THỨ BẢY 3/5/2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

Lý trí, cuối cùng, phải cúi mình trước áp lực của các thứ lợi lộc cùng với  cái mê hoặc của những gì là thực lợi,

một lý trí phải bó buộc nhìn nhận áp lực ấy như là một qui chuẩn tối hậu."

Bài Diễn Từ Soạn Dọn để nói trong dịp Khai Mạc Năm Học cho Đại Học Rôma La Sapienza ngày Thứ Năm 17/1/2008

   CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

 “Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria”: Mẹ Maria là chi thể tuyệt hảo của Nhiệm Thể và là Mẹ Giáo Hội

Thư Gửi Chư Gia Đình Hội Dòng Montfort Dịp 160 Năm (1843-2003) Xuất Bản Tác Phẩm “Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria”

   MẾN Yêu Thánh Thể  

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

Thánh Thể Và Vấn Ðề Hiệp Thông Xã Hội

Thông Điệp Giáo Hội Sống Bởi Thánh Thể

  YÊU Thương Tha Nhân  

 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

HÔN NHÂN BẤT KHẢ PHÂN LY

Với Pháp Đình Tòa Thánh dịp mở màn cho một Tân Pháp Niên, 28/1/2002

    

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI
 

 

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

 

Lý trí, cuối cùng, phải cúi mình trước áp lực của các thứ lợi lộc cùng với  cái mê hoặc của những gì là thực lợi,

một lý trí phải bó buộc nhìn nhận áp lực ấy như là một qui chuẩn tối hậu."

Bài Diễn Từ Soạn Dọn để nói trong dịp Khai Mạc Năm Học cho Đại Học Rôma La Sapienza ngày Thứ Năm 17/1/2008

 

Vậy đại học đường là gì? Đâu là công việc làm của nó? Đây là một câu hỏi to tướng mà, một lần nữa, tôi cố gắng giải đáp một cách vắn tắt nhất mà thôi, với một số nhận định. Tôi nghĩ rằng nguồn gốc chân thực nội tại của đại học đường có thể nói ở nơi ước muốn hiểu biết là những gì bẩm sinh đối với con người. Họ muốn biết những gì chung quanh họ. Họ muốn sự thật. Như thế, chúng ta có thể thấy rằng việc tự vấn của Socrates là động lực phát sinh ra đại học đường Tây phương vậy.

 

Tôi nghĩ đến, chẳng hạn – chỉ cần đề cập tới một bản văn thôi – cuộc tranh cãi với Euthyphro, người bênh vực tôn giáo có tính cách huyền thoại và việc đạo đức của mình trước Socrates. Ngược lại, Socrates đã đặt vấn đề như thế này: “Anh có thực sự tin rằng các vị thần linh đánh đấm nhau hay chăng, và có những cuộc cãi lộn cùng những cuộc chiến tranh kinh khủng hay chăng?... Hỡi Euthyphro, phải chăng chúng ta thực sự cần phải nói rằng tất cả những điều ấy có thật?” ("Euthyphro," 6b-c). Nơi cái vấn nạn hiển nhiên là vô tín ngưỡng này – một vấn nạn nơi Socrates xuất phát ra một thứ tính cách tôn giáo sâu xa hơn và tinh tuyền hơn, một việc tìm kiếm Vị Thiên Chúa thực sự là thần linh – Kitô hữu thuộc các thế kỷ đầu tiên  đã nhận ra chính bản thân mình và đường lối của mình. Họ không hiểu đức tin của họ một cách thực chứng, hay như là một thứ thoát lý khỏi những ước vọng bất thành tựu; họ đã hiểu đức tin như là một thứ làm tan biến đi sương mù của thứ đạo giáo có tính cách huyền thoại hoang đường,  để nhường chỗ cho việc khám phá thấy một Vị Thiên Chúa là Lý Trí sáng tạo và đồng thời là Tình Yêu – Lý Trí.

 

Vì thế, việc lý trí tự vấn về Vị Thiên  Chúa cao cả hơn, như việc nó vấn nạn về bản tính chân thực cùng ý nghĩa thật sự của con người, không phải là một hình thức mơ hồ về việc thiếu tính chất đạo giáo đối với các Kitô hữu thời sơ khai ấy, mà thuộc về yếu tính của cách thức họ sống đạo. Bởi vậy họ không cần tống khứ hay gạt đi việc tự vấn kiểu Socrate, mà có thể – hay đúng hơn cần phải – chấp nhận nó như thuộc về căn tính riêng của họ việc tìm kiếm khó khăn của lý trí để đạt tới sự hiểu biết được tất cả chân lý. Như thế, nơi lãnh giới của đức tin Kitô giáo, nơi thế giới Kitô giáo, đại học đường mới có thể – hay đúng hơn cần phải – được phát sinh.

 

Cần phải thực hiện thêm một bước nữa. Con người muốn biết sự thật – họ muốn sự thật. Sự thật trước hết là một cái gì thấy được, hiểu được, “theoria” được, như truyền thống Hy Lạp quan niệm. Thế nhưng, sự thật không bao giờ chỉ là những gì lý thuyết. Thánh Âu Quốc Tinh, khi thực hiện việc tương quan giữa các phúc đức của Bài Giảng Trên Núi với những tặng ân của Thần Linh được đề cập trong Sách Tiên  Tri Isaia đoạn 11, đã khẳng định có một sự hỗ tương giữa “scientia” và “tristitia”: ngài nói, việc hiểu biết thuần túy làm cho con người ta buồn bã. Thật thế, những ai chỉ thấy và hiểu mọi sự đang xẩy ra trên thế giới này đều tiến đến chỗ trở thành buồn thảm. Thế nhưng, sự thật không phải chỉ có nghĩa là hiểu biết, ở chỗ, việc hiểu biết sự thật nhắm đến việc hiểu biết sự thiện. Đó cũng là ý nghĩa của việc tự vấn kiểu Socrate: Đâu là sự thiện làm cho chúng ta trở thành chân thực? Sự thật làm cho chúng ta thiện hảo và sự thiện hảo là những gì chân thực: Đó là tính cách lạc quan sống động nơi niềm tin Kitô giáo, vì nó chất chứa một quan niệm về Logos, về Lý Trí sáng tạo, nơi việc nhập thể của Thiên Chúa, một Lý Trí đã tỏ mình ra là Sự Thiện, là Đích Thân Thiện Hảo.

 

Vào thời thần học trung cổ đã xẩy ra một cuộc tranh cãi chính yếu về mối liên hệ giữa lý thuyết và thực hành, về mối liên hệ xác đáng giữa việc hiểu biết và việc tác hành – một cuộc tranh cãi chúng ta không thể khai triển nơi đây. Thật vậy, đại học đường thời trung cổ, với 4 phân khoa của nó, cho thấy mối tương quan này. Chúng ta hãy bắt đầu với phân khoa, theo sự hiểu biết vào thời bấy giờ, là phân khoa thứ tư, tức là y khoa. Cho dù nó được coi là một “nghệ thuật” hơn là một khoa học, nhưng, việc nó được đưa vào thế giới của các “universitas” hiển  nhiên cho thấy rằng nó được đặt vào môi trường của tính cách hữu lý, rằng nghệ thuật chữa trị ở dưới sự hướng dẫn của lý trí, và thoát khỏi môi trường pháp thuật. Việc chữa trị là một công việc càng cần đến lý trí giản dị hơn nữa, song chính vì thế mà nó mới cần đến mối liên hệ giữa việc hiểu biết và quyền lực, nó cần thuộc về lãnh giới của “ratio”.   

 

Nơi phân khoa luật học, vấn đề liên hệ giữa thực hành và lý thuyết, giữa việc hiểu biết và việc hành động, chắc chắn phải xẩy ra. Nó là một vấn đề của việc cống hiến hình thức đúng đắn cho tự do của con người, một thứ tự do bao giờ cũng là một thứ tự do của mối hiệp thông hỗ tương: Luật lệ là những gì giả định của tự do, chứ không phải là đối thủ của tự do. Đến đây nẩy lên  ngay một vấn đề là: Chúng ta làm thế nào nhận ra được những qui chuẩn của công lý giúp cho tự do có thể khả dĩ sống chung và phục vụ phúc hạnh của con người. Đến đây lại nẩy lên một vấn nạn nữa, đó là vấn đề làm thế nào có thể thiết lập được một thứ qui chuẩn về pháp lý kiến tạo nên một cấp trật của tự do, của phẩm giá con người và của các quyền lợi của con người. Nó là vấn đề liên quan tới chúng ta ngày nay nơi những tiến trình có tính cách dân  chủ trong việc hình thành ý nghĩ, đồng thời cũng khiến cho chúng ta lo âu như là một vấn đề về tương lai của nhân loại.

 

Theo quan niệm của tôi thì Jurgen Habermas bày tỏ một sự đồng thuận rộng lớn của luồng tư tưởng hiện nay, khi ông nói rằng tính các h hợp lý của một bản hiến chương pháp định, như một thứ giả định của hợp pháp tính, có thể xuất phát từ hai nguồn mạch: từ việc tham dự chính trị quân bình của tất cả mọi người công dân và từ hình thức hữu lý nhờ đó giải quyết được những xung khắc về chính trị. Về “hình thức hữu lý” này, ông ghi nhận rằng nó không thể chỉ là một cuộc đối chọi để chiếm được những gì là đa số theo toán học, mà nó cần phải có đặc tính của một “tiến trình luận chứng nhậy cảm với sự thật” ("wahrheitssensibles Argumentationsverfahren"). Điều n ày nói thì hay, song khó lòng để có thể biến thành một thứ thực hành về chính trị.

 

Thành phần đại diện cho “tiến trình luận chứng” chung ấy – như chúng ta biết – phần lớn là những đảng phái như thể họ có trách nhiệm hình thành ý muốn chính trị. Thật vậy, họ lúc nào cũng nhắm tới trước hết việc chiếm được những gì là đa số và do đó khó lòng mà tránh nổi việc bận tâm đến những lợi lộc được họ hứa hẹn làm thoả đáng; song những lợi lộc như thế thường là những gì riêng biệt và không thực sự phục vụ toàn thể. Tính cách nhậy cảm đối với sự thật cứ bị dập dụi đi bởi cảm thức về các thứ lợi lộc. Tôi thấy được tính cách quan trọng được Habemas nói đến  tính chất nhậy cảm đối với sự thật như là một yếu tố cần thiết cho tiến trình của việc luận chứng chính trị, nhờ đó đưa ý niệm về sự thật vào lại cuộc tranh luận về triết lý cũng như cuộc tranh cãi về chính trị. 

(còn tiếp)

Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, chuyển dịch

 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

 

 “Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria”: Mẹ Maria là chi thể tuyệt hảo của Nhiệm Thể và là Mẹ Giáo Hội

 

Thư Gửi Chư Gia Đình Hội Dòng Montfort Nhân Dịp Kỷ Niệm 160 Năm (1843-2003) Xuất Bản Tác Phẩm “Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria”

 

(loạt bài mở màn cho Tháng Hoa Mẹ 5/2008)

 

 

 

5.         Theo những gì được Công Đồng Chung Vaticanô II viết thì Mẹ Maria ‘được trọng kính như là một chi thể tuyệt đẳng và hoàn toàn chuyên biệt của Giáo Hội, và như là một kiểu mẫu và là mô phạm trổi vượt của Giáo Hội về đức tin và đức mến’ (Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, khoản 53). Người Mẹ này của Đấng Cứu Chuộc cũng được Người cứu chuộc một cách đặc biệt qua việc Hoài Thai Vô Nhiễm của Mẹ, và đã đi trước chúng ta trong việc kiên tâm trung thành chuyên chú lắng nghe Lời Chúa là những gì cho thấy Mẹ diễm phúc (cf. ibid., khoản 58). Bởi cả lý do này nữa mà Mẹ Maria ‘cũng liên kết chặt chẽ với Giáo Hội. Thánh Ambrôsiô dạy rằng, Người Mẹ Thiên Chúa này là một kiểu mẫu của Giáo Hội về phương diện đức tin, đức mến và hiệp nhất trọn vẹn với Chúa Kitô. Vì trong mầu nhiệm về Giáo Hội, một mầu nhiệm mà chính giáo hội thực sự được gọi là mẹ và là trinh nữ, thì Đức Trinh Nữ này là mẫu gương duy nhất nổi bật về cả việc làm người trinh nữ và làm mẹ’ (ibid. khoản 63). Chính Công Đồng chiêm ngưỡng Mẹ như ‘Người Mẹ của các chi thể Chúa Kitô’ (cf. ibid, khoản 53 và 62), nên bởi thế Đức Phaolô VI đã công bố Mẹ là Mẹ của Giáo Hội. Tín lý về Nhiệm Thể, một tín lý mạnh mẽ diễn tả nhất mối hiệp thông của Chúa Kitô với Giáo Hội, cũng có nền tảng thánh kinh về niềm xác tín này. Thánh Louis Marie đã nhắc nhở chúng ta rằng: ‘Đầu và các chi thể đều được hạ sinh bởi cùng một Người Mẹ duy nhất’ (Treatise on True Devotion, n. 32). Theo ý nghĩa ấy, chúng ta có thể nói rằng, nhờ hoạt động của Thánh Linh, các chi thể được liên kết và nên giống Chúa Kitô Thủ Lãnh, Người Con của Chúa Cha và của Mẹ Maria, ở chỗ ‘một người con thực sự của Giáo Hội cần phải có Thiên Chúa là Cha của mình và Mẹ Maria là Mẹ của mình’ (Treatise on True Devotion, n. 120). Trong Chúa Kitô, Người Con Duy Nhất của Chúa Cha, chúng ta thực sự là con cái của Chúa Cha, đồng thời cũng là những người con nam nữa của Mẹ Maria và Giáo Hội. Một cách nào đó chính toàn thể nhân loại được tái sinh nơi cuộc hạ sinh trinh nguyên của Chúa Giêsu. “Những lời này được qui cho Mẹ Chúa Kitô hơn là cho Thánh Phaolô nói về bản thân ngài: ‘Hỡi con cái bé nhỏ của cha, thành phần cha đã quằn quại tái sinh cho đến khi Chúa Kitô được hình thành nơi các con!’ (Gal 4:19). Hằng ngày Mẹ hạ sinh con cái của Thiên Chúa cho tới khi Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ được hình thành trong họ với tầm vóc trọn vẹn của Người” (Treatise on True Devotion, n. 33). Tín lý này được bày tỏ hết sức tuyệt vời trong lời nguyện cầu sau đây: ‘Ôi Thánh Linh, xin hãy ban cho con lòng say mê tôn sùng Mẹ Maria là vị hôn thê trung thành của Chúa; xin ban cho con niềm cậy trông mạnh mẽ vào tấm lòng từ mẫu của Mẹ và ẩn náu nơi tình thương của Mẹ, để nhờ Mẹ Chúa có thể thực sự hình thành Chúa Giêsu Kitô nơi con’ (The Secret of Mary, p. 81).

 

Một trong những diễn đạt cao quí nhất về linh đạo của Thánh Louis Marie Grignion de Montfort đó là những gì liên quan tới tính cách đồng nhất giữa người tín hữu với Mẹ Maria trong việc họ yêu mến Mẹ vì Chúa Giêsu và việc họ phục vụ Mẹ cho Chúa Giêsu. LKhi suy niệm về câu nói thời danh của Thánh Ambrôsiô là ‘Xin linh hồn của Mẹ Maria ở trong mỗi người chúng con để ngợi khen Chúa, và xin thần trí của Mẹ Maria ở trong mỗi người chúng con để hân hoan trong Thiên Chúa’ (Expos. in Luc., 12, 26: PL 15, 1561), thánh nhân viết: ‘Một linh hồn thực sự hạnh phúc khi… nó hoàn toàn được chiếm hữu và cai trị bởi tinh thần của Mẹ Maria, một tinh thần hiền lành mà mãnh liệt, nhiệt tình mà khôn ngoan, khiêm tốn mà can đảm, tinh tuyền mà phong phú’ (Treatise on True Devotion, n. 258). Việc đồng hóa huyền diệu này với Mẹ Maria là những gì hoàn toàn hướng tới Chúa Giêsu, như thánh nhân nói trong lơờ nguyện sau đây: ‘Hỡi Mẹ chí ái, sau hết, nếu có thể, xin Mẹ làm cho con không còn thần trí nào khác ngoài thần trí của Mẹ, để con nhận biết Chúa Giêsu và ý muốn thần linh của Người; xin làm cho con không còn hồn sống nào khác ngoài linh hồn của Mẹ, để ca ngợi và tôn vinh Chúa; xin làm cho con không còn con tim nào khác ngoài con tim của Mẹ, để kính mến Thiên Chúa bằng một tình yêu tinh tuyền và nhiệt liệt như Mẹ’ (The Secret of Mary, pp. 71-72).

 

(còn tiếp)

 

Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, chuyển dịch từ  

http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/letters/2004/documents/hf_jp-ii_let_20040113_famiglie-monfortane_en.html

 

 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 


 

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

 

Thánh Thể Và Vấn Ðề Hiệp Thông Xã Hội

 

Thông Điệp Giáo Hội Sống Bởi Thánh Thể

 

 

45.       Tuy không bao giờ được phép đồng cử hành trong tình trạng chưa hiệp thông trọn vẹn, nhưng vẫn được phép ban Thánh Thể ở các trường hợp đặc biệt cho những người thuộc về các Giáo Hội hay các Cộng Ðồng Giáo Hội chưa hoàn toàn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo. Thật vậy, trong trường hợp này, mục đích là để đáp ứng nhu cầu thiêng liêng hệ trọng liên quan đến phần rỗi đời đời của cá nhân người tín hữu, chứ không phải là để thể hiện một thứ liên hiệp thông là những gì vẫn còn bất khả cho đến khi những mối liên hệ hữu hình thuộc mối hiệp thông giáo hội hoàn toàn được tái thiết.

Ðó là phương sách của Công Ðồng Chung Vaticanô II, khi công đồng này nêu lên những hướng dẫn để đáp ứng các Kitô Hữu Ðông Phương vì lòng ngay phân ly với Giáo Hội Công Giáo, thành phần tự ý muốn xin lãnh nhận Thánh Thể từ một thừa tác viên Công Giáo và đã dọn mình xứng đáng (95). Phương sách này sau đó đã được chuẩn nhận bởi cả hai bộ Giáo Luật là những bộ luật cũng để ý tới, với những điều chỉnh cần thiết, trường hợp các Kitô Hữu không phải là Kitô Hữu Ðông Phương chưa hoàn toàn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo nữa (96).

46.       Trong Thông Ðiệp Ut Unum Sint, Tôi đã bày tỏ cảm nhận riêng của Tôi đối với những qui tắc ấy, những qui tắc đã có thể góp phần vào việc ban phát ơn cứu độ cho những linh hồn có một nhận thức xứng hợp: “Thật là vui mừng khi nhận thấy rằng các vị thừa tác viên Công Giáo, trong những trường hợp đặc biệt, có thể ban bí tích Thánh Thể, Thống Hối và Xức Dầu Bệnh Nhân cho các Kitô hữu chưa hoàn toàn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo nhưng lại là những người hết sức muốn lãnh nhận các bí tích ấy, tự động xin lãnh nhận các bí tích này và bày tỏ đức tin như Giáo Hội Công Giáo tuyên xưng liên quan đến các bí tích ấy. Ngược lại, trong các trường hợp đặc biệt và trong các hoàn cảnh riêng biệt, những người Công Giáo cũng có thể xin lãnh nhận các bí tích ấy từ những vị thừa tác viên thuộc các Giáo Hội thật sự có những bí tích này” (97).

Những điều kiện ấy, những điều kiện bất khả châm chước, cần phải được cẩn thận tôn trọng, cho dù được áp dụng cho những trường hợp đặc biệt riêng, vì nếu chối bỏ một hay những sự thật đức tin liên quan đến các bí tích này, trong đó, có cả sự thật liên quan tới nhu cầu thuộc chức linh mục thừa tác trong việc ban phát thành hiệu các bí tích này, khiến cho người xin lãnh nhận các bí tích ấy không hội đủ điều kiện xứng hợp để được phép lãnh nhận. Ngược lại cũng thế, những người Công Giáo không được rước lễ nơi những cộng đồng không có bí tích Truyền Chức Thánh thật sự (98).

Việc trung thành tuân giữ bộ qui tắc được thiết định về lãnh vực này (99) là việc biểu lộ đồng thời cũng là việc bảo đảm cho lòng mến yêu của chúng ta đối với Chúa Giêsu Kitô trong Bí Tích Thánh, vì anh chị em thuộc các niềm tin Kitô Giáo khác, những người có quyền thấy được việc chúng ta làm chứng cho sự thật ấy, cũng như cho chính mục đích cổ võ mối hiệp nhất này.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/encyclicals/documents/hf_jp-ii_enc_17042003_ecclesia-de-eucharistia_en.html

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

 

HÔN NHÂN BẤT KHẢ PHÂN LY


Với Pháp Đình Tòa Thánh dịp mở màn cho một Tân Pháp Niên, 28/1/2002


“Tính cách bất khả phân ly là một sự thiện cho vợ chồng, con cái,
cho Giáo Hội cũng như cho toàn thể nhân loại”.
“Sự thiện của tính cách bất khả phân ly là sự thiện của chính cuộc sống hôn nhân”.

 

Tính cách bất khả phân ly không phải là một lý tưởng, mà là đòi hỏi của luật tự nhiên trong việc áp dụng chung.

4.- Có vô số con người nam nữ ở mọi thời và khắp mọi nơi đã sống hợp với dự án thần linh và tự nhiên này, ngay cả trước khi Chúa Cứu Thế xuất hiện, và cũng có rất nhiều người sau khi Người đến đã thực hiện điều này nữa, cho dù họ không biết Người. Tự do của họ hướng về tặng ân của Thiên Chúa, cả lúc họ kết hôn cũng như trong suốt cuộc sống vợ chồng của họ. Tuy nhiên việc nổi loạn chống lại dự án yêu thương này bao giờ cũng có thể xẩy ra, bởi vậy mới nói đến “lòng chai cứng”, yếu tố đã khiến Moisen cho phép ly dị nhưng lại là việc ly dị Chúa Kitô nhất định chế ngự. Đối với những trường hợp giống như những trường hợp ấy, con người cần phải đáp ứng bằng một lòng can đảm khiêm hạ của đức tin, một đức tin nâng đỡ và kiên cường chính lý trí, khiến nó có thể thực hiện một cuộc trao đổi với tất cả những ai tìm kiếm sự thiện đích thực của con người cũng như của xã hội. Việc giải quyết tính cách bất khả phân ly không phải như là một qui chuẩn pháp lý tự nhiên, mà như là một lý tưởng thuần túy, sẽ làm mất hết ý nghĩa lời công bố bất khả vãn hồi của Chúa Giêsu Kitô, Đấng tuyệt đối phủ nhận việc ly dị vì “từ ban đầu không có như thế” (Mt 19:8).

Hôn nhân “là” việc bất khả phân ly, ở chỗ, tính cách này không phải chỉ là một sự kiện chủ quan. Bởi đó, sự thiện của tính cách bất khả phân ly là sự thiện của chính hôn nhân, và nếu không hiểu được bản chất bất khả phân ly này cũng không hiểu được yếu tính của hôn nhân. Bởi thế, “gánh nặng” của tính cách bất khả phân ly và những giới hạn từ đó mà ra, đối với tự do của con người, chính là mặt trái của một đồng tiền, nếu xét đến sự thiện cũng như đến khả thể vốn chất chứa nơi một cơ cấu hôn nhân như vậy. Theo quan điểm này, nói rằng lề luật của con người “áp đặt” là vô lý, vì lề luật của con người phải phản ảnh và bảo toàn lề luật tự nhiên và thần linh, một thứ lề luật bao giờ cũng là một sự thật giải thoát (x Jn 8:32).

Việc chăm sóc về mục vụ cần phải minh bạch về tính cách bất khả phân ly,
cũng như cần phải nâng đỡ tình yêu và mối hiệp thông hôn nhân

5.- Sự thật về tính cách hôn nhân bất khả phân ly, cũng giống như toàn bộ sứ điệp Kitô giáo, được ngỏ cùng con người nam nữ ở mọi thời và mọi nơi. Để thực hiện điều này, chứng từ về sự thật này cần phải được Giáo Hội bày tỏ, nhất là cần phải được mỗi gia đình là “Giáo Hội tại gia” tỏ ra, một giáo hội tại gia được vợ chồng nhìn nhận rằng họ vĩnh viễn gắn bó với nhau bằng một mối giây đòi phải có một tình yêu luôn đổi mới, quảng đại và sẵn sàng hy sinh.

Người ta không được ngả về chiều hướng chủ trương ly dị, cho rằng cái ngăn trở chúng ta là ở chỗ chúng ta tin tưởng vào những ơn tự nhiên và siêu nhiên của Thiên Chúa ban cho con người. Những khía cạnh về tín lý cần phải được truyền đạt, sáng tỏ và bảo toàn, nhưng liên lỉ hoạt động còn quan trọng hơn thế nữa. Khi đôi vợ chồng đang trải qua những khó khăn, thì mối cảm thông của vị Chủ Chiên, cũng như của tín hữu, cần phải đi đôi với tính cách minh bạch và vững vàng trong việc ý thức rằng tình yêu phối ngẫu là cách thực hiện việc giải quyết tích cực cho tình trạng khủng hoảng của họ. Nếu Thiên Chúa đã kết hợp họ lại với nhau bằng một mối giây bất khả phân ly, thì vợ chồng, nhờ lợi dụng tất cả mọi nguồn nhân lực của mình, cùng với thiện chí, nhất là với lòng tin tưởng nơi sự trợ giúp của ân sủng thần linh, họ có thể và phải thoát khỏi những lúc khủng hoảng tái diễn và tăng phát.

6.- Khi con người nghĩ đến vai trò của lề luật trong những cơn khủng hoảng hôn nhân, người ta chỉ vội nghĩ đến tiến trình chấp nhận giải hôn hay nới lỏng mối liên hệ. Thậm chí có những lúc ý hệ này lan cả vào giáo luật nữa, trở thành đường lối giải quyết những vấn đề hôn nhân của tín hữu theo kiểu không phạm đến lương tâm con người.

Thực sự là đã xẩy ra điều này, thế nhưng, những giải quyết cho gọn ấy cần phải được cứu xét ở chỗ, tính cách bất khả phân ly của hôn nhân, một khi đã thấy là thành hiệu, thì phải được tiếp tục bảo toàn. Thái độ của Giáo Hội, trái lại, hướng chiều về việc hết sức củng cố những cuộc hôn nhân hơn là đi tới chỗ tiêu hôn (x Giáo Luật khoản 1676; Giáo Luật Giáo Hội Đông Phương khoản 1362). Thật sự thì việc công bố hủy hôn, căn cứ vào sự thật biết được qua một tiến trình hợp pháp, phục hồi bình an cho lương tâm, thế nhưng, việc công bố như vậy – cũng áp dụng cho cả trường hợp giải một cuộc hôn nhân ratum non consummatum (thật sự không thành) hay một cuộc giải hôn theo đặc ân đức tin – phải được trình bày và có hiệu lực theo khuôn phép của Giáo Hội, một khuôn phép hoàn toàn hướng chiều về tính cách hôn nhân bất khả phân ly, cũng như hướng chiều về gia đình được bắt nguồn từ hôn nhân. Chính vợ chồng phải là những người đầu tiên nhận ra rằng, chỉ khi nào trung thành tìm kiếm sự thật họ mới có thể thấy được sự thiện đích thực của họ, mà không loại trừ sự khả hiệu tiên quyết của cuộc hiệp nhất, một cuộc hiệp nhất dù chưa phải là một cuộc hôn nhân theo bí tích cũng chứa đựng những yếu tố của sự thiện cho chính họ cũng như cho con cái của họ, một cuộc hiệp nhất phải được cẩn thận thẩm định theo lương tâm trước khi tiến đến một quyết định khác đi.

(còn tiếp)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

TRONG THỜI ÐIỂM MARIA

MẸ MARIA XUẤT HIỆN NHƯ BÌNH MINH 

BÁO HIỆU MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH RẠNG NGỜI TỎ HIỆN...

 

“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất

thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai,

cho dù không cùng một kiểu cách -

  Being the way by which Jesus came to us the first time,

    she will also be the way by which He will come the second time,  

 though not in the same manner

      (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)

 

"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.

Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài,

nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể...

the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary,

He sees that his time is getting short,

and he is making every effort to gain as many souls as possible..."

(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes  ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,

The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)

 

"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".

"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day.
He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".

     (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)

 

Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc

thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của

nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành

của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy

‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó

cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ

với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng

hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con

người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến

trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675)

"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”

March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you.     

(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;

tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha.

Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;

sau đó sẽ là ngày của công lý.

Speak to the world about My mercy;

let all mankind recognize My unfathomable mercy.

It is a sign for the end times;

after it will come the day of justice.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...

Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..."  

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -

Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng

(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa;

nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài,

vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus',

vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis',

là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử',

qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,

vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,

một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương)

để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha -

From her will come forth the spark

that will prepare the world for My final coming”

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)

 

 Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,

và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến

để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -

We are all living in the Advent of the last days of history,

and all trying to prepare for the coming of Christ,

to build the kingdom of God which he proclaimed”

(ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).

 

 

 

Thời Điểm Maria ra mắt ngày 8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được 30.224 lần viếng thăm. Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006. Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006.
 Từ đó TĐM tiếp tục được thêm Hit Counter lần viếng thăm. Đa tạ.

Webmaster@ThoiDiemMaria.Net