Sứ điệp được cô chuyển đạt cho chúng ta xứng đáng được tất cả mọi người
chú trọng. Nó đáng chúng ta mở lòng mình ra đón nhận và tiếp tục mang
lại nhiều hoa trái như vốn xẩy ra qua nhiều thế kỷ nay. Benoite, một
người con gái quê mùa thất học, đã lãnh nhận sứ vụ của mình từ Đức Mẹ:
Qua 54 năm, chị đã dẫn dắt những người hành hương, và kêu gọi ăn năn
hoán cải và lòng xót thương. Thiên Chúa tỏ mình ta cho thành phần nghèo
hèn và thành phần nhỏ bé. Và sứ giả của Thiên Chúa là Benoite, một nữ
giáo dân. Làm sao chúng ta không nhìn thấy nơi cô một tấm gương sáng cho
thành phần giáo dân hữu trách chứ? Người nữ mục đồng khiêm hèn này là
một mẫu gương tân thời của thành phần giáo dân tham gia vào sinh hoạt
cộng đồng của mình, như được Công Đồng Chung Vaticanô II kêu gọi. Cô
đang nói với con người của thời đại chúng ta, cô đang dẫn dắt những ai
tìm kiếm, những ai đi sâu vào mạch nguồn nội tâm của sự sống đích thực’.
Cuối cùng,
vị Giám Mục đã kết luận là sứ điệp rất tân thời của Benoite đó là ‘sống
tâm tình với Thiên Chúa trong nguyện cầu, đi sâu vào việc hoán cải để
hòa giải với chính bản thân mình, với người khác và với Thiên Chúa, cũng
như sống sứ vụ của anh chị em là những gì làm cho đời sống hằng ngày của
anh chị em là cộng đồng và niềm vui’.
Cha
Salvatore Perrella thuộc Phân Khoa Viện Giáo Hoàng Thần Học Thánh Mẫu,
đã dẫn giải trong tờ L’Osservatore Romano cách thức Giáo Hội quyết định
tính cách hợp lệ của các cuộc được cho là hiện ra, bao gồm cả vị giám
mục địa phương, hội đồng giám mục và Đức Giáo Hoàng.
Thánh Bộ
Tín Lý Đức Tin đã ấn định là để tiến hành việc kiểm chứng một biến cố
được cho là hiện ra thì cần phải: 1) thu thập những tường trình, bao gồm
những tín liệu liên quan tới những sự kiện quan sát; 2) khảo sát sứ điệp
với một nội dung không ngược lại với đức tin Kitô Giáo; 3) khám nghiệm
về tâm lý và y khoa để bảo đảm tính chất lành mạnh của thành phần thụ
khải cũng như để loại trừ những gì có thể là ảo tưởng ảo giác; 4) xem
thành phần thụ khải có hiệp thông với Giáo Hội hay chăng; 5) để ý đến
những hoa trái thiêng liêng như việc trở lại với đức tin của những ai đã
bỏ đức tin, đến tính chất luân lý và bản chất giáo hội của sứ điệp cũng
như tính cách hợp tác của sứ điệp này trong việc truyền bá phúc âm hóa
trên thế giới; 6) xem xét các việc chữa lành lạ lùng có thể đã xẩy ra.
Vị linh
mục này cho biết là sau khi khảo sát kỹ lưỡng những sự kiện chung quanh
các biến cố được cho là hiện ra, Giáo Hội ‘đã chấp nhận trong giòng lịch
sử 11 cuộc hiện ra trong số 229 vụ được cứu xét, trong đó, cuộc hiện ra
được chấp thuận thứ 12 là Đức Mẹ Laus’.
Vị linh
mục này còn giải thích thêm rằng một khi đã được thẩm quyền Giáo Hội
kiểm chứng và xác nhận, thì những cuộc hiện ra ấy được coi là đáng tin
tưởng, thế nhưng tín hữu vẫn được tự do tin tưởng, ‘vì đức tin chỉ cần
cho mạc khải chung của Thiên Chúa là mạc khải được kết thúc nơi việc các
vị Tông Đồ qua đời’. Vị linh mục này còn nhấn mạnh rằng mặc dù các cuộc
hiện ra ấy là tặng ân ‘nhưng không từ trời’, có thể giúp gia tăng đức
tin nơi tín hữu, song chúng ‘không thêm gì vào Mạc Khải trong Thánh Kinh
được ủy thác cho Giáo Hội, mà chỉ giúp làm cho mạc lkhải hiện tại hóa
vào một thời điểm nhất định nào đó’.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh,
BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 15/5/2008
TOP
MẾN YÊU THÁNH THỂ
Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II
Thông Điệp Thánh Thể của ĐTC Gioan Phaolô
II
Mầu Nhiệm Đức Tin
11. “Chúa Giêsu vào
đêm Người bị phản nộp” (1Cor 11:23) đã thiết lập Hy Tế Thánh Thể mình
máu của Người. Nhũng lời của Thánh Tông Đồ Phaolô mang chúng ta trở về
với thảm cảnh hạ sinh Thánh Thể. Thánh Thể được đánh dấu bất khả phai mờ
bằng biến cố khổ nạn và tử nạn của Chúa Kitô, nhờ đó Thánh Thể chẳng
những là một sự nhắc nhở mà còn là một tái hiện thực về bí tích nữa.
Chính hy tế Thập Giá đã được kéo dài qua các thế kỷ (9). Chân lý này
được diễn tả rõ ràng nơi những lời cộng đồng theo lễ nghi Latinh đáp lời
công bố “Mầu Nhiệm Đức Tin” của vị linh mục, đó là “Ôi Chúa, chúng tôi
loan truyền việc Chúa chịu chết”.
Giáo Hội đã lãnh nhận Bí
Tích Thánh Thể từ Đức Kitô là Chúa của mình, không phải như là một tặng
ân duy nhất, cho dù quí báu đến đâu chăng nữa, trong số nhiều tặng ân
khác, mà là một tặng ân tuyệt hạng, vì đó là tặng ân chính bản thân
Người, tằng ân ngôi vị của Người nơi nhân tính linh thánh của Người,
cũng như tặng ân công cuộc cứu độ của Người. Tặng ân này cũng không chỉ
giới hạn trong quá khứ, vì “tất cả những gì Chúa Kitô là – tất cả những
gì Chúa Kitô làm và chịu vì toàn thể con người – đều tham dự vào sự vĩnh
hằng thần linh, do đó siêu việt qua tất cả mọi thời đại” (10)
Khi Giáo Hội cử hành Thánh
Thể, cuộc tưởng niệm việc Chúa chịu chết và sống lại, thì biến cố cứu độ
trọng yếu này trở nên hiện tại thực sự và “công cuộc cứu chuộc của chúng
ta được thể hiện” (11). Hy tế này quyết liệt cho phần rỗi loài người đến
nỗi Chúa Giêsu Kitô đã hiến dâng hy tế này và về cùng Cha chỉ sau khi
Người đã để lại cho chúng ta phương tiện để chia sẻ vào hy tế ấy như thể
chúng ta đã hiện diện ở đó bấy giờ. Mỗi một phần tử tín hữu đều có thể
tham dự vào hy tế này và hái được vô tận hoa trái của hy tế ấy. Đó là
niềm tin đã làm cho các thế hệ Kitô hữu sống động qua các thế hệ. Huấn
Quyền của Giáo Hội đã liên lỉ tái xác định niềm tin này với một tấm lòng
hân hoan tri ân về tặng ân vô giá này (12). Một lần nữa Tôi muốn nhắc
lại sự thật ấy và muốn hợp với anh chị em, hỡi anh chị em thân mến, để
tôn thờ trước mầu nhiệm này, một mầu nhiệm cao cả, một mầu nhiệm tình
thương. Chúa Giêsu còn có thể làm gì cho chúng ta hơn được nữa đây? Thật
vậy, nơi Thánh Thể, Người tỏ cho chúng ta thấy một tình yêu “đến cùng”
(x Jn 13:1), một tình yêu vô hạn.
12. Khía cạnh bác ái
đại đồng này của Hiến Tế Thánh Thể được chính Đấng Cứu Thế cống bố.
Trong việc thiết lập Hiến Tế Thánh Thể này, Người không chỉ nói: “Này là
mình Thày”, “Này là máu Thày”, mà còn thêm: “hiến cho các con”, “đổ ra
cho các con” (Lk 22:19-20). Chúa Giêsu không chỉ nói rằng những gì Người
bấy giờ đang ban cho họ để ăn và uống là mình Người và máu Người; Người
còn cho thấy ý nghĩa hy sinh của Hiến Tế Thánh Thể và làm cho hiến tế
của Người hiện diện một cách bí tích, một hiến tế sắp được hiến dâng
trên Thập Giá cho phần rỗi của tất cả mọi người. “Thánh Lễ đồng thời
không thể tách biệt với việc tưởng niệm hiến tế, một hiến tế Thập Giá
được kéo dài và là một bữa tiệc thánh hiệp thông với mình máu Chúa Kitô”
(13).
Giáo Hội liên lỉ kín múc sự
sống của mình từ hiến tế cứu chuộc này; Giáo Hội tiến đến với hiến tế
này chẳng những bằng việc tưởng nhớ đầy tin tưởng, mà còn bằng một giao
tiếp thực sự nữa, vì hiến tế này hiện thực một cách hoàn toàn mới mẻ,
được kéo dài một cách bí tích, nơi mọi cộng đồng hiến dâng hy tế ấy nơi
bàn tay của vị thừa tác viên thánh chức. Như thế, Thánh Thể được áp dụng
cho con người nam nữ ngày nay mối hòa giải Chúa Kitô đã chiếm được một
lần dứt khoát cho nhân loại ở mọi thời đại. “Hiến tế của Chúa Kitô và
hiến tế Thánh Thể là một hiến tế duy nhất” (14). Thánh Gioan Chrystostom
đã nói đúng: “Chúng ta bao giờ cũng hiến dâng cùng một Con Chiên, chứ
không phải một con hôm nay và con khác ngày mai, nhưng lúc nào cũng chỉ
có một con giống nhau. Bởi thế hiến tế này bao giờ cũng là một hiến tế
duy nhất… Ngay cả hiện nay chúng ta hiến dâng tế vật đã một lần được
dâng hiến và sẽ không bao giờ bị tiêu hao đi” (15).
Thánh Lễ làm cho hiến tế
Thập Giá hiện thực; Thánh Lễ không thêm vào hiến tế ấy cũng như không
tăng thêm cho hiến tế ấy (16). Những gì được lập lại là việc cử hành
tưởng niệm của hiến tế ấy, “việc tưởng nhớ tái hiện thực” của hiến tế
này (memorialis demonstratio) (17), việc làm cho hiến tế cứu chuộc tối
hậu duy nhất của Chúa Kitô lúc nào cũng hiện thực qua thời gian. Bản
chất hiến tế của mầu nhiệm Thánh Thể, bởi thế, không được hiểu như là
một điều gì tách biệt, không dính dáng gì với Thập Giá hay chỉ gián tiếp
liên quan đến hiến tế Canvê.
(Đaminh Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL, dịch từ http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/encyclicals/documents/hf_jp-ii_enc_17042003_ecclesia-de-eucharistia_en.html)
TOP
YÊU THƯƠNG THA NHÂN
Giáo
Hoàng Biển Đức XVI
‘Di Sản của
Đức Gioan Phaolô II về Hôn Nhân và Gia Đình: yêu thương tình yêu của nhân
loại’.
Huấn Dụ Học Viện Gioan Phaolô II Đặc Trách Nghiên Cứu Về Hôn Nhân Và Gia
Đình
Trong cuộc gặp
gỡ thành phần triều kiến bao gồm giáo sư, sinh viên và ra trường của
Học Viện Gioan Phaolô II Đặc Trách Nghiên Cứu Về Hôn Nhân Và Gia Đình, Giáo
Hoàng Biển Đức XVI đã nhắc lại một trong những ấp ủ của vị Giáo Hoàng tiền
nhiệm rất yêu quí của ngài, một giấc mơ đã thành sự thật.
Vì học viện
này, với trụ sở chính ở Rôma, tại Đại Học Lateranô, đã lan khắp năm
châu, như ở Âu Châu ngoài Rôma còn có Gaming, Áo Quốc và Valencia, Tây Ban
Nha; ở Mỹ Châu có Washington DC, Hoa Kỳ, có Mexico City và Guadalajara, Mễ
Tây Cơ, và có Salvador da Bahia, Ba Tây; ở Đại Dương Châu có Melbourne, Úc
Đại Lợi; ở Phi Châu có Cotonou, Benin; và ở Á Châu có Changanacherry, Ấn Độ.
Vị tân chủ
tịch của học viện này là Đức Ông Livio Melina, một giáo sư về luân lý thần
học. Ngài là sinh viên tiến sĩ đầu tiên trình luận án của mình ở học viện
này trước sự hiện diện của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger bấy giờ là Tổng
Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin.
Sau đây là
nguyên văn bài huấn từ của ngài.
Trọng kính Quí
Hồng Y,
Quí Huynh Khả
Kính trong hàng Giáo Phẩm và Linh Mục,
Anh Chị Em
thân mến:
Thật là một
niềm vui lớn lao tôi được gặp gỡ anh chị em nhân dịp mừng kỷ niệm 25 năm
thành lập Học Viện Gioan Phaolô II của Tòa Thánh Đặc Trách Nhiên Cứu Về Hôn
Nhân Và Gia Đình, ở Đại Học Tòa Thánh Latêranô. Tôi xin chào tất cả mọi anh
chị em với lòng cảm mến và tôi thành thật cám ơn Đức ông Livio Melina về
những lời lẽ nồng hậu ngài thay cho anh chị em ngỏ cùng tôi.
Thuở ban đầu
của học việc của anh chị em đây gắn liền với một biến cố rất đặc biệt: đó là
chính vào ngày 13/5/1981, tại Quảng Trường Thánh Phêrô, vị tiền nhiệm yêu
dấu của tôi là Đức Gioan Phaolô II, đã trải qua một cuộc ám sát nghiêm trọng
nổi tiếng trong buổi triều kiến được ngài dùng để loan báo về việc thiết lập
học viện của anh chị em. Biến cố này có một tầm vóc đặc biệt quan trọng nơi
việc tưởng niệm hiện nay đây, một việc tưởng niệm chúng ta cử hành ngay sau
khi chúng ta cử hành kỷ niệm cái chết của ngài. Anh chị em muốn đề cao nó
bằng sáng kiến thích hợp liên quan tới một hộïi nghị bàn về đề tài: ‘Di Sản
của Đức Gioan Phaolô II về Hôn Nhân và Gia Đình: yêu thương tình yêu của
nhân loại’.
Anh chị em có
lý để cảm thấy được cái di sản này một cách hoàn toàn đặc biệt, vì anh chị
em là thành phần thụ nhận và là những người tiếp tục cái nhãn quan đã từng
là một trong những noon bay cho sứ vụ và suy tưởng của ngài: dự án của Thiên
Chúa về hôn nhân và gia đình. Di sản này không phải chỉ là tổng hợp những
tín lý và ý nghĩ, mà trên hết là một giáo huấn khôn ngoan liên quan tới một
mối hiệp nhất sáng ngời về ý nghĩa của tình yêu sự sống nơi con người. Sự
hiện diện của nhiều gia đình trong buổi triều kiến này là một chứng cớ hùng
hồn cho thấy giáo huấn về sự thật ấy đã được đón nhận và sinh hoa trái ra
sao.
Ý nghĩ ‘giảng
dạy yêu thương’ đã có ở nơi vị linh mục trẻ Karol Wojtyla và sau đó đã thúc
đẩy vị giám mục trẻ là ngài khi ngài đối diện với những giây phút khó khăn
xẩy ra sau khi vị tiền nhiệm của tôi là Đức Phaolô VI ban hành bức thông
điệp ‘Sự Sống Con Người’ có tính cách tiên liệu và luôn hợp thời. Chính
trong hoàn cảnh đó mà ngài đã hiểu được nhu cầu cần phải thực hiện một cuộc
nghiên cứu học hỏi có hệ thống và phương pháp về đề tài này.
Điều này đã
tạo nên cơ sở cho giáo huấn sau đó được ngài cống hiến cho toàn thể Giáo Hội
trong loạt bài ‘Giáo Lý về Tình Yêu Con Người’. Ngài đã lợi dụng để nhấn
mạnh đến hai yếu tố nồng cốt được anh chị em đã nỗ lực suy tư một cách sâu
xa hơn trong những năm này và là những yếu tố định hình cho cái rất mới mẻ
nơi học viện của anh chị em như là một thực tại về hàn lâm mang một sứ vụ
đặc biệt trong Giáo Hội vậy.
Yếu tố thứ
nhất đó là hôn nhân và gia đình được bắt nguồn từ cốt lỡi sâu xa nhất nơi sự
thật về con người và định mệnh của họ. Thánh Kinh đã mạc khải rằng ơn gọi
yêu thương là những gì thuộc về hình ảnh đích thực của Thiên Chúa được Đấng
Hóa Công muốn in ấn nơi tạo vật của Ngài, khi kêu gọi con người hãy trở nên
giống như Ngài chính ở cách thức con người hướng về yêu thương. Sự khác nhau
về phái tính ở nơi thân thể của người nam và người nữ, bởi thế, không phải
là một sự kiện thuần sinh lý, mà có một ý nghĩa sâu xa hơn thế nhiều, ở chỗ
nó cho thấy rằng nhờ yêu thương như vậy con người nam nữ trở nên một xác
thịt duy nhất; họ có thể hiện thực mối hiệp thông chân thực giữa con người
hướng về việc truyền đạt sự sống và nhờ đó cộng tác với Thiên Chúa trong
việc sinh sản những con người mới.
Yếu tố thứ hai
làm nên đặc tính mới mẻ nơi giáo huấn của Đức Gioan Phaolô II về tình yêu
con người đó là cách thức độc đáo được ngài sử dụng để dẫn giải dự án của
Thiên Chúa qua việc qui hợp mạc khải của Thiên Chúa với kinh nghiệm của con
người. Thật thế, nơi Chúa Kitô là tất cả mạc khải của tình yêu Chúa Cha,
cũng đã bộc lộ tất cả sự thật về ơn gọi yêu thương của con người, một ơn gọi
chỉ có thể hoàn toàn nơi việc trao ban bản thân mình.
Trong thông
điệp mới đây của mình, tôi đã muốn nhấn mạnh đến cách thức làm thế nào thực
sự nhờ yêu thương mà ‘hình ảnh của Thiên Chúa nơi Kitô hữu cùng với hình ảnh
của nhân loại bởi đó cùng với định mệnh của nó’ được thể hiện (‘Thiên Chúa
Là Tình Yêu’, đoạn 1). Tức là, Ngài đã sử dụng đường lối yêu thương để mạc
khải mầu nhiệm sự sống Ba Ngôi của mình.
Ngoài ra, mối
liên hệ sâu xa giữa hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu và tình yêu nhân loại làm
cho chúng ta có thể hiểu được rằng ‘hôn nhân một vợ một chồng tương xứng với
hình ảnh của vị Thiên Chúa độc thần. Hôn nhân được đặt trên một tình yêu
chuyên nhất và tận tuyệt trở thành hình ảnh cho mối liên hệ giữa Thiên Chúa
với Dân của Ngài và ngược lại, đường lối yêu thương của Thiên Chúa trở thành
chuẩn mực cho tình yêu thương của nhân loại’ (ibid. 11). Nhận định này vẫn
còn là một lãnh vực rộng lớn cần phải được khai phá thêm.
Như thế, công
việc được tóm lại như sau: Học Viện Đặc Trách Nghiên Cứu Về Hôn Nhân Và Gia
Đình, qua tất cả cấu trúc hàn lâm của mình, cần phải làm sáng tỏ sự thật về
sự sống như một cách thức làm phong phú tất cả mọi hình thức hiện hữu của
con người. Cái thách đố lớn lao của việc Tân Truyền Bá Phúc Âm Hóa được Đức
Gioan Phaolô II đầy tâm huyết phác họa, cần phải được hỗ trợ bởi một ý thức
sâu xa đíùch thực về tình yêu con người, vì tình yêu này là một đường lối
đặc biệt được Thiên Chúa dùng để tỏ mình ra cho thế giới, và qua tình yêu
thương này Ngài kêu gọi thế giới đến với mối hiệp thông sự sống của Thiên
Chúa Ba Ngôi.
Đường lối ấy
cũng giúp cho chúng ta có thể thắng vượt quan niệm thu hẹp vào một thứ tình
yêu thường thuần riêng tư là một thứ yêu thương rất ư là thịnh hành phổ
thông ngày nay. Tình yêu thương chân thực là những gì được biến đổi thành
một thứ ánh sáng hướng dẫn cả cuộc sống tiến đến chỗ phong phú, phát sinh
một xã hội được nhân bản hóa cho con người. Mối hiệp thông sự sống và yêu
thương là hôn nhân, nhờ đó, trở thành một sự thiện đích thực cho xã hội.
Việc tránh lánh sự lẫn lộn với các kiểu hiệp nhất khác xuất phát từ thứ yêu
thương yếu hèn là một điều đặc biệt khẩn trương ngày nay. Chỉ có tảng đá yêu
thương trọn vẹn và bất khả hủy bỏ giữa người nam và người nữ mới có thể làm
nền tảng cho một xã hội trở thành nhà cho tất cả mọi dân tộc.
Tầm quan trọng
mà công cuộc của học viện này có được trong sứ vụ của Giáo Hội cho thấy cái
hình dạng của nó: Thật vậy, Đức Gioan Phaolô II đã phê chuẩn một tổ chức duy
nhất có những chi nhánh khác nhau trải khắp năm châu, để tổ chức này có thể
chia sẻ cái phong phú của sự thật duy nhất nơi tính cách đa dạng của các nền
văn hóa.
Mối hiệp nhất
về nhãn quan nơi việc nghiên cứu và giáo huấn, mặc dù có tính cách đa dạng
về nơi chốn và cảm thức, tiêu biểu cho một thứ giá trị anh chị em cần phải
canh giữ, bằng việc phát triển những kho tàng được chôn giấu nơi mọi nền văn
hóa. Đặc tính ấy của tổ chức này đã tự chứng tỏ cho thấy là đặc biệt thích
hợp với việc học hỏi về một thực tại như hôn nhân và gia đình. Công cuộc của
anh chị em là những gì có thể tỏ cho thấy làm thế nào để tặng ân thiên nhiên
được thể hiện ở các nền văn hóa khác nhau này đã được ơn cứu chuộc của Chúa
Giêsu thăng hóa.
Để có thể thi
hành sứ vụ của anh chị em một cách tốt đẹp như thành phần trung thành thừa
hưởng của vị sáng lập học viện này, Đức Gioan Phaolô II của chúng ta, tôi
mời anh chị em hãy chiêm ngưỡng Mẹ Maria Rất Thánh là Mẹ của Tình Yêu Tuyệt
Mỹ. Tình yêu cứu chuộc của Lời nhập thể, đối với mỗi một cuộc hôn nhân và
mỗi gia đình, cần phải trở thành ‘những nguồn nước sự sống giữa một thế giới
khát khao’ (Deus Caritas Est, 42). Tôi xin gửi đến những lời chúc tốt đẹp
nhất, kèm theo một phép lành đặc biệt đến tất cả anh chị em, đến quí vị giáo
sư thân mến, đến các sinh viên hôm qua và hôm nay, đến toàn thể nhân viên
của học viện, cũng như đến các gia đình thuộc học viện của anh chị em.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
11/5/2006
TOP
GIÁO HỘI
HIỆN THẾ
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã
đến với chúng ta lần thứ nhất
thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với
chúng ta lần thứ hai,
cho dù không cùng một kiểu cách
-
Being the way by which Jesus
came to us the first time,
she will also be the way by
which He will come the second time,
though not in the same manner”
(Thánh
Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một
cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.
Hắn thấy rằng thời gian của mình không
còn dài,
nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu
có thể...
the devil is carrying on a
decisive battle with the Virgin Mary,
He sees that his time is
getting short,
and he is making every
effort to gain as many souls as possible..."
(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày
26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,
The Secret of Fatima - Fact and Legend, The
Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn
trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những
thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình
không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy
hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích
của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những
cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi
tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn
những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has
little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day. He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".
(Thánh
Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
“Trước
khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc
thử thách sau cùng, một cuộc thử thách
sẽ làm lay chuyển đức tin của
nhiều tín hữu (x Lk
18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành
của Giáo Hội trên mặt
đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy
‘mầu nhiệm của gian
tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó
cống hiến con người
một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ
với giá họ phải trả
là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng
hạng là cái lừa bịp
Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con
người tôn vinh mình
hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến
trong xác thịt của
Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý
Giáo Hội Công Giáo số 675)
"Before Christ's second coming the Church must pass
through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil
the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men
an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the
truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism
by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in
the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng,
trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên
Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc
Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên
Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác
động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế
cho nhân loại; còn phần con,
con phải nói cho thế giới về tình thương cao
cả của Người và sửa soạn
thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế
nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh.
Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày
giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho
các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát
tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều
linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy.
Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”
March 25, 1936. In the
morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as
I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His
condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to
me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the
inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you,
you have to speak to the world about His
great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will
come, not as a merciful Savior, but as a just Judge.
Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of
divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great
mercy while it is still the time for
[granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering
for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be
faithful to the end. I sympathize with you.
(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn
635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;
tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò
của Cha.
Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;
sau đó sẽ là ngày của công lý.
Speak to the world
about My mercy;
let all mankind
recognize My unfathomable mercy.
It is a sign for the
end times;
after it will come the
day of justice.
(Chúa
Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau:
trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa
tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua
cửa công lý của Cha...
Write: before I come as a just
Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass
through the door of My mercy must pass through the door of My
justice..."
(Chúa
Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình
thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng
phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy
nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ
buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy
thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -
Today I am sending you with My mercy to
the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I
desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when
they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the
sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.
(Chúa
Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ
Balan sẽ phát ra một tia sáng
(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng
thương xót Chúa;
nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân
ngài,
vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu
thánh mẫu 'totus tuus',
vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor
Hominis',
là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng
là trung tâm vũ trụ và lịch sử',
qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,
vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong
việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,
một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là
tiền hô của qủi vương)
để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của
Cha -
From her will come forth the
spark
that will prepare the world
for My final coming”
(Chúa
Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,
và
tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến
để thiết dựng vương
quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -
We are all living in the Advent
of the last days of history,
and all trying to prepare for
the coming of Christ,
to build the kingdom of God
which he proclaimed”
(ĐTCGPII
tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997,
trang 2).
|
|