Hình Ảnh Thánh Kinh về Việc Tôn Sùng này: Bà Rebecca và Giacóp (184)
Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria
THỨ HAI 19/5/2008
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI “Bản Chất và Căn Tính của Nền Giáo Dục Công Giáo Ngày Nay” Huấn dụ Thành Phần Giảng Dạy ở Các Học Đường Công Giáo Các Cấp Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort) Hình Ảnh Thánh Kinh về Việc Tôn Sùng này: Bà Rebecca và Giacóp (184) Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II Thông Điệp Thánh Thể Mầu Nhiệm Đức Tin (13-15) Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập Pháp ở Châu Âu "Nhân quyền và các quyền lợi của gia đình" (1.1-1.4) Những Nhận Ðịnh của Cuộc Họp Quốc Tế Lần Thứ Hai
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
“Bản Chất và Căn Tính của Nền Giáo Dục Công Giáo Ngày Nay” Huấn dụ Thành Phần Giảng Dạy ở Các Học Đường Công Giáo Các Cấp tại Sảnh Đường Đại Học Công Giáo Hoa Kỳ ở Hoa Thịnh Đốn Thứ Năm 17/4/2008
Qúi Hồng Y, Quí Chư Huynh Giám Mục, Cùng Tôn Vị Giáo Sư, Giáo Viên và Các Nhà Giáo Dục.
‘Đẹp thay bước chân của những ai mang tin mừng’ (Rm 10:15-17). Với những lời này của Tiên Tri được Thánh Phaolô trích dẫn, tôi gửi lời chào thân ái tới từng người trong anh chị em – những con người mang đức khôn ngoan – và qua anh chị em tới tất cả mọi nhân viên, sinh viên và gia đình của nhiều tổ chức học thức khác nhau được anh chị em đại diện. Tôi rất hân hạnh được gặp gỡ anh chị em và chia sẻ với anh chị em một vài ý tưởng về bản chất và căn tính của vấn đề giáo dục Công Giáo ngày nay. Tôi đặc biệt cám ơn Cha David O’Connell, Chủ Tịch và là Viện Trưởng Đại Học Công Giáo Hoa Kỳ. Tôi xin cám ơn những lời lẽ tốt lành mà Cha đã ngỏ lời nghênh đón tôi. Xin chuyển niềm tri ân chân thành của tôi tới toàn thể cộng đồng – giáo chức, nhân viên và sinh viên – của Đại Học này.
Giáo dục là những gì thuộc về sứ vụ loan truyền Tin Mừng của Giáo Hội. Trước hết và trên hết, hết mọi cơ cấu giáo dục Công Giáo là nơi để gặp gỡ Vị Thiên Chúa hằng sống là Đấng nơi Chúa Giêsu Kitô đang mạc khải tình yêu và sự thật biến đổi của Ngài ra (x. Spe Salvi, 4). Mối liên hệ này đưa đến một ước vọng muốn hiểu biết hơn về Chúa Kitô cùng với giáo huấn của Người. Nhờ thế, những ai gặp Người mới được chính quyền lực Phúc Âm giúp để sống một đời sống mới với đầy những gì là mỹ miều, thiện hảo và chân thực; một đời sống chứng nhân Kitô Giáo được nuôi dưỡng và kiên cường trong cộng đồng môn đệ Chúa là Giáo Hội.
Tính cách năng động giữa việc gặp gỡ riêng tư, với kiến thức và chứng từ Kitô Giáo là những gì thuộc về việc phục vụ sự thật được Giáo Hội thực hiện giữa loài người. Việc Thiên Chúa mạc khải cống hiến cho hết mọi thế hệ cơ hội để khám phá ra sự thật tối hậu về sự sống của mình và đích điểm của lịch sử. Công việc này không dễ dàng gì; nó bao gồm toàn thể cộng đồng Kitô hữu và tác động một thế hệ của thành phần giáo dục viên Kitô giáo trong việc bảo đảm rằng quyền lực nơi sự thật của Thiên Chúa thấm nhập vào hết mọi chiều kích của những cơ cấu họ phục vụ. Có thế, Tin Mừng của Chúa Kitô mới có tác dụng, hướng dẫn cả giáo sư lẫn học trò hướng về một sự thật khách quan mà, trong việc vượt lên trên những gì là riêng biệt và những gì là chủ quan, hướng tới cái phổ quát và tuyệt đối khiến chúng ta có thể tin tưởng loan truyền niềm hy vọng không làm thất vọng (x Rm 5:5). Được phác họa cho những cuộc đối thoại riêng tư, cho tình trạng lẫn lộn về luân lý cũng như cho sự phân mảnh của kiến thức, những mục đích cao quí của học thức và giáo dục, được xây dựng trên mối hiệp nhất của sự thật và trong việc phục vụ con người cùng cộng đồng, trở thành phương tiện đặc biệt mãnh liệt của niềm hy vọng. Một số người ngày nay đặt vấn đề về việc Giáo Hội dấn thân cho nền giáo dục, tự nghĩ là không biết những đường lối của Giáo Hội có tốt đẹp hơn ở các nơi khác hay chăng. Chắc chắn là ở một quốc gia như quốc gia này đây thì Quốc Gia cung cấp những nhiều cơ hội giáo dục và thu hút được những con người nam nữ quảng đại dấn thân cho cái nghề giáo dục đang trọng kính này. Bởi vậy mà thật là đúng lúc để suy nghĩ về những gì chuyên biệt đối với các cơ cấu Công Giáo của chúng ta. Chúng đóng góp ra sao cho thiện ích của xã hội qua sứ vụ truyền bá phúc âm hóa chính yếu của Giáo Hội. Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh (những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng) http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2008/april/documents/hf_ben-xvi_spe_20080417_cath-univ-washington_en.html
Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)
Hình Ảnh Thánh Kinh về Việc Tôn Sùng này: Bà Rebecca và Giacóp
Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria
183. Thánh Linh cống hiến cho chúng ta ở trong Thánh Kinh một hình ảnh bóng bẩy đáng chú ý về tất cả sự thật tôi vẫn cố gắng giải thích liên quan tới Đức Trinh Nữ và con cái lẫn đầy tớ của Mẹ. Đó là câu truyện về Giacóp là người đã nhận được phúc lành của người cha Isaac của mình nhờ sự chăm sóc và tài khéo của mẹ mình.
Đây là câu truyện được Thánh Linh kể ra. Tôi sẽ dẫn giải câu truyện này nhiều hơn sau đó.
Nội Dung Câu Truyện về Giacóp
184. Mấy năm sau khi Esau bán quyền thừa kế của mình cho Giacóp, bà Rebecca, mẹ của họ, người âu yếm thương yêu Giacóp, đã chiếm được phúc lành này cho Giacóp bằng một mưu kế thánh hảo đầy huyền nhiệm đối với chúng ta.
Khi thấy mình đã cao tuổi, Isaac muốn chúc phúc cho con cái mình trước khi chết. Ông đã gọi Esau tới, người con yêu quí của ông mà bảo Esau đi săn bắt một cái gì đó về cho ông ăn, rồi ông sẽ chúc phúc cho. Rebecca lập tức bảo Giacóp những gì đang diễn tiến và sai Giacóp đi bắt hai con dê nhỏ trong đàn. Khi Giacóp đưa chúng cho mẹ mình, bà đã nấu chúng theo cách thức Isaac vẫn thích ăn. Rồi bà mặc cho Giacóp những quần áo của Esau mà bà có được, và lấy da dê bao phủ hai bàn tay và cổ của Giacóp. Người cha mù lòa mặc dù nghe thấy tiếng Giacóp cứ nghĩ rằng đó là Esau khi ông chạm tới da bàn tay của Giacóp.
Dĩ nhiên Isaac đã lấy làm lạ khi nghe thấy tiếng nói mà ông nghĩ là tiếng của Giacóp nên mới bảo Giacóp tới gần ông. Isaac sờ thấy lông lá trên làn da bao bọc đôi tay của Giacóp và nói rằng tiếng nói thì quả thực là tiếng của Giacóp nhưng bàn tay lại là bàn tay của Esau. Sau khi ông ăn uống xong, Isaac đã hôn Giacóp và gửi thấy mùi thơm nơi y phục của Giacóp. Ông đã chúc phúc cho Giacóp và xin tuôn đổ xuống trên Giacóp sương trời và hoa trái của trái đất. Ông đã đặt Giacóp làm chủ tất cả mọi anh em mình và kết thúc bằng những lời này: ‘Vô phúc cho những ai nguyền rủa con và may phúc cho những ai chúc tụng con’.
Isaac vừa nói xong thì Esau bước vào, mang theo những gì hắn đã bắt được khi đi săn. Hắn muốn cha hắn chúc phúc cho hắn sau khi ông ăn uống. Vị tổ phụ thánh cảm thấy bàng hoàng khi ông biết được những gì đã xẩy ra. Thế nhưng, chẳng những không rút lại những gì đã làm, ông còn khẳng định việc làm của ông nữa, vì ông rõ ràng thấy được ngón tay của Thiên Chúa nhúng vào. Thế rồi Thánh Kinh thuật lại rằng, Esau bắt đầu lớn tiếng chống lại hành động phản bội của đứa em mình. Bấy giờ hắn xin cha hắn còn phúc lành nào nữa thì ban cho hắn. Làm như thế, như các vị Giáo Phụ cho biết, Esau là biểu hiệu cho những ai cứ tưởng rằng giữa Thiên Chúa và thế gian có một thứ liên minh nào đó, vì họ tham muốn hoan hưởng cùng một lúc cả các phúc lành từ trời lẫn những may lành trên trần thế. Isaac bị cảm kích trước những kêu gào của Esau nên cuối cùng đã chúc phúc cho hắn chỉ được may lành trên trần gian, và ông đặt hắn dưới quyền của em hắn. Bởi thế mà Esau đã cưu mang một mối hận ghét độc hiểm đối với Giacóp đến độ hắn chờ cho đến sau khi cha hắn qua đi rồi thì hắn sẽ thanh toán em hắn. Giacóp đã không thể nào thoát chết nếu người mẹ yêu dấu của Giacóp không rat ay cứu Giacóp bằng tái khéo của bà và lời khuyên răn tốt lành của bà.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
14. Cuộc vượt qua của Chúa Kitô chẳng những bao gồm cuộc khổ nạn và tử nạn của Người mà còn cả cuộc phục sinh của Người nữa. Điều này được nhắc nhớ qua lời cộng đồng tung hô sau phần truyền phép: “Chúng tôi tuyên xưng việc Chúa sống lại”. Hy Tế Thánh Thể hiện thực chẳng những mầu nhiệm khổ nạn và tử nạn của Chúa Cứu Thế mà còn cả mầu nhiệm phục sinh làm hiển vinh hiến tế của Người nữa. Chính vì là Đấng hằng sống và phục sinh mà Chúa Kitô mới có thể trở thành “bánh ban sự sống” (Jn 6:35,48), “bánh sống” (Jn 6:51) trong Bí Tích Thánh Thể. Thánh Ambrôsiô đã nhắc nhở thành phần mới được khai tâm Kitô giáo rằng Thánh Thể thể hiện biến cố phục sinh vào cuộc sống của họ: “Hôm nay đây Chúa Kitô là của anh chị em, thế nhưng hằng ngày Người sống lại một lần nữa cho anh chị em” (20). Thánh Cylilô Alexandria cũng làm sáng tỏ vấn đề về việc thông phần vào các mầu nhiệm linh thánh “là một việc thực sự tuyên xưng và là việc tưởng nhớ rằng Chúa đã chịu chết và sống lại vì chúng ta và cho chúng ta” (21). 15. Việc tái hiện thực một cách bí tích hiến tế của Chúa Kitô, một hiến tế được hiển vinh bởi cuộc phục sinh, nơi Thánh Lễ chất chứa một thứ hiện diện đặc biệt nhất như lời Đức Phaolô VI nói “được gọi là ‘có thực’, không phải kiểu loại trừ tất cả mọi kiểu hiện diện khác như những kiểu hiện diện ấy ‘không có thực’, song bởi đây là kiểu hiện diện trọn nghĩa nhất, một hiện diện chính yếu nhờ đó Chúa Kitô, Vị Thiên Chúa Làm Người, hiện diện một cách trọn vẹn và hoàn toàn” (22). Điều này là điều lập lại giáo huấn bền vững của Công Đồng Chung Triđentinô, đó là “việc thánh hiến bánh và rượu làm biến đổi tất cả bản thể bánh thành bản thể thân mình của Đức Kitô Chúa chúng ta, và tất cả bản thể rượu thành bản thể máu của Người. Giáo Hội Công Giáo thánh thiện đã gọi việc biến đổi này một cách xác đáng và xứng hợp là việc biến thể” (23). Thánh Thể thực sự là một mysterium fidei mầu nhiệm đức tin, một mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta và chỉ có thể chấp nhận bằng đức tin mà thôi, như vẫn thường được nhắc đến trong những bài giáo lý của các Vị Giáo Phụ liên quan tới bí tích thần linh này. Thánh Cylilô Giêrusalem đã khuyến dụ: “Đừng thấy nơi bánh và rượu này chỉ là những chất tự nhiên, vì Chúa đã tỏ tường phán chúng là mình và máu của Người: đức tin bảo đảm với anh em về điều này, cho dù giác quan có cảm thấy khác đi nữa” (24). Cùng với vị Tiến Sĩ Thiên Thần chúng ta hãy tiếp tục xướng lên rằng adoro te devote, latens Deitas. Trước mầu nhiệm yêu thương này, trí khôn nhân loại hoàn toàn cảm thấy cái hạn hẹp của nó. Người ta hiểu được tại sao qua các thế kỷ chân lý này đã từng kích thích khoa thần học nỗ lực tìm hiểu nó mỗi ngày một sâu xa hơn. Đó là những nỗ lực đáng khen, những nỗ lực lại càng hữu ích và minh tường hơn nữa ở chỗ chúng góp phần suy tư cần thiết vào “đức tin sống động” của Giáo Hội, một đức tin được đặc biệt nắm giữ bởi Huấn Quyền liên quan đến “đặc sủng vững vàng về chân lý” cũng như đến “cảm quan sâu xa về các thực tại linh thiêng” (25) là những gì được thành phần đặc biệt các thánh nhân đạt tới. Đức Phaolô VI còn đề cập đến một giới hạn như sau: “Hết mọi thứ giải thích của thần học tìm cách hiểu được phần nào mầu nhiệm này, để am hợp với đức tin Công Giáo, đều phải mạnh mẽ chủ trương rằng nơi thực tại khách quan, hoàn toàn độc lập với lý trí của chúng ta, bánh và rượu không còn hiện hữu nữa sau lời truyền phép, để từ giây phút đó mình và máu đáng tôn thờ của Chúa Giêsu thực sự hiện diện ở trước chúng ta dưới các hình dạng bí tích bánh rượu (26).
Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập Pháp ở Châu Âu
"Nhân quyền và các quyền lợi của gia đình" (1.1-1.4)
Những Nhận Ðịnh của Cuộc Họp Quốc Tế Lần Thứ Hai
Chúng tôi, từ tất cả mọi
quốc gia ở Âu Châu, đến đây để suy nghĩ về đề tài nhân quyền và các quyền
lợi của gia đình, và chúng tôi đã trao đổi về Bản Tuyên Ngôn Chung về
Nhân Quyền đối với mọi vấn đề liên quan đến gia đình, một tế bào căn bản
của xã hội, một tế bào rất cần cho xã hội ở sứ vụ không thể thay thế của nó,
ở việc phát triển của nó, ở những khó khăn thử thách của nó cũng như ở những
chịu đựng của nó.
"Chúng tôi đã suy nghĩ
về mối liên hệ giữa Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền Năm 1948 và
Bản Hiến Chương về Quyền Lợi Gia Ðình được Tòa Thánh ban hành năm 1983.
Ðây là một số những kết luận tổng kết đã được Hội Nghị chúng tôi nhất trí
chuẩn nhận, chúng xin được chia sẻ đặc biệt với những vị như chúng tôi làm
việc phục vụ xã hội để mưu cầu công ích.
1.1 "Bản Tuyên Ngôn
Chung về Nhân Quyền, được long trọng công bố ngày 10 tháng 12 năm 1948,
đã ban cho Hiệp Chủng Quốc thẩm quyền về luân lý trong việc thi hành sứ vụ
đã được ủy nhiệm cho nó, đó là sứ vụ hoạt động cho hòa bình, cho việc phát
triển và bảo vệ quyền lợi của mọi người. Các Chính Quyền đã được mời gọi để
đưa những quyền lợi này vào việc lập pháp nghiêm cẩn của mình. Việc lập pháp
này liên quan đến vấn đề bảo vệ sự sống của mọi người (khoản 3), vấn đề tôn
trọng quyền tự do của mọi người, và vấn đề công nhận những quyền lợi nồng
cốt khác nhau, bao gồm cả 'quyền kết hôn
và lập gia đình' (khoản 16.1) là cơ cấu được coi như
'một đơn vị nhóm tự nhiên và căn bản của
xã hội' và 'được xã hội và Chính Quyền
bảo vệ' (khoản 16.3). Hơn nữa, tất cả mọi quyền lợi về xã hội, dân sự, chính
trị, kinh tế và văn hóa được tuyên bố trong Bản Tuyên Ngôn còn nhắm
đến thiện ích của con người, của những cơ cấu môi giới, cũng như của toàn
thể cộng đồng nhân loại.
1.2
"Người ta không phải chỉ được tôn trọng như là 'những hữu thể cá nhân'
mà là như những con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, có khả
năng nhận biết sự thật và hòa hợp việc mình làm cho đúng với sự thật, cũng
như sống thuận hòa với những người khác trong xã hội (x. ÐTC Gioan
Phaolô II, Thông Ðiệp Ðức Tin và Lý Trí, đoạn 3, 24).
Bản Tuyên Ngôn Năm 1948 hợp với quan điểm về con người này và đã cho
thấy những thành quả của mình.
1.3
"Bản Tuyên Ngôn đã hơn một lần giúp vào việc ngăn ngừa những
xung khắc, vào việc đối đầu với những hình thức chuyên chế độc tài mới, vào
việc đề cao lòng trọng kính các quyền lợi của con người, vào việc cổ võ bãi
bỏ chế độ thuộc địa đế quốc, cũng như vào việc khích lệ phát triển và hòa
bình. Nó đã cho thấy thành quả của mình qua những việc thực hiện như vậy.
1.4 "Tuy nhiên, chúng tôi, những con người nam nữ hoạt động trong lãnh vực chính trị và lập pháp đang tham dự buổi họp này, muốn đồng thanh nói lên rằng, Bản Tuyên Ngôn này thường bị bỏ qua trong thực hành, thậm chí bị khinh thị, hay bị bóp méo bằng những kiểu cắt nghĩa lại những thứ quyền lợi đã được nó công bố. Những méo mó như vậy đặc biệt là đã làm giảm mất giá trị của cơ cấu gia đình.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dich từ
tuần san L' O sservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 20/1/1999)
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
|
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |