THỨ TƯ 11/6/2008
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI THÁNH BARNABÊ Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 31/1/2007 Những Lời Thỏ Thẻ của Chúa Giêsu với một số linh hồn ưu tuyển "'Mẹ Của Con Đó'... Đem Người Về Nhà Mình" (Gn 19:27) Tháng Thánh Tâm ĐTC Gioan Phaolô II Giầu Lòng Xót Thương - Dives in Mesericordia Thông Điệp ban hành ngày 30-11-1980 Những Lời Thỏ Thẻ của Chúa Giêsu với một số linh hồn ưu tuyển "Cha cần lòng quảng đại của người này để làm việc đền tạ cho những người kia." Tháng Thánh Tâm
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI THÁNH BARNABÊ
Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 31/1/2007
Để tiếp tục cuộc hành trình của chúng ta với các vị lãnh đạo tiên phong thuở ban đầu của Kitô Giáo, hôm nay chúng ta nhìn đến những hợp tác viên khác của Thánh Phaolô. Chúng ta cần phải nhìn nhận rằng vị Tông Đồ này là một gương mẫu sống động về một con người cởi mở với việc hợp tác, ở chỗ, trong Giáo Hội, ngài không muốn tự mình làm hết mọi thứ song sử dụng nhiều đồng nghiệp khác nhau của mình.
Chúng ta không thể chia sẻ về tất c ả mọi cộng sự viên quí báu này, vì có nhiều người trong họ. Chỉ cần nhắc lại trong số những người ấy có Epaphras (x Col 1:7, 4:12; Philemon 23), Epaphroditus (x Phil 2:25, 4:18), Tychicus (x Acts 20:4; Eph 6:21; Col 4:7; 2Tim 4:12; Titus 3:12), Urbanus (x Rm 16:9), Gaius và Aristarchus (x Acts 19:29, 20:4, 27:2; Col 4:10).
Trong số nữ giới có Phoeb e (x Rm 16:1), Tryphaena và Tryphosa (x Rm 16:12), Persis, mẹ của Rufus là người được ngài gọi là ‘cũng là mẹ của anh và của tôi’ (x Rm 16:12-13), chưa kể đến cặp vợ chồng như Prisca và Aquila (x Rm 16:3; 1Cor 16:19; 2Tim 4:19).
Hôm nay, trong số đạo binh đông đảo nam nữ cộng tác viên của Thánh Phaolô, chúng ta chú trọng tới 3 vị trong số những nhân vật ấy, những vị có một vai trò quan trọng trong việc truyền bá phúc âm hóa từ ban đầu là Barnabê, Silas và Apollos.
‘Barnabas’ nghĩa là ‘người con của niềm khích lệ’ (Acts 4:36) hay ‘người con của niềm ủi an’, là biệt hiệu của một người Do Thái thuộc giòng họ Levi sinh quán ở Cyprus. Di chuyển về Giêrusalem, ngài là một trong những người đầu tiên theo Kitô Giáo sau khi Chúa Kitô phục sinh.
Với tấm lòng rất quảng đại, ngài đã bán một thửa ruộng của mình, dâng cúng tiền bạc cho các vị Tông Đồ để giải quyết nhu cầu trong Giáo Hội (x Acts 4:37). Ngài trở thành bảo đảm viên đối với việc hoán cải của Thánh Phaolô đối với cộng đồng Kitô hữu ở Giêrusalem, một cộng đồng vẫn tỏ ra ngờ vực về nhân vật đã từng bắt bớ mình (x Acts 9:27).
Được gửi tới Antiôkia xứ Syria, ngài đã tìm kiếm Phaolô ở Tarsê là nơi Phaolô đã đến, và ngài đã sống ở đó cả năm với Phaolô, dấn thân thực hiện việc truyền bá phúc âm hóa cho thành phố quan trọng đó, và ngài đã có tiếng là ngôn sứ và y sĩ tại Giáo Hội ở đấy (x Acts 13:1).
Vậy Thánh Barnabê, ở vào thời điểm xẩy ra những cuộc hoán cải đầu tiên của dân ngoại, đã hiểu rằng giờ khắc của Saulê đã điểm; Saolê đã đến Tarsê là thành phố của mình. Ngài đã đến đó để tìm Saolê. Vào giây phút quan trọng ấy, ngài đã thực sự mang Phaolô về cho Giáo Hội; ngài đã cống hiến một lần nữa Vị Tông Đồ Dân Ngoại cho Giáo Hội ở một nghĩa nào đó.
Từ Giáo Hội ở Antiôkia, Thánh Barnabas được sai đi truyền giáo cùng với Thánh Phaolô, thực hiện cuộc hành trình được gọi là cuộc truyền giáo đầu tiên của vị Tông Đồ này. Thực ra, đó là cuộc truyền giáo của Thánh Barnabê, vì ngài là người được giao phó trách nhiệm. Thánh Phaolô liên hợp với ngài như là một hợp tác viên, băng qua những miền đất của Cyprus và miền trung nam phần của Anatolia là Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay, qua các thành phố Atalia, Perga, Antioch ở Psidia, Lycaonia, Lystra and Derbe (x Acts 13:14).
Thế rồi, cùng với Thánh Phaolô, ngài đã về tham dự biến cố được gọi là Công Đồng Giêrusalem, một công đồng mà sau khi sâu xa khảo sát vấn nạn được đặt ra, các Tông Đồ cùng với các vị trưởng lão đã quyết định loại bỏ vấn đề thi hành việc cắt bì (x Acts 15:1-35).
Cuối cùng, chỉ có thế các vị mới chính thức cho phép thành lập Giáo Hội nơi dân ngoại, một Giáo Hội phi cắt bì: Chúng ta là con cái của Abraham chỉ bằng đức tin vào Chúa Kitô mà thôi.
Hai vị, Thánh Phaolô và Barnabê, sau này đã trở nên đối chọi với nhau vào đầu cuộc hành trình truyền giáo thứ hai, vì Thánh Barnabê muốn đem John Marcô them, trong khi Thánh Phaolô lại không, cho rằng con người trẻ này đã tách khỏi các vị trong cuộc hành trình trước đó (x Acts 13:13, 15:36-40).
Thế nên, giữa các vị thánh cũng có những đối chọi, bất hòa và tranh cãi. Và đối với tôi thì đó là điều rất an ủi, vì chúng ta thấy rằng các thánh nhân đã không phải là những người ‘từ trời rơi xuống’.
Họ cũng là người như chúng ta, với những thứ trục trặc rắc rối. Thánh thiện không phải là ở chỗ chẳng vấp phải lỗi lầm chi hay chẳng bao giờ sa ngã phạm tội. Thánh thiện gia tăng theo khả năng hoán cải, thống hối, sẵn sàng bắt đầu lại, nhất là theo khả năng hòa giải và thứ tha.
Có thế, Thánh Phaolô, vị tỏ ra khó khăn và cay nghiệt với Thánh Marcô, cuối cùng đã gặp lại Thánh Marcô. Trong những bức thư cuối cùng của Thánh Phaolô, một gửi cho Philêmon và một (bức thứ hai) gửi cho Timôthêu, Thánh Marcô đã xuất hiện thực sự như là ‘hợp tác viên của tôi’.
Chúng ta không trở thành thánh nhân vì chúng ta không bao giờ vấp phải một lỗi lầm nào, mà vì khả năng chúng ta có thể thứ tha và hòa giải. Và tất cả chúng ta đều có thể học biết đường lối nên thánh này. Dầu sao thì Thánh Barnabê cùng với Thánh Marcô đã trở về Cyprus (x Acts 15:39) khoảng năm 49.
Từ đó trở đi thì tất cả mọi dấu vết về ngài đều bị thất lạc. Giáo phụ Tertullian đã qui cho ngài Bức Thư gửi cho giáo đoàn Do Thái, rất có thể vì thuộc về chi họ Levi Thánh Barnabê đã chú trọng tới đề tài về thiên chức linh mục. Và Bức Thư gửi cho giáo đoàn Do Thái giải thích một cách đặc biệt vai trò tư tế của Chúa Giêsu đối với chúng ta.
Silas, một trong những vị cộng sự viên khác của Thánh Phaolô, là tên gọi theo tiếng Hy Lạp của một danh xưng Do Thái (có lẽ là ‘sheal’, nghĩa là yêu cầu, là khẩn cầu), một danh xưng có cùng nguồn gốc với tên ‘Saul’ (một danh xưng cũng biến sang hình thức của tiếng Latinh là ‘Silvanus’).
Tên Silas chỉ được đề cập đến trong sách Tông Vụ, trong khi Silvanus lại được thấy trong các bức thư của Thánh Phaolô. Ông là một người Do Thái ở Giêrusalem, một trong những người đầu tiên trở thành Kitô hữu, và đã được nể trọng trong Giáo Hội ở đây (x Acts 15:22), được coi là vị ngôn sứ (x Acts 15:32).
Ông được trao cho trách nhiệm mang đến ‘cho anh em ở Antiôkia, Syria và Cilicia’ (Acts 15:23) những quyết định của Công Đồng Giêrusalem và giải thích những quyết định này.
Hiển nhiên là các vị đã nghĩ rằng ông có thể thi hành một thứ môi giới giữa Giêrusalem và Antiôkia, giữa Kitô Hữu Do Thái Giáo và các Kitô hữu gốc dân ngoại, nhờ đó giúp vào mối hiệp nhất của Giáo Hội theo tính cách đa diện của các nghi thức và các gốc tích.
Khi Thánh Phaolô tách khỏi Thánh Barnabê, ngài đã đưa ông Silas đi với mình như người đồng hành trình mới của ngài (x Acts 15:40). Cùng với Thánh Phaolô, ông đã đến Macedonia (ở các thành phố Philippi, Thessalonica và Berea), nơi ông ở lại, trong khi Thánh Phaolô tiếp tục tiến đến Nhã Điển và sau đó tới Côrintô.
Ông Silas đã đến gặp ngài ở Côrintô là nơi ông hợp tác rao giảng Phúc Âm; thật vậy, trong bức thư thứ hai gửi cho Giáo Hội này, ngài đã nói về ‘Chúa Giêsu Kitô, Đấng chúng tôi, Silvanus, Timôthêu và tôi, rao giảng giữa anh em” (2Cor 1:19).
Điều này cho thấy lý do tại sao ông xuất hiện như là người đồng tác giả, cùng với Thánh Phaolô và Timôthêu, hai Bức Thư viết gửi cho giáo đoàn Thessalonica.
Điều này cũng quan trọng đối với tôi nữa. Thánh Phaolô không hành động ‘đơn độc’, như một cá nhân bị cô lập, mà là với những cộng tác viên của ngài theo chiều hướng ‘chúng tôi’ của Giáo Hội.
Cái ‘tôi’ này của Thánh Phaolô không phải là ‘cái tôi’ lẻ loi cô lập, mà là một ‘cái tôi’ trong ‘cái chún g tôi’ của Giáo Hội, trong ‘cái chúng tôi’ của đức tin tông đồ. Và Silvanus cũng được nhắc đến ở cuối bức thư Thứ Nhất của Thánh Phêrô nữa, như thế này: ‘Nhờ Silvanus, một người anh em trung thành như tôi cảm nhận về ông, tôi đã viết vắn tắt cho anh em đây’ (5:12).
Như thế chúng ta cũng thấy được mối hiệp thông của các vị Tông Đồ. Silvanus phục vụ Thánh Phaolô, phục vụ Thánh Phêrô, vì Giáo Hội là một Giáo Hội duy nhất và việc rao giảng truyền giáo là một việc rao giảng truyền giáo duy nhất.
Người đồng nghiệp thứ ba của Thánh Phaolô chúng ta muốn nhắc tới hôm nay đây là Apollos, một tên gọi có thể được viết tắt từ chữ Appolonius hay Apolodorous. Bất chấp mang tên gọi từ gốc gác dân ngoại, ông là một người Do Thái nhiệt thành ở Alexandria Ai Cập.
Trong sách Tông Vụ, Thánh Luca đã diễn tả ông như là một ‘con người ăn nói hùng hồn, thông giỏi Thánh Kinh… có tinh thần hăng say’ (18:24-25).
Việc Apollos nhập cuộc truyền bá phúc âm hóa đầu tiên xẩy ra ở thành phố Êphêsô: ông đã đi đến đó để rao giảng và ở đó ông đã may mắn gặp được vợ chồng Priscilla và Aquila (x Acts 18:26), cặp vợ chồng ‘đã tiếp nhận ông và dẫn giải cho ông rõ về đường lối của Thiên Chúa một cách xác đáng hơn’ (x Acts 18:26).
Từ Êphêsô ông đã băng ngang qua Achaia cho đến khi ông đến thành Côrintô: Ông đã đến đó qua việc Kitô hữu thuộc giáo đoàn Êphêsô kêu gọi trong một bức thư xin Kitô hữu ở Côrintô hãy tiếp đón ông đàng hoàng (x Acts 18:27).
Ở Côrintô, như Thánh Luca viết, ‘ông đã giúp đỡ rất nhiều cho những ai nhờ ơn Chúa tỏ ra tin tưởng. Ông đã mạnh mẽ công khái bác bẻ những người Do Thái, căn cứ vào Thánh Kinh xác nhận Đấng Thiên Sai là Chúa Giêsu’ (Acts 18:27-28).
Việc thành công của ông ở thành này cuối cùng đã gây ra rắc rối, khi có một số phần tử ở Giáo Hội ấy, cảm thấy khâm phục cách thức nói năng của ông, đã nhân danh ông tỏ ra chống lại những người khác (x 1Cor 1:12, 3:4-6, 4:6).
Thánh Phaolô, trong Bức Thư Thứ Nhất gửi cho Kitô hữu Côrintô đã bày tỏ việc ngài cảm nhận hoạt động của Apollos, thế nhưng ngài đã khiển trách những người Côrintô về việc làm rách nát Thân Thể của Chúa Kitô, khi tỏ ra phân rẽ bằng những cách thức chống đối nhau.
Ngài đã dạy cho họ một bài học quan trọng từ những gì đã xẩy ra là: ngài nói, cả Apollos và tôi chỉ là những ‘diakonoi’, tức là những thừa tác viên mà thôi, thành phần nhờ đó anh em tiếp nhận đức tin (x 1Cor 3:5).
Mỗi một người có việc làm khác nhau trong cánh đồng của Chúa: ‘Tôi trồng, Apollos tưới, song Thiên Chúa là Đấng làm cho mọc lên…. Vì chúng tôi là những người cùng làm việc cho Thiên Chúa; anh em là thửa ruộng của Thiên Chúa, là tòa nhà của Thiên Chúa’ (1Cor 3:6-9).
Trên đường tở về Êphêsô, ông Apollos đã không làm theo lời mời gọi của Thánh Phaolô trong việc về ngay Côrintô mà đã đình hoãn lại vào một ngày nào sau đó chúng ta không biết (x 1Cor 16:12).
Chúng ta không còn biết tin gì về ông, mặc dù một số chuyên gia nghĩ rằng ông có thể là tác giả của Bức Thư gửi cho giáo đoàn Do Thái, một bức thư theo giáo phụ Tertullianô tác giả của nó là Thánh Barnabê.
Ba con người này chiếu tỏa trên bầu trời của thành phần chứng nhân cho Phúc Âm với một đặc điểm chung, ngoài những đặc điểm riêng của mỗi người. Nói chung, ngoài nguồn gốc Do Thái giống nhau, họ đều dấn thân cho Chúa Giêsu Kitô và Phúc Âm, cũng như sự kiện cả 3 đều là hợp tác viên của Thánh Tông Đồ Phaolô.
Trong công cuộc truyền bá phúc âm hóa ban đầu này, họ đã tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và nhờ đó họ cho chúng ta thấy những mẫu thức sáng ngời của việc vị kỷ và quảng đại dấn thân.
Sau hết, chúng ta, một lần nữa, hãy nghĩ đến câu của Thánh Phaolô, đó là cả Apollos và tôi đều là những thừa tác viên của Chúa Giêsu, mỗi người theo kiểu cách của mình, vì chính Chúa là Đấng làm cho phát triển. Điều này vẫn còn hiệu lực với chúng ta ngày nay, đối với Giáo Hoàng, cũng như đối với các hồng y, giám mục, linh mục và giáo dân.
Tất cả chúng ta đều là những thừa tác viên khiêm hạ của Chúa Giêsu. Chúng ta phục vụ Phúc Âm theo chiều kích chúng ta có thể, theo tặng ân chúng ta có, và chúng tax in Chúa làm cho Phúc Âm của Người, Giáo Hội của Người được phát triển ngày nay.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 31/1/2007
Những Lời Thỏ Thẻ của Chúa Giêsu với một số linh hồn ưu tuyển "'Mẹ Của Con Đó'... Đem Người Về Nhà Mình" (Gn 19:27) Tháng Thánh Tâm Tổng Hợp "Những người Thệ Phản làm cho mình hụt mất Đức Tin chân thật, vì họ không chấp nhận việc can thiệp của Mẹ Cha, Đấng Trung Gian cho tất cả mọi Ân Sủng. Hãy kính mến Mẹ Cha để đền tạ sự mù quáng của họ' hãy thường xuyên dâng Mẹ Kinh Mân Côi về đêm, như con được phép của Bề Trên" (với nữ tu Maria Chúa Ba Ngôi ngày 31-8-1941) "Đúng là như thế, những chịu đựng khổ đau của Đức Kitô đã đủ để cứu chuộc con, mà không cần một cộng tác nào của loài người cả. Thế nhưng, Thiên Chúa đã định phải có sự giúp đỡ của Mẹ Cha là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc loài người và là Đấng Trung Gian mọi Ơn Phúc.Thiên Chúa đã muốn cho con người thành Cyrênê phải giúp Cha vác Thánh Giá của Cha, để tỏ cho các con thấy rằng, mỗi người trong các con phải đồng lao cộng khổ với Cha, nếu các con mong muốn nhờ công cuộc Cứu Chuộc mà sinh ích lợi. Ý muốn của Thượng Trí Vô Cùng là như thế. Sự thật là như thế..." (với nữ tu Maria Chúa Ba Ngôi ngày 15-4-1942) "Hãy lăn mình vào vòng tay Người Mẹ thánh hảo và hiển vinh của Cha. Chính ở nơi đó mà con sẽ gặp được Cha" (Với nữ giáo dân Maguerite ngày 12-12-1965) "Người Mẹ thánh hảo của Cha đứng ở giữa nhân loại và Cha. Hãy yêu mến Người và nguyện cầu với Người bằng cả tâm hồn con, vì Người là Mẹ của con và yêu thương các con bằng một tình yêu tha thiết. Hãy luôn luôn nhớ rằng chính Người là Đấng trao Cha vào tay con và dâng con cho Cha đó" (với nữ giáo dân Maguerite ngày 29-5-1966) "Phải, Mẹ Maria là viên ngọc thạch tinh tuyền của Nước Cha. Là Nữ Trung Gian giữa Cha và con người. Là máng chuyển ơn phúc của Cha đến con cái thế gian. Mẹ Maria là ngôi sao sáng, cai quản hết mọi linh hồn trên Trời dưới đất. Đừng coi thường quyền năng của Mẹ, vì đó là một quyền năng bao la. Chính bởi Mẹ mà thần dữ sẽ bị triệt hạ. Thế nên, hãy lấy việc nguyện cầu cùng Mẹ làm quan trọng. Những hành động của con người đáng giá khi chúng được thực hiện với Mẹ và nhờ Mẹ. Khi Mẹ dâng lên cho Cha những tặng vật của các con, bằng đôi bàn tay hiền mẫu của Mẹ, Trái Tim Cha hân hoan vui sướng. Giá các con biết được hơn nữa Trái Tim Người Mẹ dịu hiền của mình, các con sẽ càng qúi trọng tặng ân của tình yêu Cha. Hãy kính mến Mẹ, hãy hiến mình cho Mẹ. Cha càng hài lòng hơn nữa khi nhận lấy các con từ đôi tay của Mẹ. Các con có thể nghĩ rằng, khi Mẹ xin cho các con sự trợ giúp, Cha lại nỡ tâm hất hủi các con hay chăng? Cha buồn biết bao khi thấy Người Mẹ vô nhiễm của Cha bị bỏ bê quá sức, ngay cả trong các nhà thờ của các con. Hãy kính tôn Mẹ như Mẹ đáng tôn kính. Mẹ là Mẹ của Cha cũng là Mẹ của các con. Là mối liên hệ nối kết chúng ta lại với nhau. Cha sẽ ưu ái những ai mang nặng lòng yêu mến Mẹ là Đấng không thôi nguyện cầu cho các con. Mẹ là cột trụ của Giáo Hội Cha. Không gì có thể thoát được tầm mắt coi sóc của Mẹ. Kẻ thù kinh khiếp Mẹ. Hãy phó mình cho Mẹ. Mẹ sẽ mang đến cho Cha những buồn đau của các con, những lo toan của các con, những hân hoan của các con. Hãy tin cậy nơi Mẹ. Cha sẽ không ghen tị đâu" (với nữ giáo dân Maguerite ngày 3-12-1966) "Nếu con yêu mến Người Mẹ thần linh của Cha, Mẹ sẽ nhận lấy trách vụ bảo hộ con và âu yếm chỉ vẽ cho con đường lối nên thánh. Hãy nghĩ đến tình của Người dành cho hết mọi con cái của Người, đặc biệt là cho riêng con. Con cũng thấy rồi đó, vị trí của Người vẫn luôn luôn ngự trị trong cuộc đời của con, ngay cả khi con cùng cực nhất, đồng thời con thấy được cả ảnh hưởng ân phúc của Người tác động trên linh hồn đáng thương của con, khi nó chẳng những đụng độ với hiểm nghèo lại còn chiều theo rất nhiều điều nguy hại nữa. Nên Cha trao cho Người việc chăm lo dẫn dắt con đến với Cha" (với nữ giáo dân Maguerite ngày 8-12-1966) "Mẹ Maria là Bồ Câu dịu dàng của Chúa Thánh Linh. Hãy luôn luôn sốt sắng mến yêu Mẹ mỗi ngày một hơn, và trung thành phụng sự Mẹ. Cha tha thứ cho nhiều lầm lỗi, song những kẻ nào làm nhục Mẹ Thánh của Cha thì đã bị kết án rồi. Phải tăng gia lòng tôn sùng Mẹ Maria' nó rất có thế lực trong việc kềm chế cơn thịnh nộ của Cha..." (với nữ giáo dân Maguerite ngày 23-5-1967) "Cha sẽ không bỏ qua một tí nào những gì xứng hợp với lòng sùng kính Mẹ Thánh của Cha, cho dù vì thế mà các dự trù có bị lỡ đi nữa. Cha đặc biệt lấy làm đau lòng khi nhận thấy rằng nơi một số con cái của Cha thiếu vắng tình yêu đối với Mẹ Maria. Hãy biết rằng ai yêu mến Mẹ Maria thì cũng yêu mến Cha nữa. Cha há đã chẳng được hình thành trong và được dưỡng nuôi bởi xác thể đồng trinh của Mẹ hay sao? Chính tiếng 'Vâng' của Mẹ đã khơi nguồn công cuộc Cứu Chuộc.Chính Mẹ là người đầu tiên đã yêu mến Cha. Không gì làm hài lòng Cha hơn là lòng tôn kính trái tim từ mẫu của Mẹ. Chính trái tim Mẹ đã hiến sự sống cho nhân tính của Cha..." (với nữ giáo dân Maguerite ngày 10-10-1967) Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trong bộ sách "Tội Tràn Lan... Phúc Ngập Lụt"
Giầu Lòng Xót Thương - Dives in Mesericordia (Thông Điệp ban hành ngày 30-11-1980) Tình Yêu Mạnh Hơn Sự Chết và Tội Lỗi Tóm lại, không phải hay sao, đó là vị thế của Chúa Kitô liên quan đến con người, khi Người nói: "Khi các ngươi làm điều ấy cho một trong những anh em nhỏ mọn nhất này... là các ngươi làm điều ấy cho chính Ta" (Mt. 25:40)? Cũng không phải hay sao, theo một nghĩa nào đó, nơi những lời của Bài Giảng Trên Núi: "Phúc cho kẻ có lòng xót thương, vì họ sẽ được thương xót" (Mt. 5:7), mà một tổng lược của toàn thể Tin Mừng, của toàn thể cuộc 'trao đổi diệu kỳ' (admirabile commercium) được chất chứa? Cuộc trao đổi này là một lề luật của chính dự án cứu độ, một lề luật đơn giản, mạnh mẽ, đồng thời cũng 'dễ dàng' nữa. Không phải hay sao, những lời của Bài Giảng Trên Núi này, ngay từ đầu nói lên cái mà 'con tim nhân loại' có thể ("được xót thương"), cũng mạc khải cho thấy, trong cùng một khung cảnh, mầu nhiệm sâu thăm nơi Thiên Chúa: đó là mối hiệp nhất khôn thấu của Cha, Con và Thánh Linh, trong đó, tình yêu, bao gồm công lý, tác động tình thương, để rồi, ngược lại, tình thương tỏ hiện sự thiện toàn của công lý?
Những Lời Thỏ Thẻ của Chúa Giêsu với một số linh hồn ưu tuyển "Cha cần lòng quảng đại của người này để làm việc đền tạ cho những người kia." Tháng Thánh Tâm Nữ tu Maria Chúa Ba Ngôi 31-8-1941 Phải, Cha không muốn con để ý đến những người khác; đó không phải là việc của con, ngoại trừ việc cầu nguyện cho họ. Con có thể dâng cho Cha việc đền tội nho nhỏ thêm mỗi ngày theo ý chỉ đó, nếu Cha (linh hướng) của con cho phép. Ôi, Cha đầy lòng trắc ẩn biết bao! Và Cha mong ước biết mấy, Cha cần lòng quảng đại của người này để làm việc đền tạ cho những người kia. Chính tình yêu là cái làm việc đền tạ. Đối với Thiên Chúa, tội lỗi luôn luôn là một thứ nhu cầu của tình yêu. Hãy yêu thương, yêu thương Chị Em con. Hãy yêu kính các Bề Trên con nhiều; các ngài cần lòng kính yêu này. Song trong thầm lặng. (số 42)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trong bộ sách "Tội Tràn Lan... Phúc Ngập Lụt"
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
|
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |