Hình Ảnh Thánh Kinh về Việc Tôn Sùng này: Bà Rebecca và Giacóp (191-195)
Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria
THỨ NĂM 22/5/2008
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI “Toàn thể lịch sử của Thiên Chúa với loài người được tóm gọn lại nơi những lời truyền phép Thánh Thể ấy” Hôm Nay Giáo Đô Rôma cử hành Lễ Mình Máu Thánh Chúa Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort) Hình Ảnh Thánh Kinh về Việc Tôn Sùng này: Bà Rebecca và Giacóp (191-195) Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II Thông Điệp Thánh Thể Thánh Thể Xây Dựng Giáo Hội (21) Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập Pháp ở Châu Âu "Nhân quyền và các quyền lợi của gia đình" (4.1-4.3) Những Nhận Ðịnh của Cuộc Họp Quốc Tế Lần Thứ Hai
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI “Toàn thể lịch sử của Thiên Chúa với loài người được tóm gọn lại nơi những lời truyền phép Thánh Thể ấy”
(Bài Giảng Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô 15/6/2006 tại Quảng Trường Đền Thờ Latêranô Rôma)
Hôm Nay Giáo Đô Rôma cử hành Lễ Mình Máu Thánh Chúa
Anh Chị Em thân mến,
Vào tối áp cuộc khổ nạn của mình, trong bữa Vượt Qua, Chúa Kitô đã cấm lấy bánh trong tay mình – như chúng ta đã vừa mới nghe cách đây ít lâu trong đoạn Phúc Âm – và, sau khi làm phép, Người bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán: ‘Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Thày’. Đoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn và trao cho các vị và tất cả các vị đều uống chén ấy. Người phán: ‘Đây là máu của Thày, máu giao ước, được đổ ra cho nhiều người’ (Mk 14:22-24).
Toàn thể lịch sử của Thiên Chúa với loài người được tóm gọn lại nơi những lời ấy. Không phải chỉ có quá khứ mới được nói tới và được giải thích, mà cả tương lai cũng được ngưỡng vọng nữa – đó là việc Vương Quốc của Thiên Chúa trị đến trên thế giới này. Những gì Chúa Giêsu nói không phải là những lời lẽ đơn giản tầm thường. Những gì Người nói là một biến cố, một biến cố chính yếu nơi lịch sử của thế giới và của đời sống riêng tư của chúng ta.
Những lời này là những lời bất khả thấu tận. Vào lúc này đây, tôi xin suy niệm với anh chị em về chỉ một khía cạnh duy nhất. Chúa Giêsu đã chọn bánh và rượu để làm như là dấu hiệu hiện diện của Người. Bằng mỗi một dấu hiệu này, Người hoàn toàn hiến ban chính mình Người, chứ không phải chỉ từng phần. Đấng Phục Sinh là Đấng không bị phân chia. Người là một ngôi vị, nhờ các dấu hiệu, đến gần với chúng ta hơn và liên kết chúng ta với chính mình Người.
Tuy nhiên, mỗi một dấu hiệu, theo cách thế riêng của mình, tiêu biểu cho một khía cạnh đặc biệt về mầu nhiệm của Người, và qua việc biểu lộ xứng hợp của mình, muốn nói với chúng ta để chúng ta hiểu được mầu nhiệm về Chúa Giêsu Kitô khá hơn chút nữa.
Trong cuộc rước kiệu và chầu Chúa, chúng ta nhìn lên Tấm Bánh đã được thánh hiến, một hình thức bánh và dưỡng chất đơn sơ thanh đạm nhất, được làm nên bởi một ít bột và nước. Nhờ đó, tấm bánh trở thành như là lương thực của người nghèo, thành phần Chúa Kitô gắn bó nhất.
Lời nguyện được Giáo Hội trong phụng vụ Thánh Lễ hiến dâng tấm bánh ấy lên Chúa, định phẩm nó như là hoa mầu của trái đất và lao công của con người.
Nó bao gồm lao công của con người, việc làm hằng ngày của những ai canh tác trái đất, gieo trồng và gặt hái (lúa miến), và sau hết là việc làm bánh. Tuy nhiên, bánh không phải thuần túy và chỉ là những gì chúng ta sản xuất, những gì chúng ta làm được; nó là hoa trái của trái đất và vì thế cũng là tặng vật nữa.
Chúng ta không thể kể công về sự kiện trái đất trổ sinh hoa trái; chỉ có một mình Đấng Hóa Công mới có thể làm cho nó thành mầu mỡ. Và giờ đây chúng ta cũng có thể nới thêm một chút nữa thế này vào lời nguyện cầu này của Giáo Hội, đó là Bánh này là hoa trái của trời cao và trái đất. Nó bao gồm việc hợp lại giữa các năng lực của trái đất cùng với những tặng ân từ trên cao, tức là của mặt trời và mưa gió. Cả nước nôi nữa, yếu tố chúng ta cần để làm bánh, yếu tố chúng ta không thể nào làm nên.
Trong một giai đoạn vấn đề sa mạc hóa được nói đến và là giai đoạn chúng ta nghe thấy thời điểm và một lần nữa nghe thấy cảnh giác là con người cùng hoang thú đang có nguy cơ bị chết khát nơi những miền không có nước ấy – trong một giai đoạn như vậy chúng ta mới nhận thức một lần nữa rằng tặng ân nước thì to tát biết bao, và tại sao chúng ta không thể tự mình sản xuất được nó.
Bởi vậy, nhìn kỹ vào miếng Bánh Thánh trắng nhỏ này, tấm bánh của người nghèo, chúng ta thấy được một thứ tổng hợp của thiên nhiên tạo vật. Trời và đất nữa, như hoạt động và tinh thần của con người, hợp tác với nhau. Cái tác hợp của các quyền lực làm cho mầu nhiệm về sự sống và việc hiện hữu của con người trở thành khả dĩ trên hành tinh của chúng ta đây đến gặp gỡ chúng ta nơi tất cả những gì là cao cả uy nghi vĩ đại.
Như thế chúng ta bắt đầu hiểu được lý do tại sao Chúa đã chọn miếng bánh ấy để làm tiêu biểu cho Người. Thiên nhiên tạo vật, với tất cả những tặng ân của nó, khao khát một cái gì đó thậm chí lớn lao hơn nữa, bên trên chính nó và vượt trên chính nó. Bên trên và vượt trên sự tổng hợp của những năng lực nơi chính nó, bên trên và vượt trên sự tổng hợp cũng của cả thiên nhiên lẫn thần trí mà, ở một góc độ nào đó, chúng ta, nơi tấm bánh, khám phá ra thiên nhiên tạo vật được định phóng hướng tới việc thần linh hóa, hướng tới một cuộc hôn lễ thánh hảo, hướng tới một cuộc hiệp nhất với chính Đấng Tạo Thành.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa cắt nghĩa sâu xa sứ điệp của dấu hiệu bánh này. Chúa Kitô đã đề cập tới mầu nhiệm sâu xa nhất của nó vào Chúa Nhật Lễ Lá, khi có một số người Hy Lạp yêu cầu được gặp Người. Trong lời Người trả lời cho vấn đề này có câu: ‘Thật vậy, thật vậy, Tôi nói cho quí vị biết, trừ phi hạt lúa miến rơi xuống đất có chết đi, bằng không nó vẫn còn nguyên; thế nhưng, nếu nó có thối nát đi, nó mới sinh nhiều hoa trái’ (Jn 12:24).
Mầu nhiệm của Cuộc Khổ Nạn được dấu ẩn nơi tấm bánh thành nên bởi hạt lúa đất đai. Bột, hạt lúa đất đai, biểu hiệu cho cái chết đi và phục hồi của hạt thóc này. Nơi việc được gieo trên đất và bị nung nướng, nó mang nơi mình một lần nữa cũng cái mầu nhiệm Khổ Nạn ấy. Chỉ nhờ cái chết mới có phục sinh thế nào thì hoa trái và sự sống mới cũng thế.
Văn hóa ở miền Địa Trung Hải, ở vào những thế kỷ trước Chúa Kitô, đã có một trực giác sâu xa về mầu nhiệm này. Dựa trên cái kinh nghiệm về cái chết và phục hồi ấy, họ đã tạo nên những huyền thoại về thần linh là những gì đã hiến ban sự sống mới bằng việc chết đi và sống lại. Đối với họ, chu kỳ của thiên nhiên dường như một lời hứa hẹn thần linh ở giữa cái tối tăm của khổ đau và chết chóc mà chúng ta phải đương đầu.
Nơi những huyền thoại này, linh hồn của con người, một cách nào đó, đã hướng tới việc Thiên Chúa đã làm người, vị mà, hủy thân cho đến chết trên thập tự giá, dể mở cửa sự sống cho tất cả chúng ta. Nơi bánh và việc làm bánh, con người đã hiểu nó như là một giai đoạn đợi chờ của thiên nhiên, như một lời hứa hẹn nơi thiên nhiên là điều này sẽ xẩy ra, đó là Vị Thiên Chúa chết đi để nhờ đó mang chúng ta tới sự sống.
Những gì được đợi trông nơi những huyền thoại ấy và những gì được chất chứa nơi chính hạt lúa miến như là dấu hiệu cho niềm hy vọng của thiên nhiên tạo vật – thì đều thực sự xẩy ra nơi Chúa Kitô. Qua cái cuộc khổ nạn và tử nạn nhưng không của Người, Người đã trở thành bánh cho tất cả chúng ta, và nhờ đó trở thành niềm hy vọng sống động vững vàng. Người hỗ trợ chúng ta nơi tất cả mọi khổ đau cho chết chúng ta. Con đường Người hành trình với chúng ta, nhờ đó, Người dẫn chúng ta tới sự sống là những con đường của niềm hy vọng.
Nơi việc chầu Chúa, khi chúng ta nhìn vào Tấm Bánh được thánh hiến, thì dấu hiệu của thiên nhiên tạo vật này là những gì nói với chúng ta. Bởi vậy, chúng ta gặp được cái cao cả của tặng ân Người; thế nhưng chúng ta cũng gặp được cả cuộc khổ nạn, thập giá của Chúa Giêsu cùng với cuộc phục sinh của Người. Nơi ánh mắt tôn thờ này, Người lôi kéo chúng ta đến với Người, trong mầu nhiệm của Người, nhờ đó, Người biến đổi chúng ta như Người đã biến đổi Bánh Thánh.
Giáo Hội sơ khai cũng đã khám phá ra một biểu hiệu khác nơi tấm bánh. Tín Điều của 12 Tông Đồ, một cuốn sách được viết vào khoảng năm 100, chất chứa nơi những lời nguyện cầu của mình niềm xác tín rằng: ‘Cho dù như tấm bánh được bẻ ra này bị phân tán khắp các đồi núi, và được qui tụ lại với nhau nên một, thì xin cho Giáo Hội của Chúa cũng được qui tụ lại với nhau từ cùng tận trái đất nơi Vương Quốc của Chúa’ (IX, 4).
Tấm bánh được làm nên bởi nhiều hạt lúa miến cũng chất chứa một biến cố hiệp nhất nữa. Hạt lúa miến đất đai trở thành bánh là một tiến trình nên một. Chính chúng ta, tuy nhiều, cần phải trở thành một tấm bánh duy nhất, một thân thể duy nhất, như Thánh Phaolô nói (x 1Cor 10:17). Như thế, dấu hiệu bánh trở thành cả niềm hy vọng lẫn sự viên trọn.
Dấu hiệu rượu nho nói với chúng ta cũng giống y như thế. Tuy nhiên, trong khi bánh nói về cuộc sống hằng ngày, về tính cách giản dị và hành trình, thì rượu diễn đạt nét trang nhã thanh tú của thiên nhiên tạo vật, đó là lễ hội của niềm vui được Thiên Chúa cống hiến cho chúng ta vào ngày cùng tháng tận mà giờ đây và mãi mãi đã được tiên hưởng nơi dấu hiệu này.
Thế nhưng, rượu cũng nói về Cuộc Khổ Nạn nữa, ở chỗ, cây nho cần phải được tỉa đi xén lại nhờ đó mà được nên tinh khiết; những hạt nho cần phải chín mùi nhờ mặt trời và mưa gió cũng như cần phải bị ép vắt: Chỉ nhờ có cuộc khổ nạn này mới có một thứ chín mùi rượu ngon.
Vào Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta đặc biệt nhìn vào dấu hiệu bánh. Nó nhắc nhở chúng ta về cuộc hành trình của dân Do Thái suốt 40 năm trong sa mạc. Bánh Thánh là manna của chúng ta được Chúa dùng để nuôi dưỡng chúng ta – nó thật là bánh bởi trời, nhờ đó Người hiến ban chính mình Người.
Trong cuộc cung nghinh Thánh Thể này, chúng ta theo dấu hiệu ấy, nhờ đó, chúng ta theo chính Chúa Kitô. Và chúng tax in Người rằng: Xin Chúa dẫn dắt chúng con qua những nẻo đường lịch sử! Xin Chúa cứ tỏ mãi cho Giáo Hội và những vị mục tử của Giáo Hội thấy đường ngay nẻo chính! Xin Chúa hãy nhìn đến nhân loại khổ đau, đang thận trọng tìm kiếm một đường đi nước bước qua rất nhiều những ngờ vực; xin hãy nhìn đến tình trạng đói khổ về vật chất và tâm linh đang hành hạ nhân loại! Xin ban cho con người nam nữ bánh cho cả xác lẫn hồn! Xin ban cho họ công ăn việc làm! Xin ban cho họ ánh sáng! Xin ban cho họ chính bản thân Chúa! Xin thanh tẩy và thánh hóa tất cả chúng con!
Xin Chúa hãy làm cho chúng con hiểu được rằng chỉ nhờ tham phần vào Cuộc Khổ Nạn của Chúa, qua việc ‘chấp nhận’ thánh giá, chấp nhận bỏ mình, chấp nhận những cuộc thanh tẩy Chúa thực hiện nơi chúng con, đời sống chúng con mới có thể trưởng thành và đạt đến tầm vóc viên trọn thực sự. Xin Chúa hãy qui tụ chúng con lại từ mọi nơi trên thế giới. Xin Chúa hãy hiệp nhất Giáo Hội của Chúa, hiệp nhật nhân loại bị thương đau! Xin Chúa ban cho chúng con ơn cứu độ! Amen
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 4/7/2006
Ý nghĩa bài giảng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI về Thánh Thể liên quan tới khía cạnh thiên nhiên tạo vật được thần linh hóa và biến đổi từ tấm bánh là hoa mầu ruộng đất và lao công của con người đã được người dịch cảm nghiệm và chia sẻ trong cuốn “Nguồn Sống Thần Linh” (Cao-Bùi, 5/2005, Năm Thánh Thể, trang 69-73, và trang 137-144, xin xem vào ngày mai)
Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)
Hình Ảnh Thánh Kinh về Việc Tôn Sùng này: Bà Rebecca và Giacóp
Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria
Giải Thích Câu Truyện về Giacóp
191. Giacóp, đứa con trẻ hơn, lại có một bản chất yếu mềm, dịu dàng và thích bình lặng, thường ở nhà để yêu chiều mẹ mình, người mẹ được Giacóp rất mến yêu. Nếu Giacóp cần phải đi đâu ra ngoài nhà thì không phải vì ước muốn riêng của mình, hay vì tin tưởng vào khả năng của mình, mà chỉ vì vâng theo lời mẹ của mình.
192. Giacóp đã mến yêu và tôn kính người mẹ của mình. Đó là lý do tại sao Giacóp vẫn ở nhà để gần gũi mẹ. Giacóp cảm thấy không còn gì hạnh phúc hơn là được ở với mẹ. Giacóp đã tránh đi tất cả những gì có thể làm phật lòng mẹ, và làm mọi sự Giacóp nghĩ rằng sẽ làm cho mẹ hài lòng. Điều này càng làm cho bà Rebecca yêu thương Giacóp hơn nữa.
193. Giacóp thuận phục mẹ mình trong hết mọi sự. Giacóp vâng lời mẹ một cách trọn vẹn trong hết mọi sự, lập tức không trì hoãn và thiết tha không phàn nàn. Khi vừa thấy được ý của mẹ là trẻ Giacóp vội vã tuân hợp ngay. Giacóp chấp nhận bất cứ sự gì mẹ bảo mà không thắc mắc chi. Chẳng hạn, khi bà bảo Giacóp đi bắt hai con dê nhỏ mang về cho bà để bà có thể làm một món gì đó cho cha của Giacóp là Isaac ăn, thì Giacóp đã không trả lời là chỉ cần một con là đủ cho một người ăn, song Giacóp đã làm đúng như những gì bà bảo Giacóp làm mà không lập luận này nọ.
194. Giacóp đã hết sức tin tưởng nơi mẹ của mình. Giacóp đã không cậy vào khả năng riêng của mình; chỉ cậy dựa vào việc chăm sóc và chở che của mẹ mà thôi. Giacóp đến với mẹ mỗi khi cần điều gì và bàn với mẹ về tất cả những gì rắc rối. Chẳng hạn khi Giacóp hỏi bà rằng nhỡ cha Giacóp thay vì chúc phúc cho Giacóp thì lại nguyền rủa Giacóp, Giacóp đã tin mẹ và tin tưởng vào bà khi bà nói rằng chính bà sẽ lãnh chịu lời nguyền rủa ấy cho Giacóp.
195. Sau hết, Giacóp đã bắt chước bao nhiêu có thể các nhân đức Giacóp thấy nơi mẹ của mình. Dường như đó là một trong những lý do Giacóp đã sống nhiều giờ ở nhà là để noi gương bắt chước người mẹ yêu dấu của mình, người mẹ thật là đức hạnh, cũng như để tránh khỏi những bạn bè xấu, thành phần có thể dẫn Giacóp tới chỗ sa ngã phạm tội. Nhờ đó, Giacóp đã làm cho mình xứng đáng lãnh nhận phúc lành gấp đôi từ người cha yêu dấu của mình.
Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập Pháp ở Châu Âu
"Nhân quyền và các quyền lợi của gia đình" (4.1-4.3)
Những Nhận Ðịnh của Cuộc Họp Quốc Tế Lần Thứ Hai
Hãy Ủng Hộ và Nâng Ðỡ Gia Ðình
4.2 "Theo Bản Tuyên
Ngôn Chung, luật pháp của Âu Châu đã nhìn nhận hôn nhân là một cơ cấu tự
nhiên được đi liền với những ràng buộc về luật pháp. Hôn nhân làm nên gia
đình, vì nó thiết lập một mối hiệp nhất vững chắc trong việc hiến thân cho
nhau giữa một người nam và một người nữ, hướng về một tình yêu hỗ tương, về
việc truyền sinh và dưỡng dục con cái. Ðó là cơ cấu hôn nhân xã hội cần phải
được bênh vực như là một giá trị chi phối cả tương lai của xã hội. Việc thừa
nhận những kiểu hiệp nhất khác là 'hôn nhân', như một số người hiện nay cho
rằng như thế mới không tỏ ra kỳ thị, hay ban cho những cuộc hiệp nhất này
các quyền lợi hay thuận lợi tương đương trong xã hội như ban cho những người
thành hôn chính đáng, sẽ làm bại hoại cơ cấu hôn nhân cùng với đời sống gia
đình.
4.3 "Giáo Hội nhìn nhận
rằng, Giáo Hội đang bênh vực xã hội và thiện ích thực sự của con người bằng
việc ủng hộ, cổ võ và bênh vực cơ cấu tự nhiên của hôn nhân được Chúa Kitô
nâng lên phẩm vị của một bí tích Tân Luật. (Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dich từ tuần san L' O
sservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 20/1/1999)
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
|
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |